- 4 - Cánh bướm tím
Cuối cùng thì hai thùng nước đầy phè đã đổ òa xuống và cái sân in hình từng viên gạch cổ vuông vắn chìm dần vào lặng lẽ sau những tiếng bong bóng sôi òng ọc ở những đường gờ nứt nở. Và thằng Ất mười hai tuổi, con bác cả Lễ, tối qua đi xe đạp lên đây ở lại với Thoan, theo mẹ nó nói là để đỡ đần cô sửa soạn ngày giỗ đầu của ông nội, sau lúc kéo gầu nước cuối cùng từ cái giếng xây lên, nhìn Thoan, đã mâng mâng hai con mắt có ý ngóng chờ.
- Lại định vòi cô đấy, hả? Ra bà Xuân ở đẩu ngõ lấy cho cô ít khoai lang vào đây để cúng ông nội đã.
- Ứ ừ. Cháu mệt lắm rồi!
- Làm cái gì mà mệt. Lại đòi tiền đi chơi điện tử chứ gì! Đây, cô cho. Nhưng, nhớ rẽ vào bà Xuân hộ cô. À, mà bố Lễ cháu bao giờ mới đi công tác về?
- Cháu không biết.
Đút tiền vào túi, thằng Ất tươi tỉnh tót ngay ra cổng.
Thốt nhiên căn nhà, khoảng sân, mảnh vườn, cái giếng, bức tường hoa, ngay sau tiếng đóng cổng của Thoan, chợt như buột ra khỏi cái nhìn quen thuộc của Thoan, bỗng trở nên xa lạ và vắng vẻ vô cùng. Cảm giác ấy có, có lẽ còn là do lúc này, trời sập tối quá nhanh và đàn dơi, những con vật có cánh, không lông vũ, như những quái tượng xổ lồng đã vẽ loằng ngoằng rối rít những đường bay tùy hứng, chế ngự và làm nát vụn cả không gian. Vắng vẻ quá, chìa tay ra có cảm tưởng chạm ngay vào bóng mình, Thoan rùng mình vì trạng thái lẻ loi, nhất là khi hàng hiên Thoan đứng đã thoang thoảng mùi hương trầm, chẳng có gì xa vắng hơn mùi hương trầm.
- Thoan, con làm gì ở trong đó thế?
May thay, vừa có tiếng người gọi và ngó ra ngoài cửa, Thoan liền khe khẽ reo:
- Cô Xuân! Cháu vừa bảo thằng Ất nó ra cô, cô không gặp nó ạ?
- Cô gặp nó phóng xe đạp, suýt nữa nó đâm vào bà cụ Tề bán bánh đa ở ngoài ngõ. Ban thờ sửa soạn xong chưa, cháu?
- Vâng. Chỉ còn thiếu mấy thứ đồ ăn khi sống cha cháu rất thích thôi.
- Ừ, khoai lang là món ông cụ thích nhất đấy! Cô có mang theo đây rồi!
Xếp mấy củ khoai lang mập mạp tím sẫm vào cái đĩa đặt lên rìa ban thờ, bà Xuân gài tóc mai, khép nép ngồi xuống cánh phản kê trước bàn thờ đang nghi ngút khói hương, hiện ra mờ mờ giữa hai lá màn xô vén cao. Hôm nay là ngày tiên thường, còn gọi là ngày cáo giỗ, mâm cúng gồm những thức ăn khi sống người đã khuất vẫn thường thích ăn, con cháu phải thắp hương, khấn thổ công, nội ngoại tổ tiên xin phép mời hương hồn người cha về phối hưởng vào ngày mai là ngày tiểu tường giỗ đầu.
Thoan châm thêm hai ngọn nến rồi ngồi xuống cạnh bà Xuân. Trên ban thờ cha, dương sao âm vậy, xếp đầy đồ mã, áo quần, bát đĩa, ngựa xe, đồ dùng vật dụng của cha. Áo xô, mũ chuối, tang phục của con cháu còn vắt bên cạnh. Vẫn còn lại tất cả. Cả cái áo cũ của cha lúc cha nhập quan ở nhà tang lễ, bà Xuân cầm chạy ra giữa sân, huơ huơ lên cao và hú gọi: “Ba hồn bẩy vía anh Lâm ở đâu thì về nhập quan nhé!”. Bà Xuân bảo, sau khi trút hơi thở cuối cùng, hồn cha thoát khỏi thể xác, còn đang phiêu du trên cao xanh, giờ nghe tiếng gọi mới trở về. Và lúc đó, ngay lập tức, ngồi bên thi thể cha, Thoan có cảm giác được đối diện với cha, cha đang ở nơi cõi thế xa xôi mà gần gụi với Thoan xiết bao!
- Cô Xuân ạ, cháu cứ đặt mình là mơ thấy cha cháu. Hôm ba mươi nhăm ngày đưa cha cháu lên chùa, lúc triệu cành phan, cháu hỏi cha cháu có thiếu gì không. Cụ nói: “Không”. Hỏi có thiếu tiền tiêu không? Cụ lắc đầu. Nhưng hỏi có thiếu rượu không thì cụ lại gật.
- Từ hồi về hưu mới thấy ông cụ uống. Nhưng cũng chỉ mỗi bữa một chén nhỏ thôi. Có đúng không?
- Vâng. Cha cháu vẫn tự coi mình như bình thường, chả có bệnh gì sất. Đi khám định kỳ về, có hỏi cha cháu cũng chỉ lắc đầu nói: “Xuất thân thợ thuyền như tao chẳng có bệnh tật gì sất, ngoài cái đốt L2 ở sống lưng chệch đĩa đệm thôi. Mà bệnh này thì không lây, không chết ngay mà cũng không chữa được. Mặc nó”. Vậy mà sau cái hôm đi ăn mừng tân gia nhà anh cả Lễ cháu về, cha cháu còn hỏi: “Tiền của đâu mà nó làm cái nhà to thế!”. Rồi bỗng nhiên ôm ngực kêu đau. Cô ơi, hôm nay là ngày cáo giỗ thì không nói làm gì. Nhưng còn ngày mai, cháu chỉ sợ anh chị cháu mải làm ăn, quên mất thì chẳng biết nói năng thế nào!
- Bác cả đã cho thằng Ất lên giúp cô sao lại không nhớ! Thế, bây giờ còn những việc gì nữa? Mà này, ngoài gia đình mình ra, cháu có định mời những ai đến nữa không?
- Cháu không định mời ai nữa đâu. Nhưng cô à, hai ba hôm nay, cháu liên tục nhận được điện thoại của mấy bác ở tận Thanh Hóa, Nghệ An. Tự giới thiệu là học trò học nghề của cha cháu từ hổi xưa xong, các bác ấy hỏi han kỹ lắm về ngày giỗ của cha cháu.
- Cô có loáng thoáng nghe cha cháu nói, có thời gian ông là thấy truyền nghề cho nhiều lớp thợ.
- Còn tất cả các thứ đồ cúng cháu đều đặt rồi. Nem mọc thì cô làm giúp, chỉ còn mỗi nồi măng là cháu nấu lấy. Thấu đu đủ ngâm giấm cháu bảo thằng Ất thái gọt, nó kêu đau tay, cháu phải làm. Đúng là nhựa đu đủ ra xót da tay lắm, cô ạ.
- Đi bít tất tay cao su vào.
- Vâng. Cô Xuân ạ. Không hiểu vô tình hay hữu ý mà lúc đọc lời cám ơn ở buổi tang lễ anh cả Lễ cháu lại nói: “Trời đã cho cha tôi hưởng dương bảy mươi hai tuổi là đủ”. Biết thế nào là đủ! Với tình thương yêu thì dẫu có sống đến một trăm tuổi cũng chưa đủ, cô ạ. Vắng cha cháu một năm rồi mà cháu đã quen được đâu. Bữa cơm nào cũng vậy, cháu có cảm tưởng cháu vừa ăn vừa đợi cha cháu về. Cháu nhớ chiểu hôm đó, ở phòng cấp cứu, cha cháu đã tỉnh, cha cháu còn nói: “Bây giờ tôi có thể đi bộ về nhà được rồi”. Và cô còn bón cho cha cháu ăn gần hết một bát bún măng cơ mà! Cô ạ, giờ cháu vẫn còn run cầm cập khi nhớ tới lúc ông bác sĩ bảo: “Thôi, không cứu được nữa đâu, để ông cụ ra đi cho thanh thản nhé!”. Rồi rút tất cả dây dợ gắn ở người cha cháu ra! Cô ơi, thật tình là cháu không biết có sống được nữa không, nếu lúc đó cháu không có cô ở bên cạnh. Vì lúc đó hai anh cháu, người thì đang đi nước ngoài, người đang đi nghỉ ở Vũng Tàu. Cháu viết thư cho Hoằng bạn trai cháu. Anh ấy cũng nói là: “Không ngờ cha em đi sớm thế!”.
- Thế bao giờ bạn cháu xong công việc?
- Hoằng biết cháu buồn. Hoằng bảo sẽ tranh thủ thời gian trình bày luận án ở Đại học Ghécsen vào cuối tháng 11 này để về trước hạn định một tháng, cô ạ. À, cô ơi...
- Còn chuyện gì nữa thế?
- Cô ạ. Từ mấy tháng nay, cứ dăm bảy đêm lại có con bướm cánh tím điểm trắng, to bằng hai bàn tay từ đâu bay vào nhà. Sa sẩn ở bàn thờ một lúc rồi vào buồng, cuối cùng thế nào nó cũng đậu lại ở cái chao đèn đầu giường cháu.
- Lúc ấy cháu có thắp hương không?
- Có, cháu thắp hương khấn vong linh cha cháu một lúc thì con bướm bay ra. Đêm hôm qua cũng thế. Cháu đang khấn thì thằng Ất tỉnh dậy. Nghe cháu nức nở: “Cha ơi, cha về với con đấy à?”. Thằng Ất cũng chắp tay vái ông, cô ạ.
- Đúng là thế đấy, người chết đâu có phải là đó xa lìa hẳn mọi người thân.
Ngoài sân, trời đã sập tối từ lúc nào. Chỉ còn nghe thấy tiếng những đường bay như roi quất trong đêm của bầy dơi ăn muỗi. Và thành phố như ở bên kia xứ sở hắt lên lưng trời một vầng sáng hồng nhợt.
Thoan không lưu giữ được nhiều ấn tượng sâu sắc về mẹ. Mẹ Thoan mất khi Thoan còn đang ở tuổi ấu nhi.
Nhớ đến mẹ, Thoan nhớ đến mùi vị thang thuốc bắc sực nức và tự tin bay ra từ chiếc ấm đất đặt trên cái bếp kiềng thọt một bên chân, phải kê gạch và rất hay nghiêng đổ. Thêm một hình ảnh nữa là những ngón tay mẹ gầy gùa xanh xao, chúng lẫn vào với hai que đan nhoay nhoáy chúi xuống trồi lên, một công việc nhỏ mọn, nhằm phụ thêm chút đỉnh vào đồng lương chật hẹp của cha, một cán bộ xuất thân thợ cơ khí tay nghể cao, để nuôi dưỡng một gia đình năm người. Thoan nhớ, mẹ Thoan hay gọi Thoan là Con mắt bò. Mắt Thoan to như mắt bò thật. To đẹp và lúc nào cũng ướt át. Thoan nhớ, có lần mẹ Thoan bảo, Thoan sáng sủa xinh xắn thế, cho đi văn công được đấy, nhưng trông đôi mắt đa cảm của Thoan, mẹ sợ rồi số Thoan sẽ khổ.
Vắng mẹ, thiệt thòi này, khoảng trống vắng này, Thoan nhận ra càng lúc càng rõ hơn khi tiếp xúc với văn học; văn học, cái dòng chảy hồn nhiên, trong xanh và phiêu lãng, nơi in bóng tình người, bao giờ cũng khơi nguồn cảm xúc từ tình yêu với người mẹ. Chẳng có tác phẩm văn học đích thực nào nói về người mẹ mà lại không chân thành tha thiết. Tuy nhiên, bù lại thiệt thòi này, Thoan được hưởng trọn vẹn niềm thương yêu của cha.
Cha Thoan tuổi thìn. Anh cả Lễ tuổi mùi. Anh hai Nghĩa tuổi tý. Hai bà chị dâu của Thoan đều tuổi thân. Thoan tuổi thìn. Bà Xuân nói: “Thoan nấp bóng cha”. Theo lời thầy lý số vì cha Thoan mất lúc hai giờ sáng là giờ xấu, kỵ tuổi thân, mùi, tý nên bên cha lúc khâm liệm chỉ có mình Thoan và bà Xuân.
Chắt từng chén rượu ngâm gừng xoa bóp mỗi khớp xương đã cứng đơ của cha, để mặc áo quần đi bít tất cho cha, Thoan khóc thầm: Cha ơi, không hiểu sao đúng ngày cha đi cấp cứu một tuần, chiều ấy từ cơ quan về, ngang đường gặp người bán gừng, con lại dừng lại mua một xâu lớn. Chả lẽ là đã có sự tiên báo tiền định bắt cha con mình phải xa nhau vĩnh viễn ư? Run rẩy mặc bộ quần áo đẹp nhất cho cha, bộ com lê màu xám kẻ ô vuông may đo ở cửa hiệu, Thoan nhớ một đời làm thợ tay nghề cao, bậc lương lên tới tột đỉnh và cả khi làm cán bộ công đoàn, cha cũng không có một bộ lễ phục tử tế nào. Cha bảo: “Mình già rồi. Vải được thưởng để đấy, có chết, con cái nó còn lấy vải đó may cho chúng được, chứ còn đã thành quần áo rồi thì đứa nào nó chịu mặc”. Nhưng bây giờ thì vải cha được thưởng để đó ai may? Các bà chị dâu của Thoan kêu: Toàn là vải Katê, ốcpho với vinilông cả, họa có nhà quê nó mới thèm mặc. May mà cha còn bộ com lê đẹp. Dạo đó cơ quan làm dịch vụ được lãi lớn, thưởng cho mỗi nhân viên một trăm đồng. Thoan góp thêm năm chục đồng nữa, kéo cha đến tận nhà may Thời Trang phố Tràng Tiền, để may đo cho cha bộ com lê này. Hai tháng sau, sau một lần thử, cha một mình đến nhà may nhận bộ đồ. Thế nào mà cái áo thì vai rúm, vạt lệch. Chiếc quần thì vòng bụng rộng thùng thình trong khi hai ống lại chật khăng khăng. Cha tắc lưỡi: “Thôi thế cũng được”. Nhưng Thoan không chịu. Thoan đến cửa hàng, gặp cửa hàng trưởng, gay gắt: “Thấy ông cụ hiền lành, các anh định bắt nạt hay sao?”.
Sự việc ấy cả nhà đểu biết và không thể ngờ lại mở ra một cuộc bình phán của tất cả các thành viên trong gia đình.
- Con mắt bò thế mà khá! Còn ông cụ, đụt đâu có đụt đến thế!
Anh cả Lễ nhận xét cha vậy, trong khi anh hai Nghĩa thêm:
- Hừ! Đã từng là tỉnh ủy viên hồi cách mạng còn bí mật, thế mà bao nhiêu quyền lợi đáng được hưởng để tuột ra khỏi tay hết. Đấy, cùng là hoạt động trước cách mạng mà người ta cấp chức đàng hoàng, ô tô con đưa đi đón về, nhà cao cửa rộng phân phối ở không hết còn cho Tây thuê, tháng tháng kiếm cả ngàn đô.
Còn chị dâu cả thì chẹp miệng, mát mẻ:
- Hai ông con trai nói bố thế là không công bằng! Cấp chức đàng hoàng! Thì ông cụ cũng oai phong cóc tía một chức giám đốc, thủ trưởng một cái xí nghiệp sản xuất xô tôn với thùng sắt tây, có đến những một trăm công nhân chứ xoàng à! Chỉ tiếc là đường đường một đấng đảng viên tham gia cách mạng từ tiền khởi nghĩa năm 1945, thế mà khi được điều chuyển công tác về Tổng liên đoàn, nó thí cho cái chức phó ban kinh tế hạng bét mà cũng nhận.
Chuyện như đã khơi đúng dòng, nên tới đầy anh cả Lễ lập tức cướp lời vợ:
- Các cậu sinh sau không biết đâu! Ngay đất tổ tiên để lại cũng chẳng biết giữ nữa là. Đất nhà mình ngày xưa ấy à, gồm cả dãy nhà bên kia đường kia kìa. Ngu ngơ quá để hàng xóm nay nó lấn, mai nó ép, nay chỉ còn có hơn trăm mét, hèn đến thế là cùng.
Và chị dâu cả như được thể, dài giọng:
- Thật không thấy đâu như ở đây. Hễ mở miệng khuyên bảo con cháu, không là: “Hãy ăn bớt bát, hãy nói bớt nhời đi, các con ơi!”. Thì lại là: “Chó nó có dây xích một mét rưỡi thì đứng xa ra một mét sáu, các con ạ”. Có đúng là hiền giả quá ngu không!
Còn chị dâu thứ suốt cuộc đã im lặng, giờ mới thấy không thể cứ ở vòng ngoài, nên sau một cái ngáp dài, liền cau mặt, khủng khỉnh:
- Tôi về làm dâu cái nhà này sau, nhưng theo tôi nhận xét, ông cụ cũng ghê gớm, cũng ương ngạnh ra phết đấy. Đấy, chả kình nhau dai dẳng với tay gì cấp trên ở Tổng cục kinh tế thuộc Tổng liên đoàn suốt chục năm trời, rồi bị lão ấy trù úm, vùi dập cho đến thân bại danh liệt đấy thôi!
Con người là chính nó và cũng có thể là biểu trưng cho một cái gì đó mà anh ta và những người xung quanh còn biết rất lơ mơ. Tuy vậy, nếu cần nói về tính cách của cha trong một câu thì Thoan có thể nói: “Cha tôi là một người hiền lành và cương nghị; hiền lành và cương nghị - hai mặt đối lập trong một thể thống nhất hữu cơ”.
Hiển lành, thật thà là phẩm hạnh cơ bản của người lao động lương thiện, là cách sống hồn nhiên giữa người và người trong mối tâm giao bạn bè. Phải chăng, nhiều khi đức tính này không được một bảo hiểm bằng một đức tính khác, ví dụ, tính nguyên tắc, nên có cảm giác cha là người nhu nhược, yếu hèn? Chưa phải là những chuyện xa xôi mà ngay việc cha để mất đất đai của tổ tiên để lại như anh cả Lễ nói đã là có thật. Thổ đất của gia đình xưa rộng rãi lắm. Đó nguyên là một vùng ao hồ hoang vu rồi được mấy anh em cha bỏ sức ra san lấp, biến thành khu vườn trồng trọt hoa màu, rộng có đến dăm trăm mét vuông. Sau này các anh trai cha vào Nam bộ làm phu đồn điền cao su, thất tán mỗi người một nơi, đất này mới để lại cho riêng cha gìn giữ. Chuyện cha bị lừa mất đất thì nhiều, chẳng hạn, một ngày kia bỗng có một gã trai gầy còm đầu bù tóc rối được cha dẫn về nhà. Cùng với việc nấu cơm cho gã ăn, cha lại còn cho gã ở nhờ trong một túp lều nhỏ ở một góc vườn nguyên là nơi để than củi. Hỏi ra, mới biết gã nọ là thợ tiện bậc 5/7 của xí nghiệp. Gã khai là bị con vợ tai quái cho mọc sừng và đuổi ra khỏi nhà, giờ cầu bơ cầu bất không biết nương nhờ vào ai. Thương tình kẻ gặp hoạn nạn, lại muốn giữ gìn của quý là thợ lành nghề cho xí nghiệp, cha liền tự nguyện đa mang đèo bòng nó vậy. Không ngờ thời gian bôi nhờn các quan hệ, kẻ được cưu mang được đằng chân lân đằng đầu, nên chỉ hơn năm sau cơ ngơi nhà cửa nó đã loang rộng gần hết khu vườn, tiếp đó, lấy vợ mới, dựng nhà xưởng chế biến đậu phụ, xây tường vi, cát cứ đất đai, thành lãnh địa riêng. Nhẹ nhàng khuyên bảo nó thì nó phớt lờ. Lấy lý cản ngăn nó thì nó sửng cổ, giở trò càn rỡ, vác dao búa ra tính chuyện ẩu đả. Hóa ra nó là thằng chuyên lừa đảo, đã từng ra tù vào tội mà cha không biết.
Cha đã nhẹ dạ, cả tin hay nhu nhược yếu hèn ở trường hợp này? Và ở câu chuyện sau đây nữa. Có một thằng bé ở đâu đến xưng là cháu ông Cẩm, một người bạn thợ cùng làm việc với ông từ hồi còn ở trong công binh xưởng trên Việt Bắc. Nó van nài cha: “Ông Lâm ơi, ông lấy quyền cha chú đến can bố cháu hộ cháu mới, không bố cháu giết chết cháu mất. Cháu không đánh mất xe máy của bố cháu. Cháu chỉ cho bạn cháu mượn thôi. Thế mà bố cháu không tin, cứ cầm con dao đứng ở trước cửa, bảo: Mày mà vào đây thì mày toi đời”. Động lòng trước tình cảnh đứa trẻ, cha lấy chiếc xe đạp Mipha đèo nó đi. Nó chỉ căn hộ trên gác năm cao tít, sụt sịt bảo cha: “Ông lên đi, cố khuyên giải bố cháu hộ cháu, cháu ở dưới này giữ hộ xe ông”. Vòng vèo năm lần cầu thang, lên đến nơi, phì phò hỏi mới biết ông Cẩm bạn ông đúng là ở đây, nhưng ông không có đứa cháu nào cùng ở, cũng không có câu chuyện như đứa trẻ kể. Biết là bị lừa, vội quay xuống, thì ôi thôi, chỉ còn thấy mặt đất trống trơn, còn chiếc xe Mipha một phần gia tài quan trọng của gia đình và thằng bé nọ đã biến mất rồi.
- Thật là to đầu mà còn dại! Đúng là không có cái dại nào giống cái dại nào!
Vợ chồng hai anh lớn nghe chuyện ra sức mỉa mai chê trách cha. Cha im lặng. Sự đời lắt léo thế ai lường trước được. Mẹ nói: “Thôi của đi thay người, buồn làm gì”. Còn bà Xuân thì an ủi cha: “Dễ tin người là một nhược điểm dễ thương nhất của người ta đấy, anh Lâm ạ”.
Ôi, bà Xuân, người phụ nữ mến thương gần gụi nhất với gia đình Thoan, một thành phần trong cái cơ cấu quan hệ đặc biệt với gia đình Thoan, điểm tựa tinh thần mấy chục năm qua của bố con Thoan, đặc biệt là từ khi mẹ Thoan, người phụ nữ mảnh khảnh yếu đuối cả tinh thần lẫn thể chất, sinh Thoan được ít lâu thì đổ bệnh nằm liệt rồi mất. Bà Xuân và mẹ Thoan cùng là y tá của một sư đoàn. Tâm đầu ý hợp, vừa là đồng chí vừa là đồng nghiệp, hai người kết nghĩa chị em, cùng ra khỏi quân ngũ một ngày. Không muốn rời xa nhau, vả lại, ở vùng quê Nam Định cũng chẳng còn ai thân thích nên bà Xuân ở lại thành phố này, gần gụi sớm hôm với gia đình Thoan.
Tươi đẹp nhuần nhụy ở tuổi bốn mươi, rồi cứ trẻ trung mãi với vóc dáng đàn bà vừa nảy nở trọn vẹn, vừa gợi cảm hồn nhiên, bà Xuân là một tính cách phụ nữ đặc sắc. Mạnh bạo và khéo léo, sõi việc đời, nhưng thấu tình đạt lý, bà Xuân được cả cha và mẹ Thoan vô cùng quý mến, tin cậy. Ông Lâm nói: “Cô Xuân suy nghĩ thì cứng rắn, nhưng nói năng thì mềm mại, Thoan phải học cô điều ấy”. Bà Xuân chính là người đã bế ẵm Thoan từ lúc Thoan mới lọt lòng. Vì từ lúc đẻ Thoan, trong người mẹ Thoan đã mang mầm bệnh nên yếu ớt lắm. Nên từ việc quấn cái tã, bón thìa bột, dỗ dành, nâng giấc Thoan, bà Xuân cũng đã là bà mẹ thật sự của Thoan rồi.
Bà Xuân hiểu cha lắm. Trước sau cha vẫn là vậy thôi. Và cha còn tiếp tục bị lừa, bị phản bội, càng về sau càng chua chát hơn. Cuối cùng, thì chính là kẻ mang ơn cha, tên phó giám đốc tham lam được cha chia sẻ trách nhiệm, thoát khỏi vòng lao lý, đã dựng lên cả một câu chuyện dài với ý đồ quật ngã cha, lật đổ cha khỏi chức giám đốc cái xí nghiệp chuyên sản xuất xô, thùng con con nọ. Khốn nạn! Cha, lẽ ra, với lịch trình công tác, với công sức đã cống hiến và phẩm chất đã thể hiện, ít ra phải giữ một trọng trách ở một ngành công tác ở trung ương! Không! Cha không màng chức vụ, công danh và tiền tài! Hai chục năm, vẫn một bậc lương không đủ nuôi sống mình. Nhà cửa không nhận phần. Một chiếc xe đạp phân phối cũng không. Cha khái tính, không thèm cất một lời khiếu nại khẩn cầu. Cũng lại là cái thói quen hay nhường nhịn, thương người, cảm thông với hoàn cảnh chung. Trong khi ấy, một kẻ khác, tên Tổng cục trưởng mà cha biết chắc nó là tên phản bội cách mạng, đầu hàng đế quốc lại ngang nhiên ngồi trên đầu ông, sống một đời vương giả, một mình làm chủ đến ba bốn cái vila, có cả ngoại tệ gửi ngân hàng ngoại quốc, chính hắn đã liên minh với tên phó giám đốc phản trắc nọ nhổ cái gai nhọn là cha. Đòn hội chợ đã đánh bật cha ra khỏi vị trí đứng đầu xí nghiệp nọ. Nhưng cha đâu có chịu khuất phục. Cái tính khí ương bướng của cha mà anh cả Lễ nói tới là ứng vào dịp này. Cha hóa thành kẻ đối đầu với tên Tổng cục trưởng nọ. Gần một trăm lá đơn và gặp gỡ đối chất. Đã có lúc chính cha cũng tưởng không đủ thời gian và sức lực. Nhưng không, kẻ đào giếng một khi đã tin chắc, thì cứ mình trần lấm láp, chịu khó chịu khổ đào bới kiếm tìm cho kỳ tới nguồn mạch mới thôi.
Về mặt này, anh cả Lễ và anh hai Nghĩa là những người giống cha. Họ là những kẻ có năng lực và ý chí thật. Bốn mươi lăm tuổi, anh cả đã là thứ trưởng một bộ kinh tế. Bốn mươi, anh hai là viện phó một viện khoa học. Nghe tin cha phải đi cấp cứu, họ gọi điện tới tấp về cho Thoan: “Khốn nạn thế! Tiêu chuẩn của cụ đáng lẽ phải là A1 bệnh viện cao cấp, chứ đâu có phải cái xó nhà thương bình dân ấy”. Anh cả Lễ còn gọi điện trực tiếp cho giám đốc, trưởng khoa bệnh viện nọ, nhắc nhở họ việc săn sóc thuốc thang cho ông cụ, cuối cùng còn biết nguyên nhân dẫn đến cái chết của cụ là do vỡ tim. Vỡ tim! Ngu đến thế là cùng! Anh cả Lễ kêu trời trong điện thoại gọi cho anh hai Nghĩa. Anh bảo tim cụ, động mạch vành của cụ trục trặc từ lâu, lại không chịu đi chữa, vì còn mải gây gổ, kiện tụng với cái thẳng cha lãnh đạo nọ. Dở hơi, gàn quái quá chừng. Nó chẳng qua cũng là một bãi cứt trong cả một đống cứt lớn ở nhà xí, thối là thối chung chứ riêng gì cụ ngửi mà cụ uất tức. Hai anh trai Thoan nhất trí cho rằng cha Thoan là kẻ không thức thời, để thiệt thân!
Hay đến nhà Thoan sau lễ an táng cha là hai bà chị dâu của Thoan. Nhưng xem ra họ cũng chẳng mặn mà gì lắm với việc kiểm kê tài sản, đồ nhật dụng của cha. Họ chỉ đảo mắt qua nhà cửa, cái sân, cái giếng, mảnh vườn, rồi bỏ đi. Những hôm Thoan ốm, họ ở lại lâu hơn, nhưng cũng chỉ sẩm tối là ra về.
Cha Thoan, tài sản riêng để lại, thật tình chẳng có gì đáng kể. Hai bà chị dâu chẳng đoái hoài tới là phải. Ấy là chưa kể khi Thoan xuống bếp nấu nước, bà chị dâu cả còn ghé tai bà chị dâu thứ khúc khích: “Nói thật với cậu, lão Lễ nó thúc thì tớ phải đến thôi, chứ mấy thứ này, bất quá như thứ hàng thùng, lại đồ của người chết nữa, nghĩ đã thấy ghê bỏ cha đi ấy!”.
Cha có một va ly quần áo. Ngoại trừ bộ com lê mặc lúc liệm, còn toàn đồ cũ. Một chiếc săng đay tím than, cổ lọ. Hai chiếc khăn tắm tổ ong. Vài cái quần đùi vải diềm bâu, lồng giải rút. Ba chiếc áo sơ mi xanh sĩ lâm. Bộ bà ba nâu. Đôi bít tất chân màu cỏ úa. Chiếc mũ cát két xanh. Hòn đá kỳ. Những chiếc mùi xoa ngả màu thêu hoa ở góc khăn. Ngoài ra là một cái cặp da sờn, khóa đã rỉ đựng giấy tờ, sổ sách. Cuốn lý lịch đảng viên bong bìa. Mấy cuốn sổ lưu niệm. Một sổ lịch Nhân dân bìa ni lông đỏ năm 1969. Tấm ảnh Bác Hồ tặng chiến sĩ diệt dốt. Đáng lưu ý là cuốn anbom, toàn ảnh đen trắng, có tấm chụp mẹ Thoan và bà Xuân, thời thiếu nữ tóc để bờm, mặc áo sơ mi cổ lá sen. Một tấm ảnh cha chụp chung với mẹ, cha húi tóc cao, mặc áo đại cán, mẹ mặc áo vét cổ bẻ, nét mặt cả hai đều rất ngượng nghịu. Có một chiếc ảnh vừa nhác thấy, Thoan đã phải giấu ngay đi vì sợ hai bà chị dâu thóc mách. Ảnh màu, nước ảnh còn mới. Đó là ảnh chân dung bà Xuân. Bà mặc áo dài tím, đeo dây chuyền và hoa tai vàng, vẻ mặt rất tươi mười, trẻ trung và mãn nguyện. Sau ảnh là dòng chữ bà viết nắn nót: Một đoạn đường mới của cuộc đời. Hạ Long mùa thu 1998.
Thật tình là đọc dòng chữ nọ mặt Thoan đã đỏ bừng và tim Thoan ngay lúc ấy đập rộn ràng. Ôi, như vậy là đã có một điều gì đó vô cùng hệ trọng đã xảy ra trong sự huyền nhiệm của đời sống. Nói cách khác, đã có điều gì đó đã từng hiện ra mập mờ trong sự phỏng đoán đầy lo âu và hồi hộp của Thoan, giờ đây đã sáng tỏ giữa thanh thiên, đối diện trực tiếp và thử thách thái độ Thoan.
- Cô ơi, ông có cái hòm gì nặng lắm, cô ạ. Ông đựng gì ở trong này, hở cô?
- Cháu mở ra đi!
- Ối! Toàn là kìm, búa, mỏ lết, cờ lê các loại, cô ạ.
- Đồ nghề của ông đấy.
- À mà cô ơi.
- Cháu muốn hỏi gì?
- Ông mất tức là không còn gì nữa, hả cô?
Thằng Ất vừa nói vừa bê từ trong buồng cha Thoan ra một chiếc hòm gỗ nặng chịch. Đó nguyên là chiếc hòm đạn 37 ly, đã tróc sơn, nhưng còn rất chắc chắn.
Đóng nắp chiếc hòm lại, thằng Ất ngẩng lên. Hai con mắt nó thoáng nỗi bơ vơ, ngơ ngác. Thoan biết nói thế nào để nó hiểu nhỉ? Cái chết nói chung là dấu chấm hết một cái gì đó tích cực, một sự sống. Nhưng nếu nghĩ rằng, cái chết là sự đứt đoạn hoàn toàn thì dứt khoát là không phải rồi!
Ất là thằng cháu đích tôn của ông Lâm. Nó là đứa cháu nội gắn bó nhất và do đó có ấn tượng kỹ lưỡng nhất về ông. Ông dạy nó từ cách gọt bút chì. Ông cầm tay nó tô những chữ tập viết đầu tiên. Ông sửa cho nó cái cách cầm bút mấy ngón tay chum chủm như cầm bút lông nên chữ viết vừa cứng quèo vừa gẫy nét. Ông dậy nó học tiếng Pháp. Uốn nắn rất lâu nó mới phát âm được phụ âm erờ rung trong từ Pari, Camêrun. Ông bảo, đuổi con chó con mèo trong nhà thì dùng tờ báo cuộn tròn lại phát nhẹ vào lưng chúng. Tiếng phát nghe to, con vật sợ, nhưng lại không gây đau cho nó. Phơi áo len muốn không bị giãn, tốt nhất là để chiếc lồng bàn trên sân nắng rồi rải cái áo len ướt lên. Đóng đinh, thoạt đầu đóng mớm, rồi cứ một nhát ướm một nhát nện mạnh, đầu ngọn búa phải vuông thước thợ với mũ đinh. Với Thoan thì cha dậy: “Khi tiếp khách, chỗ ngồi của chủ nhà là ở chiếc ghế quay ra phía cửa ra vào, ở vị trí này mới có tầm nhìn bao quát”.
Cha vẫn còn quanh quất đâu đây, trong những điều cha dạy bảo, nằm ở thể vô thư, vô ngôn, giản dị thường ngày.
Chị dâu cả tên Bỉnh xuất thần nhân viên bán xăng dầu; từ ngày lấy chồng tức anh cả Lễ hồi đó làm vụ phó vụ Tổ chức, đã bỏ việc, ở nhà vì chửa đẻ liên miên, người gầy tong teo, giờ dùng lưỡi làm ra tiền, ỷ thế chồng chuyên việc đi xin quảng cáo cho các báo chí, ăn hoa hồng phần trăm, kiếm bạc triệu ngon ơ. Chị dâu thứ tên Thìn, hơn chồng năm tuổi, béo tốt phây phây, học hết lớp bẩy là ở nhà, trước là con theo mẹ, giờ mẹ con là bạn hàng, cùng hùn vốn buôn bán hàng Tàu từ biên giới về hoặc đồ second-hand của Thái, xe đạp bãi của Nhật, tháo vát, giỏi giang đường sinh lợi. Về nhan sắc, ở tuổi bốn mươi cả hai đều chẳng xấu, chẳng đẹp. Giống nhau ở chỗ, làm việc gì họ cũng tính toán chi li lợi hại, đường đi nước bước sau trước ngọn ngành. Cả hai từ ngày về làm dâu nhà này, thấm nhuần câu Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng, nên thiết lập ngay một quan hệ lãnh đạm với Thoan. Ít khi họ đến thăm nom Thoan và ông Lâm. Phần vì cả hai đều là sản phẩm của một thời coi trọng thời gian - thời gian là thứ vật chất thượng đẳng. Phần vì ngày rằm ngày đầu tháng họ còn bận đến các đền chùa miếu mạo. Đền Sòng phố Cát. Đền Xanh Tuyên Quang. Bến Đền Lào Cai... Chả nơi thờ phụng thiêng liêng nào mà họ không vi hành tới dâng hương, xin lộc, cầu tài.
- Tôi đã gặp thượng tọa chùa Trấn Quốc rồi. Đưa vong cụ lên đó vừa mát mẻ, đẹp đẽ, vừa thuận đường đi lại cho cô. Tốn kém thì cũng phải chi, cô Thoan ạ.
Một hôm chị dâu cả đến nhà nói. Chị dâu thứ chép miệng:
- Vấn đề là xem tiền nong lấy ở đâu bây giờ?
Vuốt hai mép, chị dâu cả làm như vô tình:
- Thế sổ tiết kiệm của cụ để lại có được dăm chục triệu không, cô?
- Không nhiều thế đâu chị ạ - Thoan đáp - Trong sổ tiết kiệm, cha chỉ có ba triệu đồng tiền thưởng huân chương lúc về hưu thôi.
- Ba triệu đồng!
- Vâng.
- Lạ nhỉ, thế tiền lương hưu hàng tháng của cụ tọt cả vào cái lỗ nẻ nào?
Chị dâu cả nhíu mày. Chị dâu làm như lảng chuyện:
- À, Thoan này, cái hôm làm lễ tang ông ấy mà, người ta phúng viếng được tất cả là bao nhiêu? Chi tiêu thế nào? Có thiếu thì cô cũng phải cho biết để anh chị bù thêm vào cho chứ!
Mắt mở trân trân, môi Thoan mím chặt. Thoan nhớ rằng, suốt buổi tang lễ, Thoan phải tựa vào vai bà Xuân và úp mặt vào chiếc khăn tay ướt đầm. Dẫu sao thì bà Xuân cũng còn tỉnh táo. Bà còn để ý thấy, hễ cứ có đám khách nào đặt tiền phúng lên bàn thờ cha Thoan, là lập tức ngay sau đó, hai bà chị dâu của Thoan vội vã chen ra nhót lấy, đút túi liền.
- Em đang mệt - Thoan nói - Nhưng các chị khỏi phải lo hộ em. Thiếu thì em vay, em trang trải tất cả mọi việc, kể cả việc đưa vong cha lên chùa sắp tới. Còn thừa thì em sẽ báo cáo với tất cả các anh các chị, để lo việc xây mộ, sang cát cho cha sau này.
Đó là những ngày Thoan ốm đau lệt bệt. Sau những ngày đêm liên tục săn sóc cha ở bệnh viện, tiếp đó là liền một tuần lo việc an táng cha, nỗi đau tâm thể và cơn mệt nhọc quá sức chịu đựng đã đánh quỵ Thoan. Lại đang là lúc cần dồn sức cho kỳ thi tốt nghiệp Đại học Ngoại thương sau năm năm trời học tập căng thẳng. Hoằng từ Nga gọi điện về, lo âu đến lạc cả tiếng. “Sao gần tháng nay rồi, anh không nhận được thư em?”. “Cha mất rồi. Em đang bị viêm phổi!”. Chỉ đáp được tưng ấy tiếng, Thoan đã kiệt sức, buông máy. Chị dâu cả chèm chẹp môi bình: Cô Thoan còn phải ngất ngư đúng trăm ngày. Sau đó thì có đỡ mới đỡ. Giọng rất dửng dưng, chị dâu thứ tiếp: “Không thì ít nhất cũng phải sau lễ định nghiệp bốn mươi chín ngày. Còn bây giờ ý à, hồn cụ còn lơ vơ lưởng vưởng quẩn quẩn quanh quanh ở trong nhà, còn là khổ!”.
Qua trận viêm phổi, huyết áp Thoan tăng đột ngột lên 220/100. Đi cấp cứu, uống thuốc một tuần, đơ đỡ thì phát hiện có hai dạng, hai ổ ngoại tâm thu, nhịp tim đập hàng năm trăm lần trong khi chỉ số cho phép chỉ là ba trăm trong một ngày đêm. Lại phát hiện thêm nguy cơ dầy thất trái. Rõ ràng là trạng thái stress, những xúc cảm âm tính đã gảy nến những tổn thương nặng nề cho sức khỏe của Thoan.
Chập chờn trong trạng thái bệnh tật dằng dai, Thoan càng nhớ đến cha mỗi khi Thoan đau ốm. Nhớ chai nước muối cha pha để súc miệng hàng tối. Cha nói: “Nhà mình từ cha đến anh Lễ, anh Nghĩa, con, đường hô hấp, nhất là họng, đều yếu, dễ nhiễm khuẩn lắm”. Nghe người ta mách, cha lặn lội lên tận Hòa An, Cao Bằng xin cây cóc mằn về trồng để chữa bệnh viêm xoang cho Thoan. Trời! Ngành y tế toàn thế giới vậy mà hóa ra là cái anh vô tích sự nhất hạng, có tí xoang mũi mà có chữa được đâu! Xót con gái, cha có lúc nặng lời như vậy. Cha dặn phải ăn nhạt bằng nửa người ta. Nên ăn ít trứng, ăn nhiều hoa quả. Lại không được xào gan lợn với giá, ăn thịt gà với kinh giới. Trong nhà có riêng một tủ thuốc, một cái cặp bìa đựng hàng trăm tờ giới thiệu công dụng các loại thuốc, đặc biệt là bệnh tim, bệnh của mẹ.
Hình bóng cha còn in đậm trong nỗi nhớ của Thoan.
Cha kể, hai mươi tuổi, lần đẩu tiên được đi giầy, như trẻ con, cha còn đi nhầm chân nọ sang chân kia. Cha học nghề cơ khí ở trường Bách nghệ. Đi làm, cha là thợ áo xanh, tức thuộc đẳng cấp cao hơn thợ áo nâu, lương cha được một đồng một ngày, trong khi thợ đàn bà chỉ có lương bẩy xu một ngày thôi. Nhưng, ở phân xưởng cha làm, chủ đặt một cái bồ tre đan, cắm sẵn hơn chục roi mây, để cai ký thuận tiện rút ra đánh thợ ngay lúc cần! Vì vậy khẩu hiệu đấu tranh của thợ hồi đó thường là rất cụ thể. Ví dụ: Tăng lương mỗi ngày thêm năm xu! Không được đánh đập thợ! Phải có nhà nghỉ trưa cho thợ! Và tất nhiên ở đỉnh cao là cuộc đấu tranh chính trị đã có mặt cha.
Kỳ lạ, bóng hình cha sao nhiều lúc quấn quýt không rời bóng hình bà Xuân! Lại như trở lại trong nỗi nhớ, một sáng chủ nhật trời trong xanh, nghe tiếng gọi cổng chạy ra đã thấy bà Xuân tay xách cái làn thức ăn đi vào. Thoáng cái, trong bếp, hai bếp dầu đã bốc lửa xanh lơ. Và công việc bếp núc của hai cô cháu mới tíu tít vui vẻ làm sao! Trời! Cô Xuân, sao cô khéo thế! Nhiều lúc Thoan thốt lên sung sướng. Bà Xuân dạy Thoan từ cách luộc con gà sao cho chín đều mà không bị quắt cũng không bị nứt nở. Hôm ấy, ngoài món gà luộc, hai cô cháu còn làm nem để cúng mẹ, nhân thể đãi cha vừa được bầu là chiến sĩ thi đua toàn ngành. Bắc cái chảo rán lên, đợi mỡ sôi lăn tăn, bà mới bỏ vào chảo nhúm gừng giã nhỏ và vài giọt chanh vắt. Bà bảo, như thế nem sẽ giòn lắm. Bà nói: “Cô mới học được hôm rồi cô và bố cháu với cháu đi ăn ở nhà hàng trên Ngõ ẩm thực Kỳ Đồng đấy”. Chuyện lan man thế nào mà bỗng Thoan ôm cô và như là buột miệng: “Mẹ cháu gọi cháu là Con mắt bò. Nhưng chính cháu là dạ dày bò mới đúng, cháu ăn khỏe như đàn ông ấy. Cháu là đàn ông thì cháu yêu cô liền”. Bà Xuân cười nhưng lắc đầu quầy quậy, bảo: “Cháu nói thế, cô tưởng thật thì nguy to”. Thoan kêu: “Không cháu nói thật đấy”. Thì bà nói lảng: “Cô và mẹ cháu giống nhau ở chỗ nào cháu biết không? Cũng hay cả nể lắm. Nhưng khác nhau là mẹ cháu thì chịu nhịn, chứ cô ấy à, vua chết thì chúa cũng phải băng hà, cô mà bị đứa nào lật lọng, cô phải cho nó tan hoang”. Không, lần này thì Thoan không để bà lảng chuyện. Thoan không buông tha bà. Nên bà chưa dứt lời, Thoan đã níu vai bà: “Cô ơi, cháu hỏi câu này cô phải trả lời nhé. Cô đẹp thế, cô khéo thế, sao cô không lấy chồng?”. Câu hỏi không ngờ làm bà đỏ chín mặt. Bà kêu nghèn nghẹn: “Cô mà đẹp, cô mà khéo ư! Chẳng qua là chẳng ma nào nó thèm. Thật đấy! Cái gò má sát chồng của cô đây này, cháu có thấy không?”. “Không phải!”. Thoan phản bác thì bà lặng đi hồi lâu. Rồi nhìn Thoan, bà chớp chớp mắt khe khẽ: “Thoan ơi, khi người ta đã yêu sâu sắc một người thì không sao có thể thay đổi được nữa. Cháu có nhận thấy như thế không?”. Một cơn rùng mình chạy dọc lưng, lan ra hai cánh tay Thoan. Ôi bà Xuân! Trong bà có cả một câu chuyện dài bí ẩn.
Đây gió, đây trong rừng, đây cánh đổng, kia cánh đổng đầy bao phóng khoáng. Kìa cô em thân yêu cô sầu nhớ chi trong lòng... Hôm ấy, chắc là vui lắm nên ông Lâm mới cất tiếng hát bài hát tủ độc nhất vô nhị đó. Giọng ông khan khan, nghiêng nghiêng ngả ngả. Ông ngó vào bếp, giọng cao bổng: “Hai cô cháu làm gì mà tưng bừng thế!”.
Hôm ấy, lần đầu tiên bà Xuân dạy Thoan khấn. Bà nói: “Khấn không đúng bài, dù có mổ ba bò chín trâu mời mẹ, mẹ cũng đứng ngoài cửa khóc, không vào nhà được”. Dấu ấn của buổi ăn chẳng dễ phai mờ được là sau khi hương tàn, mâm cơm từ bàn thờ hạ xuống chiếc bàn nhỏ, cha rót rượu cẩm ra ba cái ly nhỏ. Bà Xuân nâng ly, chạm vào cạnh ly của cha, thỏ thẻ: “Xin bác cho khất dịp khác vì hôm nay em hơi váng đầu”, cha nhân nhượng, cười tủm tỉm: “Ừ, thì cho cô khất đến dịp khác, nhưng dịp khác không có nhiều lắm đâu nhé!”.
Đó là một câu nói ý nhị, hàm ẩn nỗi dịu dàng vô tận của cha với bà. Bữa ăn ấy ngon vì câu nói ấy của cha. Vì hai món thịt gà và nem rán. Vì còn râm ran câu chuyện về Hoằng. Người miền trong họ thường có ý chí hơn người, Thoan ạ. Tiếp lời bà Xuân, cha nói: “Đạo đức, tài năng, anh hùng, ba mặt đó người đàn ông cẩn có”. Hoằng là một sinh viên trẻ ở khoa Sử Đại học Quốc gia thường hay đến hỏi cha về Tổ chức Công hội đỏ và hoạt động của cha, những việc làm khiến cha nổi tiếng là người thợ lành nghề từ thời Pháp thuộc. Hoằng, người quê Hà Tĩnh, đẹp người, thông minh, hiện giờ đang làm luận án tiến sĩ ở bên Nga, đã yêu Thoan từ hồi đó. Nghĩ đến tình yêu của mình với Hoằng, Thoan lại chạnh nghĩ tới cha và bà Xuân. Hai người rất đáng chung sống với nhau. Nghĩ vậy mà trong sâu xa, Thoan lại buồn rũ vì thấy xót cho mẹ quá!
Sức khỏe là thứ mất đi rất khó lấy lại. Lại thêm trọng lượng quá tải của ký ức và niềm thương nhớ về người cha khiến trận ốm kéo dài đã hơn ba tháng. Lễ rước vong cha lên chùa, lễ tứ cửu và lễ bách nhật đã qua. Giờ, trước mặt Thoan là kỳ thi tốt nghiệp chỉ còn cách tròn một tháng. Thoan càng buồn và bối rối. Vì có bạn đến thăm, lập lá số tử vi nói: “Sao địa kiếp chiếu cung mệnh, phải ốm hết năm nay mới khỏi được!”.
Một sáng chủ nhật, sau tiếng xe máy ở ngoài cổng rộ lên rồi tắt nghỉm, bà Bỉnh, vợ anh cả Lễ xuất hiện trước Thoan; áo quần xộc xệch, vẻ như chợt nhớ có việc cấp bách, bà phải tức tốc đến ngay. Quả nhiên, chưa kịp uống chén nước, bà đã vuốt hai mép trắng bợt, hổn hển:
- Cô Thoan, anh cô phải đèo tôi đến cô ngay, tôi phải bỏ cả một cái hẹn, để đến hỏi cô một việc.
Rồi dịch cái ghế lại cạnh giường Thoan, hai cánh mũi nở phập phồng, bà tiếp:
- Cô nhớ lại xem, có phải là buổi chiểu hôm trước lúc ông cụ mất, ông cụ có ăn một bát bún măng không?
Tưởng chuyện gì! Thoan xoay người, đưa hai chân xuống sàn tìm dép, thở ra:
- Vâng, em bón cho cha. Cha ăn rất ngon.
- Thế thì rõ rồi! Nhưng có phải là con mẹ Xuân nó mua bát bún ấy đem vào cho ông cụ không?
- Vâng! Thế thì làm sao cơ ạ?
Không thể ngờ đó lại là một sự kiện quan trọng. Đến mức bà Bỉnh vừa nghe Thoan nói xong liền vung hai tay lên kêu trời, rồi đập mạnh xuống đùi, kêu to:
- Thế thì nửa đêm hôm đó, ông cụ chết là phải rồi! Bún đã độc mà măng còn độc nữa. Trời ạ! Đích thị là con mẹ ấy nó giết ông cụ. Đích thị nó là kẻ sát nhân rồi!
Đó là một suy luận ngụy tạo quá bất ngờ với Thoan. Càng không ngờ, ngay sau đó bà Bỉnh ôm mặt bật khóc hu hu và hờ trời rằng: “Cha ơi cha chết oan chết uổng, chết vì con mụ đàn bà yêu tinh thần nữ ấy, cha ơi”. Rồi chẳng để Thoan chen lời, bà con dâu cả vừa nhìn Thoan vừa sụt sùi ra vẻ thương hại Thoan vô cùng:
- Ới em ơi, em trẻ người non dạ, em dễ tin người, em bị con mụ Tác ta ấy nó tà lưa mà em không biết. Nó là đứa đào mỏ, chuyên bòn rút của cải của ông cụ. Nó là dân thủy lợi nạo vét nổi tiếng xưa nay. Mắt lá răm, gò má cao, cằm chẽ đôi, nó là đứa dâm loàn nhất hạng. Trời ơi, sức nó là sức hồi xuân. Nó là con ngựa cái. Có lần nó rủ cụ đi Đồ Sơn thuê buồng ở cả tuần. Có lần chị đến, em đi học, chị còn bắt gặp nó đang mặc xi líp trong buồng ông cụ! Đấy, hôm nọ chị hỏi tiền lương tháng của cụ tọt vào cái lỗ nẻ nào là chị đã có ý nghi rồi. Ôi xót xa quá cha ơi là cha ơi! May mà cha chết chứ không thì cái nhà này, đất đai này dần dần sang tay nó hết, cha ơi!
Phụ nữ là giới có tiềm năng để làm điều tốt nhiều hơn điều xấu. Thiên phú cho họ nhan sắc và sự suy nghĩ đơn giản. Câu chuyện hư cấu của bà Bỉnh đầy tính tư biện và do đó quá kém cỏi nên cuối cùng chỉ tạo nên một phản cảm tích cực ở Thoan. Đó là một điều kỳ lạ về tâm lý và sinh lý. Thoan, trong tiềm ẩn rất có khả năng là kẻ thừa kế tính cách cha, bỗng cảm thấy từ lúc này đã thoát ra khỏi tất cả tật ách, cơ thể đã đầy đặn như một quả cầu tròn, thoắt trở lại khỏe mạnh như khi xưa. Thoan thoắt trở lại khỏe mạnh để có sức chống lại cơn thác loạn của sự tha hóa nhân cách đang rắp ranh hủy hoại những giá trị tinh thần của một nhân cách đáng thờ phụng là cha thân yêu. Khỏe mạnh, Thoan cần phải khỏe mạnh ngay để kịp thời hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp, và để tiếp đó có được một chỗ đứng vững chắc trong xã hội hiện đại.
Chờ cho chị dâu cả thốc tháo một hồi, dừng lại xin cốc nước lọc uống, Thoan mới đứng dậy, nghiêm nghị:
- Chị về đi và thôi ngay cầu chuyện xằng xịt đó đi! Em phải đi học thi đây!
- Cô Thoan ơi!
Nghe tiếng thằng Ất gọi cổng, cứ tưởng nó phóng về nhà gọi bố mẹ, các em nó và vợ chồng chú Nghĩa sang ăn giỗ ông nội, nhưng ngó ra thì hóa ra là khách lạ.
Đã nhọ mặt người. Con gà mẹ đang cục cục dẫn con lên chuồng. Ngọn cau nhòa nhòa nét lá. Trên cái sân gạch nhá nhem tối, lô nhô bóng bốn năm người đàn ông, thảy đểu đã cao tuổi, đồng loạt áo xanh, quần xanh, mũ cát két thợ những năm sáu mươi, vẻ mặt ai nấy đểu lộ vẻ cung kính và hết sức khép nép.
Rót nước mời khách, Thoan chưa biết bắt đẩu câu chuyện thế nào thì người già nhất toán bỏ mũ, ôm bó huệ lớn đứng dậy, lễ phép và cảm động, giọng đặc quánh xứ Nghệ và hơi hướng cổ xưa, cung kính và cảm động:
- Kính thưa gia đình thầy Đinh Văn Lâm. Bầy tui chừ xin được phép tự giới thiệu. Bầy tui vốn là học trò, là môn đệ của cụ nhà. Tui là trưởng tràng, trưởng môn. Từ những năm năm mươi, thời còn kháng chiến chống thực dân Pháp, thấy bầy tui lang thang, vô nghề nghiệp, thầy liền gom bầy tui lại, bảo ban, dậy dỗ, mần nghề. Thoạt đầu là nhóm lò, thổi bễ, quai búa, nướng sắt...
Thật tình là Thoan vẫn bị bất ngờ, dẫu là hai, ba hôm rồi, có nghe được điện thoại của mấy bác ở trong Thanh Hóa, Nghệ An gọi ra, hỏi về ngày giỗ đầu của cha. Vẫn bị bất ngờ vì trong những hồi ức của cha, chưa bao giờ được nghe cha kể về công việc truyền nghề và các học trò của mình. Tuy nhiên phong thái giản dị, chân thành của những người nọ ngay lập tức khiến Thoan tin cậy và gần gụi. Người trưởng tràng xin phép Thoan được đội khăn tang thầy, rồi cả năm người đứng dàn hàng ngang trước bàn thờ cha Thoan, vái vong linh cha Thoan sau khi đã lần lượt dâng hương.
Quay trở lại bàn nước, người trưởng tràng cho Thoan biết: Năm chục anh em học trò thầy giờ phân tán tứ xứ, đều đã hưu trí cả rồi, vừa rồi tình cờ đọc cáo phó của gia đình trên một tờ báo cũ mới biết thầy mất, nên thư từ điện báo cho nhau, tính đúng ngày giỗ đầu của thầy, cùng nhau đến thắp hương, tỏ lòng thương tiếc và tri ân với thầy. Chắc chốc nữa, anh em sẽ lẩn lượt tới.
Một người đứng dậy, tay cầm cái phong bì dầy, giọng rưng rưng:
- Hơn hai chục năm nay, cứ ngày 1 tháng 9, ngày thầy Lâm khai mạc lớp dậy nghề ở Nông Cống là anh em chúng tôi tổ chức họp đồng môn. Được tin thầy mất, anh em chúng tôi tiếc thương lắm. Công đức thầy với chúng tôi là trời bể.
- Thầy tạo nên chúng tôi đó, cô ạ.
- Bác trưởng tràng có nhớ hồi đó khó khăn đói kém, có lần thầy bỏ cả tiền sinh hoạt phí của thầy cho anh em đong gạo không?
- Sinh hoạt phí của thầy lúc đó là một vạn ba, thầy giao cho tôi tất.
- Để tôi có ý kiến nốt ạ - Người cầm chiếc phong bì nói tiếp - Bởi vậy, anh em chúng tôi gom góp được một số tiền, gọi là... mong gia đình thông cảm.
Chuyện đã qua phần nghi thức, thủ tục. Nhưng một lẩn nữa Thoan lại nhận ra đời cha vẫn là những trang tiểu sử chưa khai mở hết. Nói về tài năng nghề nghiệp của cha, một người kể: “Cụ có tài chắp sắt rất đặc biệt. Về kỹ thuật nói là để chỗ khớp nối cháy thật ngấu mới lấy ra tóp lại cho nó hút nhau, là nói về nguyên tắc, nhưng phi tay cụ không ai làm nổi”. Người trưởng tràng tiết lộ một chi tiết chưa ai được biết, vì cụ chỉ tâm sự với ông: “Năm 1941, chính cụ đã mần được cái mỏ neo cho con tàu Hirondelle ở cảng Hải Phòng nặng 125 ký bằng cách nớ. Năm 1944, công ty xe hỏa Việt Điền thông báo thi tài đánh tăm pông tầu hỏa, vì lúc ấy ở chính quốc đang chiến tranh hắn cũng bí. Cụ ứng thi. Dùng lửa ép từng lá sắt lại với nhau rồi tóp tròn, rất kỳ công. Chu cha! Lúc đưa ra, thằng kỹ sư Tây còn nghi ngờ, cụ cho nó tha hồ đập, cái tăm pông cụ mần cứ trơ trơ, kết quả nó phải thưởng cho cụ 50 đồng tiền Đông Dương”.
- Tôi không biết chuyện thời trước - Một người nói - Nhưng tôi nhớ là hồi sáu ba sáu tư gì đó, bên Quốc phòng có thuê xí nghiệp ta làm một nghìn quả búa, loại sáu lạng, loại một cân. Ông cụ chỉ huy lấy sắt cho từng quả, rồi ông cụ kiểm tra. Trời! Chỉ bằng tay cầm mà nghìn quả không sai cân lạng một quả.
- Bàn tay vàng thật! Giờ ít thấy ai như cụ, cầm cái xilanh lên, nói ngay được: Cái này của Pháp hay của Đức, của Đài Loan!
- Tôi cho rằng cái tài gắn với cái tâm. Cụ thường dạy chúng tôi. Tâm địa trầm tĩnh thì khoan khoái, thông minh. Sống cũng như làm việc, nên để khuất mình đi, nhưng đừng để khuất dạng.
- Tức là phải để dấu ấn cá nhân mình vào công việc đó, cô ạ.
- Tôi nhớ...
Ký ức bắt rễ sâu vào đời sống, gặp lúc thuận đang nảy nở. Hình ảnh cha như bức chân dung mỗi lúc một gần cận lại như xa cách với hình dung của Thoan. Thoan hiểu thêm một điều hệ trọng, cá nhân cha không chỉ là một bản ngã có tính luân lý. Giá trị lớn nhất của kiếp sống của cha không chỉ là một giá trị luân lý. Cha để lại một dấu ấn riêng trong nghề nghiệp, một dấu ấn được lưu truyền.
Mải mê suy tưởng theo hình ảnh cha tan thấm vào các tình tiết sống động của cuộc đời, Thoan không hề biết rằng lúc này ở ngoài sân, vợ chồng hai anh trai đã đến và trong lúc chờ đợi để vào bữa tiểu tường giỗ đầu, mặc lũ nhỏ đang cùng thằng Ất chơi trò trốn tìm đuổi nhau trong sân, họ chia thành hai tốp nhỏ cùng nhau rì rầm trò chuyện.
Đứng ở cạnh bức tường hoa là anh cả Lễ và anh hai Nghĩa. Hai anh em cao bằng nhau. Tuy vậy, trông Lễ có vẻ như thấp hơn vì cái bụng đã xề xệ ở độ tuổi năm mươi. Anh cả Lễ mới đi Tây Nguyên về. Mặt xạm nắng. Đường tĩnh mạch nổi vằn vèo trên cái trán rộng, đầy vẻ mệt nhọc và âu lo.
- Nghe nói cái Thoan đỗ tốt nghiệp xuất sắc có phải không, Nghĩa? - Anh cả Lễ nói - Phải giúp nó tìm chỗ làm! Nó rất giống tính ông cụ: Định làm cái gì là làm bằng được!
Nghĩa liếm môi:
- Tính khí ấy chỉ tổ khó lấy chồng thôi.
- Sao bảo nó sắp cưới thằng gì đang làm luận án tiến sĩ ở Nga?
- Em cũng nghe chị cả nói thế, nhưng em nghĩ: Việc ấy cần có ý kiến của anh.
Như không nghe thấy lời Nghĩa, anh cả Lẽ chớp chớp mắt, bâng quơ:
- Nghĩa này, từ hồi ông cụ mất, mình cứ thấy buồn bã, chán chường, lo lo thế nào ấy.
- Em chỉ thấy buồn khi nghe chuyện chị Bỉnh phát hiện quan hệ lăng nhăng giữa ông cụ và bà Xuân. Thần tượng, xưa nghĩ ông cụ đúng là thần tượng của mình, giờ thế là sụp đổ tan tành!
- Đời nay làm gì còn thần tượng. Sinh nhi chi tư. Chuyện đàn ông đàn bà sinh ra tất nhiên là thế. Mình buồn vì nghĩ... thế là người cuối cùng của thế hệ trước mình đã mãn. Giờ đến lượt mình. Sợ quá, cái chết! Mà thế quái nào gien ông bô bà bô mình kém thế! Tim ông cụ over date, tay bác sĩ trưởng khoa bảo mình thế. Mới ngoài bẩy mươi mà đã toi! Anh em mình là thừa hưởng cái khốn nạn này! Đời người ngắn ngủi, chẳng ra cái nghĩa lý gì. À, mà cậu có quen tay nào trên tổ chức Trung ương không?
- Anh định khiếu nại quyền lợi cho ông cụ à?
- Đã bảo là đã mãn có nghĩa là xong rồi. Không nhắc lại nữa. Quên đi! Với mình bây giờ là số năm sống còn lại.
Nghĩa cắn môi, gật gật đầu, nghiêng tai về phía hai người đàn bà. Bóng tối từ mảnh vườn tỏa ra đen ngòm. Trên trời, loạng choạng dăm ba cánh dơi. Trong mấy anh em, Thoan có diện mạo giống mẹ, còn Nghĩa có khuôn mặt, vóc dáng y sì ông Lâm. Mặt vuông, nét mắt, nét miệng thẳng ngang, tai to, hàm hơi bạnh, biểu hiện sức mạnh và trung thực. Nhưng Nghĩa hoàn toàn không giống tính cha. Anh mềm yếu, không dứt khoát, luôn giữ thái độ điều hòa, nửa vời.
Nghênh nghênh cái tai lớn, Nghĩa nghe thấy rất rõ giọng bà chị dâu cả thật là nôn nả, ráo riết, không thể lẫn với bất cứ ai, vì hay chêm những tiếng lóng và ngôn ngữ phố phường:
- Hôm rồi, tôi đã cho em gái hai ông anh một bài giáo huấn hơi bị hay rồi đấy, cô ạ. Thôi thì con yêu nữ ấy nó mơi được của ông cụ cái gì rồi thì thí cho nó. Coi như mất. Còn bây giờ thì cấm cửa, xong phim. Mày hại ông cụ nhà tao, tao không tính sổ với mày, là phúc cho mày lắm rồi, có phải không? Vấn đế là...
- Em nghe nói. Vợ Nghĩa cướp lời vợ Lễ, tay che miệng, khẽ khàng: Tháng mười một này thằng Hoằng bảo vệ luận án xong ở bên Nga sẽ về, hả chị?
- Đấy! Đấy! Cái tổ con chuồn chuồn nó ở chỗ ấy. Cho nên... à ông Nghĩa đấy hả? Này, hai ông, lại đây, có mặt bốn người, ta hội ý luôn đi để chốc nữa vào ăn, cùng đồng thanh nào.
- Chuyện gì thế?
Lừ đừ, anh cả Lễ dịch lại, giọng đượm buồn. Bà Thìn, vợ Nghĩa đang hau háu lục lọi bóng đêm, đo đạc đánh giá căn nhà, mảnh sân... toàn bộ bất động sản, nghe tiếng anh cả liền quay lại:
- Chị Bỉnh nói đi!
Bà Bỉnh hẩy vai vào bà Thìn, lo le đầu lưỡi, giục:
- Trước hết, cô kể cái chuyện cô đã mục sở thị ở chỗ cô ở cho anh Lễ nghe đi đã.
Bà Thìn đà đận, ngập ngừng:
- Thôi, chị cả đã nói thế thì biết đến đâu em cứ kể đến đấy nhé. Ở khu xóm mẹ em, có một cặp vợ chồng, chồng họ Bùi, vợ đẻ được hai con gái. Vừa rồi, không may người chổng họ Bùi đi đào vàng bị sập hầm chết. Sập hầm chết thì chả có chuyện gì đáng nói. Đáng nói là khi người chồng vừa chết, chưa kịp an táng, thì người bên chồng, tức người bên họ Bùi, xông ngay đến nhà anh ta, niêm phong nhà cửa của cải, rồi đứng ra làm tang lễ cho anh ta.
- Thế là thế nào?
- Chú Nghĩa cứ để cô ấy nói cho hết đã.
- Tôi biết rồi - Anh cả Lẽ chẹp miệng - Lại chuyện tranh chấp của cải thừa kế chứ gì!
Nguýt chổng một cái dài, bà Bỉnh cao giọng:
- Nó là cái nguyên tắc Nữ nhân ngoại tộc. Chồng chết, chỉ có hai con gái, con vợ không có quyền gì hết! Đấy, nó là thế! Cô Thìn ngại không nói, tôi nói thẳng: Đất này, nhà này, ông cụ để lại, là của họ Đinh nhà ta. Nói thế để nếu sắp tới đây cái nhà cậu tên Hoằng tiến sĩ tiến sung người miền Trung trọ trẹ gì ấy ở Nga về có cưới cô Thoan thì cũng xin mời kéo nhau đi chỗ khác mà sống. Đi chỗ khác! Còn gái không có phần ở đây!
- Chậc! Thôi, tùy các bà và chú Nghĩa, tôi không có ý kiến cụ thể. Làm sao trong ấm ngoài êm thì làm. Tôi cũng xin nhắc, cái Thoan nó là một phần của ông cụ đấy. Nó là đứa ngoài mềm trong cứng, không dễ đâu!
Anh cả Lễ đưa tay bóp trán, lạng một bước sang bên.
- Ô hay, cái nhà ông này! - Tiếng bà Bỉnh như tru lên, nhưng lấp chìm trong tiếng thằng Ất vừa lách qua mọi người và đám trẻ con hét toang toang: - Đố chúng mày tìm thấy tao.
Trên trời, đàn dơi như vỡ tổ ở đầu dồn về nhao nhác đảo cánh. Dưới đất lũ trẻ chạy nhốn nháo, tán loạn. Khoanh tay, anh cả Lễ đứng lại ở góc sân. Bóng tối dâng lên, dầy đặc hơn, bọc kín mấy người đàn ông, đàn bà đang xích lại gần Lễ và câu chuyện bị đứt quãng lại tiếp tục càng lúc càng ồn ồn ào ào.
Chính lúc ấy bọn trẻ đang chơi trò trốn tìm bỗng dừng cả lại. Đầu tiên là thằng Ất. Thằng Ất nấp sau bức tường hoa chợt nhô đầu lên, dụi mắt.
- Không phải dơi! - Ất thét - Con bướm! Con bướm to quá!
Một con bướm cực lớn, hai cánh bằng hai bàn tay, màu tím sẫm, điểm chấm trắng nho nhỏ và những đường nét hoa văn huyền ảo, con bướm thi thoảng Thoan vẫn hằng thấy và đã kể cho bà Xuân nghe, con bướm như từ hư vô bay ra, vẫy đôi cánh tâm linh như một hình ảnh của sự siêu thoát ra khỏi thế tục, thoạt đẩu bay đến chỗ mấy người lớn đang túm tụm trò chuyện. Ở đây, con bướm vẽ những đường tròn chòng chành, hư ảo, nhưng gần như lần lượt tiếp giáp với từng người. Tiếp đó, con bướm dang cánh liệng tròn liên tiếp mấy vòng như quan sát toàn cảnh ngôi nhà cùng cái sân nhỏ. Và Ất, đứa cháu nội gắn bó nhất với ông nội, từ nãy vẫn đang đăm đăm dõi theo bóng hình con bướm, trong mối xúc động thiêng liêng khởi nguồn từ đêm qua càng lúc càng dâng chan, bỗng chạy tọt ra giữa sân, vung tay hét thật to:
- Tất cả mọi người im đi. Ông đang về kia kìa!
Tiếng hét bất thình lình của đứa trẻ khiến đám người lớn đang ồn ào bàn bạc tính toán những mưu toan bỗng giật thột mình. Và không thể có gì là bất ngờ hơn, mọi người cùng ngẩng đẩu, ngước dậy, và lập tức rơi vào trạng thái ngượng nghịu cùng bẽ bàng vì có cảm giác bị bắt quả tang. Bẽ bàng và ngơ ngác họ nhìn theo bóng đôi cánh con bướm đang tiếp tục lượn một vòng nữa trước khi khép cánh lọt qua khuôn cửa vào gian giữa căn nhà đang lung linh ánh sáng của đèn nến.
Con bướm dập dờn trên bản thờ ông Lâm. Con bướm khai mở một miền đất mới trong cõi tâm linh bí ẩn của con người. Ngư