← Quay lại trang sách

- IV -

Maigret ngập ngừng khi muốn lấy chiếc tẩu thuốc trong túi ra. Cái đó thường xuất hiện ở một số nơi và trong trường hợp thấy cần để bàn tay có việc trong khi ông đang nói.

Ngay sau khi nộp báo cáo - không dài lắm - cho cấp trên và cùng ngồi làm việc với thủ trưởng trước một cửa sổ để ngỏ, ông đi từ Sở cảnh sát sang Toà án. Đây là giờ mà các ghế dài trước cửa phòng của các thẩm phán đều có người ngồi. Ngoài số can phạm, còng số tám trên tay, thì ba phần tư số họ là những người mà Maigret quen biết. Một số người đứng lên chào khi ông đi qua.

Đêm hôm qua, chánh án Comeliau đã hai ba lần gọi điện cho ông. Ông ta gầy gò, nóng nảy, với bộ ria màu nâu mới nhuộm lại và nước da của một sĩ quan kị binh.

- Nói rõ xem công việc của ông đã tới đâu rồi.

Maigret phải ngoan ngoãn chiều theo ý muốn của ông ta. Ông nói về việc tìm kiếm của Victor ở dưới đáy sông và việc không tìm thấy cái đầu. Tới đây thì ông bị ngắt lời.

- Tôi giả thiết rằng người thợ lặn vẫn tiếp tục làm việc, đúng không?

- Tôi thấy việc đó là không cần thiết.

- Tôi cho rằng nếu đã có thân người và tay chân ở đó thì cái đầu cũng không ở xa lắm.

Cái đó làm cho việc báo cáo trở nên khó khăn. Đây là một vị chánh án chắc chắn nhưng hay gây gổ. Nói theo một ý nghĩa nào đó thì ông ta không ngu ngốc. Một lụật sư, người cùng học trường Luật với ông ta, đã khẳng định rằng Comeliau là một sinh viên xuất sắc trong thế hệ của mình.

Cũng cần nói rõ trí thông minh của ông chánh án không thể đem áp dụng vào một số trường hợp thực tế. Ông ta thuộc tầng lớp tư sản có những nguyên tắc cứng nhắc, có những cấm kị rất thiêng liêng, và ông không muốn mọi người xét đoán những nguyên tắc và những cấm kị đó.

Kiên nhẫn, viên cảnh sát trưởng giải thích: - Thưa ông chánh án, trước hết Victor hiểu con kênh như ông hiểu bàn giấy của mình, tôi hiểu bàn giấy của tôi. Anh ta đã mò mẫm hơn hai trăm lượt, từng mét vuông một, dưới đáy sông. Đây là một chàng trai chăm chỉ. Nếu anh ta nói không có cái đầu ở dưới đó thì có nghĩa là...

- Người chữa ống nước của tôi là một người thợ giỏi và có trách nhiệm. Nhưng mỗi khi được gọi tới, anh ta đều nói không thể có vật gì làm tắc nghẽn ống nước được.

- Khi xác chết bị chặt ra từng mảnh thì rất hiếm trường hợp cái đầu nằm cùng chỗ với các bộ phận khác của cơ thể.

Comeliau nhìn Maigret với cặp mắt nhỏ và sắc sảo để cố hiểu rõ vấn đề trong khi người cảnh sát vẫn nói tiếp.

- Cái đó tự nó đã giải thích việc này. Rất khó khăn cho việc khám nghiệm tử thi khi xác chết bị chặt ra từng mảnh, bị ngâm lâu ở dưới nước và càng khó khăn hơn khi không có cái đầu. Không cồng kềnh như cái thân, cái đầu có thể đã bị trôi đi rất xa.

- Giả thiết là như vậy.

Làm ra vẻ vô tình, Maigret cầm tẩu thuốc trên tay trái và đợi khi người đối thoại không chú ý là ông đưa lên miệng hút.

Ông nói về mụ Calas và mô tả quán rượu ở cảng Valmy.

- Điều gì đã xui khiến ông tới đấy?

- Xin thú nhận chỉ do ngẫu nhiên thôi. Tôi cần gọi điện thoại. Trong các quán rượu khác, điện thoại để ở quầy hàng, không có buồng riêng.

- Xin ông nói tiếp.

Maigret nói về việc ra đi của Calas, chuyến tàu đi Poitiers, quan hệ của mụ chủ quán với Antoine Christin, người vận chuyển hàng hoá bằng xe ba bánh, không quên nói về những vết sẹo trên bụng nạn nhân.

- Ông nói mụ chủ quán khẳng định mình không biết người chồng có những vết sẹo ấy ư? Và ông cho rằng mụ ta nói thật ư?

Ông chánh án phật ý nói.

- Ông Maigret, thành thật mà nói, tôi không hiểu tại sao ông không cho điệu mụ ta và cái thằng nhãi ấy về văn phòng của ông và ráo riết thẩm vấn như ông thường làm. Tôi giả thiết rằng ông không tin một lời nào của mụ ta chứ?

- Không cần thiết.

- Trong việc mụ ta nói không biết chồng mình đi đâu và khi nào về...

Làm thế nào để một ông Comeliau sinh ra trên đại lộ Luxembourg bên tả ngạn sông Seine hiểu được tính cách của gia đình nhà Calas?

Nhưng rồi tẩu thuốc của Maigret chợt loé sáng, Comeliau là người mắc chứng sợ thuốc lá, ông nhìn chằm chằm vào chiếc tẩu như mỗi khi người ta xấc xược hút thuốc trong phòng của ông nhưng viên cảnh sát trưởng vẫn tảng lờ như không có chuyện gì xảy ra.

- Có thể - Maigret thừa nhận - tất cả những gì bà ta nói là sai. Cũng có thể là đúng. Chúng ta đã vớt từ dưới sông lên một cái xác không đầu. Nó có thể là bất cứ người đàn ông nào từ bốn mươi nhăm đến năm mươi nhăm tuổi. Tới đây thì chưa có gì được khẳng định cả. Có bao nhiêu người vào độ tuổi ấy đã mất tích trong những ngày gần đây và bao nhiêu người đi mà không nói rõ ràng nơi mình sẽ tới? Tôi có thể bắt bà Calas về văn phòng của tôi, coi bà như kẻ bị tình nghi vì bà ta có thói quen uống rượu một cách vụng trộm, vì bà ta có một tình nhân là một chàng trai điều khiển chiếc xe ba bánh và bỏ chạy khi nhìn thấy cảnh sát. Nhưng chúng ta sẽ ăn nói như thế nào nếu ngày mai ngẫu nhiên người ta mò được cái đầu không phải là đầu của Omer Calas?

- Ông có cho người canh chừng quán rượu không?

- Jules, cảnh sát quận Mười, đã đặt một người canh gác ở bến cảng. Tối hôm qua tôi có đi một vòng tới đó.

- Ông không tìm được cái gì mới ư?

- Chưa có cái gì là rõ ràng cả. Tôi đã dò hỏi một số cô gái ngẫu nhiên gặp ngoài phố. Không khí ban đêm ở đây khác hẳn ban ngày. Tôi muốn biết chiều thứ sáu tuần trước, người ta có nhìn thấy ai và nghe thấy gì dáng chú ý xung quanh quán rượu không?

- Không có gì chứ?

- Không có gì đặc biệt. Một cô gái đã cho tôi một dấu vết mà tôi chưa kiểm tra được. Theo cô ta thì bà Calas có một tình nhân khác nữa. Một người trung niên, tóc hung, có vẻ là người quen thuộc hoặc đang làm việc trong khu phố này. Cô gái nói một cách hằn học là bà chủ quán đã đánh lừa các cô. Cô ta nói: " Nếu mụ ta làm việc này để kiếm tiền thì chẳng có gì đáng nói. Nhưng mụ không cần tiền. Khi đàn ông buồn phiền thì họ biết nơi cần đến. Chỉ cần đợi ông chủ quay lưng đi là mọi việc đều xong. Tôi chưa vào trong quán lần nào, nhưng người ta quả quyết rằng mụ không từ chối bất cứ một người đàn ông nào cả”.

Comeliau đau đớn thở dài trước sự ô nhục của xã hội.

- Ông Maigret, ông cứ hành động theo ý ông. Đối với tôi, thế là đã khá rõ ràng. Đây không phải là những đối thủ đọ găng với chúng ta.

- Tôi sẽ gặp lại bà ta. Tôi cũng sẽ gặp người con của họ nữa. Cuối cùng, tôi hi vọng có được những tin tức về căn cước của cái xác của những người y tá đã phẫu thuật cho Omer Calas năm năm trước đây.

Khi đi vào công việc thì một chi tiết khá lạ lùng xuất hiện. Maigret vào quán rượu trong lúc mụ Calas đang ngủ gật trên ghế và bốn người đàn ông đang chơi bài. Ông hỏi chồng mụ mổ ruột thừa ở bệnh viện nào.

Như nhiều người biết, Omer Calas là một người cứng rắn, một người mà người ta hình dung không chút dịu dàng, nhưng lại lo ngại về sức khỏe của mình, ám ảnh về cái chết. Ông ta phải qua một cuộc giải phẫu thông thường, không nghiêm trọng cũng như không chút rủi ro nào.

Đáng lẽ vào nằm trong một bệnh viện thông thường, ông ta đã chi một khoản tiền lớn để được phẫu thuật trong bệnh viên tư nhân Villejuif. Không chỉ là một bệnh viên tư nhân mà ở đấy còn có những bà xơ làm việc như những nữ y tá nữa.

Lapointe đáng lẽ phải có mặt ở đấy rồi và gọi điện về cho Maigret.

- Không được mềm yếu, ông cảnh sát trưởng!- Comeliau còn dặn với khi ông này đi ra cửa.

Đây không phải là vấn đề mềm yếu. Cũng không phải là thương hại, nhưng rất khó giải thích với Comeliau. Từ phút này sang phút khác, Maigret cảm thấy mình chìm ngập vào một thế giới mà ông phải mò mẫm khác với thế giới quen thuộc hàng ngày của ông. Quán rượu ở cảng Valmy và dân cư của nó có liên quan gì đến với cái xác bị ném xuống sông đào ở Saint-Martin không? Người ta có thể gặp những sự ngẫu nhiên.

Maigret trở về văn phòng và ông bắt đầu cau có, bực dọc, thái độ thường có ở ông trong giai đoạn nào đó của cuộc điều tra. Tối hôm trước ông đã thu thập tin tức mà không tự hỏi chúng sẽ đưa ông đi tới đâu. Lúc này ông đang đứng trước những mẩu sự thật mà ông không biết làm cách nào để nối liền chúng với nhau được.

Mụ Calas không chỉ là một con người ý tứ mà ông chỉ gặp một vài người như vậy trong cuộc đời nghề nghiệp của mình, mà dưới mắt ông, mụ còn thể hiện một vấn đề con người.

Đối với Comeliau thì đây là một mụ nghiện rượu, phóng đãng, có thể ngủ với bất cứ ai.

Đối với ông lại là vấn đề khác, ông chưa biết có đúng không và khi ông chưa “ngửi” thấy sự thật thì ông còn cảm thấy khó chịu.

Lucas trở về gặp ông, đặt tờ giấy báo cáo lên bàn.

- Có gì mới không?

- Sếp vẫn ở nhà đấy chứ?

- Tôi vừa ở chỗ ông Comeliau về.

- Nếu biết trước thì tôi đã gọi điện thoại. Judel đã có tin mới.

Maigret nghĩ đến mụ Calas và tự hỏi đã có vấn đề gì xảy đến với mụ.

- Đây là vấn đề chàng trai, Antoine. Tôi cho là như vậy.

- Phải, Antoine. Anh ta lại biến đi rồi ư?

- Đúng thế. Hôm qua ông đã yêu cầu có một thanh tra bám sát hắn ta. Hắn đi thẳng về nhà ở phố Saint-Martin cắt góc phố Louis-Blanc. Viên thanh tra đã đưa thẻ cảnh sát ra và hỏi người gác cổng. Hắn ở với mẹ làm công việc nội trợ ở lầu bảy của khu nhà. Họ sống trong hai căn phòng. Nhà không có thang máy. Tôi nói những chi tiết mà Judel đã cung cấp. Khu nhà có năm chục hoặc sáu chục hộ, trẻ con chơi đùa đầy trên cầu thang.

- Anh nói tiếp đi.

- Theo người gác cổng thì bà mẹ là người can đảm. Chồng bà ta chết trong một viện điều dưỡng. Bà cũng bị lao phổi, nói mình đã khỏi bệnh rồi, nhưng người gác cổng thì nghi ngờ điều này. Nói về viên thanh tra, anh ta đã gọi điện cho Judel để xin chỉ dẫn. Judel không muốn gặp rủi ro nên đã ra lệnh cho người cấp dưới canh chừng khu nhà. Anh này ở lại đến nửa đêm, sau đó theo chân những người khác đi vào trong nhà.

Tám giờ sáng nay, người gác cổng chỉ cho anh ta một người đàn bà gày gò đi qua phòng thường trực và bảo đấy là mẹ của Antoine. Viên thanh tra không có lý do gì để đi theo hoặc gọi bà ta lại. Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, tò mò, anh ta trèo lên lầu bảy.

Thật là kỳ lạ, từ sáng sớm đến lúc này, Antoine không đi làm như thường ngày. Viên thanh tra ghé tai vào cánh cửa, trong nhà không có tiếng động. Anh ấy gõ cửa, không có tiếng trả lời. Anh mở cửa bằng chiếc chìa khoá vạn năng của mình.

Vào trong căn hộ, anh thấy hai chiếc giường, một ở trong bếp, giường của bà mẹ, một ở phòng trong, giường của con trai, đều chưa được thu dọn. Nhưng trong nhà không có một ai, và cánh cửa con để trèo lên mái nhà thì để mở.

Judel không nghĩ đến tình huống này nên không lường trưóc được hậu quả. Chắc chắn ban đêm Antoine đã chui qua cánh cửa con đó để lên mái nhà, rồi đi xuống bằng một cánh cửa con khác và lẩn ra phố Louis-Blanc.

- Có chắc chắn là anh ta không ở trong nhà nữa không?

- Họ đang hỏi những chủ hộ khác.

Maigret nghĩ đến nụ cười khôi hài của ông chánh án Comeliau khi biết tin này.

- Tai sao Lapointe không gọi điện thoại về cho tôi?

- Chưa đâu.

- Có ai tới Viện Pháp y để nhân diện xác chết không?

- Chỉ có những khách hàng quen thuộc thôi. Người ta đếm được hơn một chục người, hầu hết là phụ nữ có tuổi.

- Bác sĩ Paul cũng không gọi điện cho tôi ư?

- Tôi đã đề báo cáo của ông ấy lên bàn của sếp.

- Nếu Lapointe có gọi điện về thì bảo anh ấy chờ tôi ở Sở. Tôi đi không lâu đâu.

Ông đi bộ tới đảo Saint-Louis, đi vòng qua nhà thờ Notre-Dame, vượt qua đường sắt để tới Saint-Louis-en-l’Tle. Lúc này là giờ phụ nữ đi chợ và ông rất khó khăn khi len lỏi giữa họ và những chiếc xe đẩy nhỏ. Maigret đến một cửa hàng bách hoá, nơi, theo mụ Calas, cô con gái mụ thuê một phòng. Ông đi vào một cái sân có những cây đoan, trông giống một sân trường học hoặc sân của một nhà thờ.

Tiếng của một phụ nữ từ trong cửa sổ của một căn hộ tầng trệt hỏi ra:

- Ông tìm ai?

- Cô Calas.

- Lầu ba bên trái, nhưng lúc này cô ấy không ở nhà đâu.

- Bà có biết lúc nào cô ta về không?

- Rất ít khi cô ấy về nhà dùng bữa. Sáu giờ rưỡi chiều cô ấy mới về. Nếu cần thì ông đến bệnh viện để tìm cô ấy.

Bệnh viện Thượng đế, nơi làm việc của Lucette Calas, cách đây không xa lắm. Đến phòng làm việc của giáo sư Lavand thật khó khăn vì lúc này là giờ bận rộn nhất trong ngày. Đàn ông, phụ nữ trong những bộ đồng phục màu trắng, những y tá đẩy những chiếc cáng, bệnh nhân đi lại trong các hành lang đã xô đẩy ông không biết đi tới đâu.

- Tôi muốn gặp cô Calas.

Người ta nhìn Maigret.

- Không biết. Một bệnh nhân ư?

Hoặc:

- Đi lối kia.

Người ta chỉ cho ông bốn, năm con đường khác nhau. Cuối cùng ông tới một phòng yên tĩnh, có một cô gái ngồi trước một chiếc bàn nhỏ.

- Cô là cô Calas, phải không?

- Làm thế nào mà ông đến đây được?

Ông đưa thẻ cảnh sát ra.

- Có thể làm cô rối bận. Tôi tưởng cô làm việc trong một phòng phẫu thuật.

Trong mười phút đồng hồ ông không dám hút thuốc. Khi cô gái trở về có thêm một nữ y tá khá cao lớn nét mặt sáng sủa và bình tĩnh cùng đi.

- Ông muốn gặp tôi ư?

- Cảnh sát trưởng Maigret ở sở Cảnh sát.

Lucette Calas không bối rối, ngạc nhiên nhìn ông.

- Cha mẹ cô sống ở cảng Valmy ư?

Maigret nhanh chóng nhận ra vẻ cứng rắn trong cặp mắt cô gái.

- Phải. Nhưng...

- Tôi chỉ muốn đặt ra cho cô một vài câu hỏi thôi.

- Giáo sư sắp sửa gọi tôi. Giờ này ông ấy đang đi thăm bệnh nhân. Và...

- Tôi chỉ cần vài phút thôi.

Cô gái lưỡng lự, nhìn xung quanh rồi đẩy một cánh cửa vào một phòng nhỏ.

Trong phòng có hai chiếc ghế, một cái giường xếp và những dụng cụ hình như phục vụ cho việc mổ xẻ mà Maigret không biết tên của chúng.

- Đã lâu lắm cô không về thăm cha mẹ ư?

Ông thấy cô khẽ giật mình khi nghe nói đến danh từ "cha mẹ".

- Tôi ít khi về.

- Tại sao?

- Ông đã gặp họ rồi chứ?

- Tôi mới gặp mẹ cô thôi.

Cô không hỏi thêm vì lời giải thích có thể như vậy là đủ.

- Cô có yêu quí cha mẹ mình không?

- Không. Vì họ đã sinh ra tôi trên đời này ư?

- Thứ sáu tuần trước cô có về thăm họ không?

- Không. Hôm ấy tôi về nông thôn với bạn bè vì đó là ngày nghỉ của tôi.

- Cô có biết là cha cô đi mua rượu không?

- Tại sao ông không nói lý do của cuộc gặp này? Ông tới hỏi về cha mẹ tôi nhưng trong thực tế tôi với họ đã trở thành xa lạ từ lâu rồi. Tại sao? Đã có chuyện gì xảy đến với họ ư?- Cô châm một điếu thuốc và nói. - Có thể hút thuốc ở đây được.

Nhưng Maigret không lấy tẩu thuốc ra.

- Cô có ngạc nhiên khi có chuyện gì xảy ra với ai đó trong số họ không?

- Không.

- Cô cho rằng đã có chuyện gì xảy ra?

- Ví dụ như ông ấy đánh mẹ tôi.

Cô gái không nói "cha tôi".

- Ông ta thường đánh vợ ư?

- Bây giờ thì không rõ còn trước kia thì là chuyện cơm bữa.

- Mẹ cô không phản đối ư?

- Bà ấy cúi đầu chịu đòn. Tôi tự hỏi mẹ tôi có yêu ông ấy không.

- Còn chuyện gì nữa?

- Mẹ tôi quyết định đầu độc ông ấy.

- Bà ấy căm ghét ông ta đến thế ư?

- Tất cả những gì tôi biết là mẹ tôi sống với ông ấy hai mươi bốn năm trời mà không bỏ đi.

- Cộ cho rằng bà ta rất đau khổ ư?

- Ông cảnh sát trưởng, tôi không muốn nhớ đến những chuyện ấy nữa. Từ nhỏ tôi chỉ có một mơ ước: bỏ đi. Và khi có thể, tôi đi.

- Đã mười lăm năm rồi, đúng không?

- Ai bảo ông như vậy?

- Mẹ cô.

- Ông ấy không giết mẹ tôi chứ?

Cô gái suy nghĩ một thoáng rồi hỏi thêm:

- Hay là mẹ tôi đã đầu độc ông ấy?

- Không phải là không thể. Mẹ cô nói rằng ông ta đi Poitiers mua rượu vào chiều thứ sáu tuần trước.

- Đúng thế. Hồi tôi còn nhỏ, ông ấy cũng đi mua rượu như vậy.

- Người ta đã vớt một xác người ở kênh đào Saint-Martin. Có thể là xác của ông ấy.

- Không ai nhận diện ư?

- Cho đến lúc này thì không. Việc này rất khó khăn vì đây là cái xác không đầu.

Có thể vì công tác trong một bệnh viện nên cô gái không hề giật mình khi nghe tin này.

- Ông có biết tại sao lại xảy ra chuyện này không?

- Tôi không biết. Tôi đang điều tra. Hình như có nhiều đàn ông dính líu vào cuộc đời của mẹ cô. Xin lỗi cô vì đã nói như vậy.

- Nếu ông cho đây là chuyện mới xảy ra!

- Thuở nhỏ cha cô đã bị đạn súng săn bắn vào bụng. Cô có biết không?

Cô gái ngạc nhiên.

- Tôi chưa bao giờ nghe được chuyện này.

- Vì cô không nhìn thấy các vết sẹo ư?

- Nếu là sẹo ở bụng...

Cô gái mỉm cười.

- Cô về cảng Valmy lần cuối cùng vào ngày nào?

- Khoan! Có dễ đến một tháng rồi.

- Cô về thăm cha mẹ mình ư?

- Không đúng như vậy.

- Ông Omer Calas ở nhà chứ?

- Tôi chỉ về khi ông ấy không có mặt ở nhà thôi.

- Vào buổi chiều ư?

- Phải. Vì ông ấy thường đi chơi bi-a trong một quán rượu ở gần ga phía đông.

- Không có người đàn ông nào ngồi với mẹ cô chứ?

- Không phải hôm ấy.

- Cô có ý định rõ ràng về cuộc đến thăm ấy chứ?

- Không.

- Hai người nói những chuyện gì?

- Tôi không nhớ nữa. Chuyện lặt vặt.

- Có cả chuyện ông Omer Calas nữa đúng không?

- Tôi nghi ngờ điều đó.

- Có lúc nào ngẫu nhiên cô xin tiền mẹ cô không?

- Ông đi chệch hướng rồi, ông cảnh sát trưởng. Dù sao tôi cũng tự hào về điều này. Dù có thiếu tiền, dù có chết đói thì tôi cũng không gõ cửa để ngửa tay ăn xin họ đâu. Rõ ràng hơn nữa, tôi cũng đã kiếm được nhiều tiền.

- Cô không nhớ gì về chuyến đi thăm cảng Valmy của mình ư?

- Không có gì là rõ ràng cả.

- Trong số những người đến quán rượu hôm ấy có một chàng trai chở hàng bằng xe ba bánh không?

Cô gái lắc đầu.

- Hoặc một người đứng tuổi, tóc hung?

Lần này thì cô ta ra vẻ suy nghĩ và hỏi:

- Mặt ông ta rỗ hoa ư?

- Tôi không biết.

- Nếu đúng như vậy thì ông ấy là Dieudonne.

- Dieudonne là ai?

- Tôi không biết nhiều lắm. Một người bạn của mẹ tôi. Ông ấy là khách hàng trong nhiều năm.

- Khách hàng thường tới vào buổi chiều ư?

Cô gái trả lời:

- Đúng là buổi chiều. Nhưng không phải như ông hiểu đâu. Tôi cam đoan là không có chuyện gì cả. Đây là một người hiền lành, đi giày vải, ngồi bên lò sưởi. Họ có vẻ quen biết nhau từ lâu. Ông hiểu chứ. Thoạt nhìn thì tưởng đấy là một cặp vợ chồng.

- Cô có biết địa chỉ của ông này không?

- Tôi cho rằng ông ấy làm việc trong cùng khu phố, nhưng tôi không biết ông ấy làm nghề gì. Ăn mặc như thợ thuyền, nhưng tôi cho rằng ông ấy làm về giấy tờ, sổ sách.

Có tiếng chuông ngoài hành lang và cô gái đứng lên nói:

- Chuông gọi tôi. Xin lỗi ông.

- Có thể tôi còn trở lại đây.

- Ông nên đến vào buổi tối. Không nên tới muộn vì tôi thường đi ngủ sớm.

Khi ra về, Maigret phải hỏi đường cô gái ngồi trong một văn phòng.

- Khi xuống lầu dưới, ông rẽ trái, rồi rẽ trái một lần nữa.

- Cảm ơn cô.

Ông không dám hỏi cô này về Lucette Calas. Bản thân ông cũng chưa hiểu đầy đủ về cô ta.

Ông vào một quán trước cổng toà án và uống một cốc vang trắng. Một lát sau về sở và ông thấy Lapointe đang chờ ông ở đó.

- Thế nào, các bà xơ đều tốt bụng cả chứ?

- Họ rất đáng mến, nhưng họ đều nói là không chú ý đến...

- Những vết sẹo ư?

- Vâng. Trước hết bác sĩ phẫu thuật thời đó đà qua đời trước đây ba năm như mụ Calas đã nói. Bà tổ trưởng đi tìm hồ sơ. Trong đó người ta không ghi những vết sẹo. Cái đó cũng tất nhiên thôi. Omer Calas bị ung thư dạ dày.

- Người ta đã cắt ổ ung thư ấy rồi chứ?

- Vâng. Không một bà nào nhớ chính xác về Omer trừ việc ông ta đôi lúc có cầu kinh.

- Ông ta là người công giáo ư?

- Không. Ông ta sợ. Đó là chi tiết mà các bà xơ không quên... Chúng ta làm gì bây giờ?

Có phải Comeliau có lý không? Nếu người chết là Omer Calas thì thẩm vấn ráo riết người vợ có thể có được tin tức đáng quý. Căn vặn Antoine cũng không phải là không có kết quả gì.

- Chúng ta đi thôi.

- Tôi lấy ôtô chứ, thưa sếp?

- Phải.

- Chúng ta đi đâu?

- Đến kênh đào.

Khi đi qua, ông giao cho thanh tra cảnh sát quận Mười nhiệm vụ tìm một người có nước da nâu, tóc hung, mặt rỗ hoa, có tên là Dieudonne.

Chiếc xe của Maigret luồn lách giữa đám xe buýt, xe tải đi qua phố Richard-Lenoir, nơi có căn hộ của ông, thì bất chợt ông nói:

- Ra ga phía đông.

Lapointe nhìn ông tỏ vẻ không hiểu.

- Việc này có thể không mang lại kết quả nào, nhưng tôi muốn kiểm tra lại. Người ta kể lại cho chúng ta rằng Omer Calas đi vào chiều thứ sáu, có mang theo một chiếc va li. Nếu ông ta bị giết và bị chặt ra từng mảnh, thì kẻ giết người phải thủ tiêu chiếc va li ấy đi. Tôi tin chắc rằng nó không ở bến cảng và chúng ta cũng không tìm thấy chiếc quần áo nào.

Lapointe nghe và gật đầu.

- Người ta cũng không thấy chiếc va li ở dưới sông và trên người nạn nhân cũng không có quần áo.

- Và người ta cũng không tìm thấy cái đầu nữa!

Lapointe nói thêm.

Giả thiết của Maigret cũng không có gì là đặc biệt. Đây chỉ là vấn đề thuộc về thủ tục. Muốn loại bỏ những vật nạn nhân mang theo thì trong mười chỉ có sáu trường hợp thủ phạm gửi những thứ đó ở nhà ga.

Nhà ga phía đông gần cảng Valmy. Lapointe đã tìm được nơi đỗ xe, đi theo Maigret vào trong ga.

Ông hỏi người thường trực:

- Anh làm việc đến mấy giờ?

- Tôi chỉ làm việc đến sáu giờ chiều thôi.

- Người ta có gửi nhiều hành lý không?

- Không nhiều hơn những ngày khác.

- Liệu có những hành lý cho đến hôm nay vẫn chưa lấy ra không?

Người nhân viên quay về chiếc giá xếp hành lý.

- Còn hai món - Anh ta trả lời.

- Của cùng một hành khách ư?

- Không. Số thứ tự không nối tiếp nhau. Có môt món là của một bà to béo. Tôi nhớ vì từ người bà ta toát ra mùi phó mát nồng nặc.

- Trong đó đựng phó mát ư?

- Không. Tôi nói người bà ta kia.

- Còn món hành lý thứ hai thì sao?

- Đó là một chiếc va li màu nâu.

Anh ta chỉ tay vào một chiếc va li đã cũ.

- Nó không có tên và địa chỉ ư?

- Không.

- Anh có nhớ người mang nó tới đây không?

- Tôi có thể nhầm, nhưng đó là một chàng trai mới ở nông thôn ra.

- Tại sao lại nói là ở nông thôn?

- Vì anh ta có vẻ như thế.

- Da người ấy rám nắng ư?

- Có thể.

- Người ấy ăn mặc như thế nào?

- Tôi nhớ là anh ta mặc một chiếc áo khoác ngắn bằng da và đội một chiếc mũ cát-két.

Maigret và Lapointe nhìn nhau, hai người đều nghĩ đến Antoine Christin,

- Lúc ấy là mấy giờ?

- Khoảng năm giờ. Đúng thế. Sau năm giờ vì chuyến tàu tốc hành ở Strasbourg vừa vào ga.

- Nếu có người lấy va li thì anh gọi điện thoại về đồn cảnh sát ở Jemmappes cho tôi, được không?

- Nếu người đó sợ hãi mà bỏ đi thì sao?

- Chúng tôi sẽ đến đây sau một vài phút.

Chỉ có một cách xác nhận chiếc va li có phải là của Omer Calas không là gọi mụ vợ tới đây.

Thấy hai người bước vào, mụ Calas đến đứng sau quầy hàng.

- Bây giờ thì chúng tôi chưa uống. Chúng tôi muốn bà đến nhận xét một đồ vật đang ở cách đây không xa. Viên thanh tra sẽ dẫn bà đi.

- Tôi có phải đóng cửa hàng lại không?

- Không cần, vì bà sẽ quay trở lại sau đây một vài phút. Và tôi sẽ ở lại đây.

Mụ ta không đội mũ, thay đôi giày vải bằng đôi giày cao gót.

- Ông sẽ phục vụ khách hàng chứ?

- Chắc rằng tôi không có điều kiện đâu.

Lapointe cầm tay lái và mụ Calas ngồi bên anh. Khi chiếc xe chuyển bánh thì Maigret vẫn đứng trên hè mỉm cười. Đây là lần đầu tiên trong đời cảnh sát ông ở một mình trong quán rượu và như một chủ quán ông đi vào để đứng sau quầy hàng.