← Quay lại trang sách

9 YÊU MÌNH NHƯ THỂ YÊU NGƯỜI -

KHÔNG kính trọng mình, không yêu mình là một thái độ phá hoại cũng gần như chỉ kính trọng mình, chỉ yêu mình.

Thái độ đó phá hoại vì nó tạo nên một năng lực phú hoại hướng về sự sinh hoạt luôn luôn dào dạt trong bản thân ta. Thái độ đó nguy hiểm tới hai lần; vì chúng ta vừa là tên đao phủ, vừa là nạn nhân.

Xua đuổi một người là một việc có hại, mà bị xua đuổi cũng là một cái hại. Khi chúng ta không kính trọng mình, không yêu mình thì chúng ta bị cả hai cái hại đó: xua đuổi và bị xua đuổi.

Erich Fromm đã tóm tắc ý đó như sau: "Yêu người khác do lẽ người đó là một con người, đó là một đức quý; vậy thì yêu mình cũng phải là một đức quý - chứ không phải là một cái tội - vì lẽ mình cũng là một con người. Không có một quan niệm nào về nhân loại mà chối bỏ cái tôi".

Do đâu mà có sự ruồng bỏ mình?

Có thể do nhiều nguyên nhân: mà một nguyên nhân nhiều ý nghĩa nhất là: nhiều người tự ruồng bỏ mình vì một hồi nào đó, đã bị một người khác ruồng bỏ hoặc xua đuổi. Thái độ đó thật vô lý nhưng lại rất khó diệt.

Những sự ruồng bỏ tai hại nhất xảy ra từ tuổi thơ, phần nhiều là trước khi đứa trẻ biết phô diễn ý nghĩ, tình cảm bằng lời nói. Lớn lên, người ta mới biết phô diễn bằng lời nói và phải phân tích, moi móc khá sau tâm trạng mình rồi mới hiểu được, diễn được tại sao mình lại tự ruồng bỏ mình. Chẳng hạn có thể phô diễn như sau:

Hồi nhỏ mình bị xua đuổi hay tưởng rằng mình bị xua đuổi. Người xua đuổi mình lại là người mình yêu và muốn được yêu lại. "Người ta có nhiều quyền lực nhất trong cái vũ trụ bé nhỏ của mình hồi đó, người cực kỳ quan trọng săn sóc mình, và mình phải hoàn toàn tuỳ thuộc đó, lại quạu với mình, trừng trị mình.

Người đó là cha, mẹ, bà cô, chị vú, hoặc một người lớn nào khác, nuôi nấng mình, là người khổng lồ trong vũ trụ của mình, là vị chúa tể vạn năng, toàn trí điều khiển vận mạng mình, có thể cho mình ăn, bắt mình nhịn, cho mình ấm, bắt mình lạnh, vỗ về mình, yêu mình hay ghét bỏ mình. Khi vị khổng lồ nổi quạu lên thì cả vũ trụ của mình rung rinh. Khi vị khổng lồ bảo mình là hư thì mình hư.

Làm sao mình không hư được vì vị khổng lồ đã bảo rằng mình hư? Vị khổng lồ trừng phạt mình thì thường thường đít mình mang dấu vết của sự trừng trị đó. Vậy thì (đây là lời lý luận của tình cảm) cái gì khổng lồ làm cũng là có thực, lời nào vị khổng lồ thốt ra cũng là đúng. Vị khổng lồ bảo rằng mình hư thì mình quả là hư. Hồi đó làm sao mình biết được rằng có lúc vị khổng lồ mệt mỏi, đau ốm, lo lắng, do đó mà bớt âu yếm, hiền từ với mình. Làm sao mình biết được rằng vị khổng lồ răn dạy cho mình những điều mình cần biết để sau này lớn lên, sống cho nên người. Cũng là một hành động đó của mình, có khi vị khổng lồ khen mình, có khi lại nổi quạu lên, rầy mình, phạt mình. Nhưng, trong thâm tâm mình thấy hành động của mình có thay đổi gì đâu.

Mình có cảm tưởng rằng nếu mình có quyền uy như vị khổng lồ thì mình sẽ chẳng lo sợ gì cả. Thành thử, trong một giấc mơ ngây thơ, mình thấy mình có những đặc tính của vị khổng lồ: cũng có quyền uy như vị khổng lồ và cũng rầy đứa nhỏ xấu tính, là mình.

Sự tự ruồng bỏ mình đó thường bắt đầu từ tuổi thơ, cái tuổi mà nhu cầu được nuôi nấng, được săn sóc, yêu đương khẩn thiết nhất mà lại chẳng hiểu biết chút gì về thái độ của người lớn, thấy nó hoàn toàn bí mật, và cho rằng bất kỳ cái gì xảy ra cũng nhắm vào mình cả, nhắm vào sinh vật bé bỏng tự cho mình là trung tâm của vũ trụ đó, sinh vật chỉ biết vui hay buồn, sướng hay khổ, chứ không biết gì khác đó.

Lý luận của óc bé bỏng, ngây thơ đó như vậy:

Mình tùy thuộc vị khổng lồ đó.

Vị khổng lồ chê, rầy mình.

Mình rán làm như vị khổng lồ, làm vị khổng lồ.

Mà vị khổng lồ chê rầy mình, thì mình cũng chê rầy mình.

Hoặc giản dị hơn: vị khổng lồ toàn trí và vạn năng đó cho rằng mình không đáng được yêu, thì quả là mình không đáng được yêu, không đáng cho người khác yêu mình, cho chính mình yêu mình.

Bạn cho rằng thuật chỉ trong chương này không thuộc về trường hợp của bạn, có thể như vậy lắm. Nhưng xin bạn cứ thử đi. Thử đi rồi biết đâu chừng, bạn chẳng tìm ra được nhiều điều bổ ích và quan trọng về chính bản thân bạn.

Vả lại phần thứ nhì của thuật, tức phần luyện tập về tâm thần, có ích cho mọi người. Phần đó chỉ cho bạn một cách mạnh nhất để tạo năng lực cho cơ thể và tinh thần. Đây, xin bạn làm như sau:

Phần đầu của thuật là câu hỏi này1: Theo tôi thì ai là người không yêu tôi?

1 Xin coi lại thuật: "Đặt những câu hỏi nào? Và cách đặt ra sao?" mà làm đúng như tác giả đã chỉ.

Có thể rằng bạn tìm thấy câu đáp liền; cũng có thể rằng vài ba ngày hoặc vài ba tuần sau bạn mới tìm thấy. Câu hỏi đó có thể làm cho một cảm xúc mạnh mẻ từ trước chìm sâu trong tiềm thức này bổng nổi lên trên một phần ý thức: vui vẻ tiếp nhận nó, đừng tìm cách điều khiển nó, phê phán nó, diệt nó, đừng lý luận để đuổi nó đi. Một chuyện cũ - mới đây hoặc xa xôi - có thể hiện ra trong ký ức. Đừng xua đuổi nó. Có thể rằng nó sẽ mở cửa cho bạn tìm đường tự hiểu mình và tự giải thoát cho mình. Phải bước qua cửa đó, có khi khổ tâm lắm đấy, nhưng mặc, cứ can đảm bước qua. Lợi sẽ đáng công đấy. Phải tự cấm mình không được giữ trong thâm tâm một nỗi khổ dồn nén nào, thì rồi mới được tự do và sung sướng: phải đuổi cổ cái đau khổ ra khỏi cõi lòng. Như vậy ta sẽ giải thoát được cái năng lực giam hãm trong đó, để rồi lợi dụng được nó mà gây hạnh phúc cho ta và cho người khác.

Đặt câu hỏi ở trên rồi, dù phản ứng ra sao, dù phải mất bao nhiêu thời gian để tìm được câu đáp thì cũng đừng ngại - bạn phải tiếp tục qua phần thứ nhì mà luyện tập về tâm-thân như sau:

Lựa một chỗ yên tĩnh để có thể ngồi một mình mà tập trung tư tưởng, khỏi bị ai quấy rầy.

Lựa một thế ngồi hay nằm cho thoải mái.

Thoải mái rồi chứ? Vậy bạn hãy rán nhận thức về những bộ phận dưới đây của bạn, theo thứ tự nào cũng được:

vai cổ bộ phận tuần hoàn

tai nước miếng bàn tọa

mắt phổi bên trái đùi

máu ngón chân bộ phận tiêu hóa

tóc lợi phổi bên mặt (v.v...)

Vì những lẽ thuộc cả về cơ thể lẫn tinh thần, bạn nên và cần đặt một hoặc hai bàn tay vào bộ phận mà bạn đương rán nhận thức.

Bạn nói ra, làm và chú ý vào cái gì có thể giúp nhận thức hoàn toàn được bộ phận đó.

Gởi cho nó một nguồn năng lực hoặc một ý nghĩ âu yếm. Nói chuyện với nó, tưởng tượng rằng nó tràn trề nghị lực, một thứ nghị lực rực rỡ: kìa nó nóng lên, đương rung động và căng nhựa sống.

Rờ nó, tìm cách nào tốt nhất để nhận thức nó cho đầy đủ. Bạn phải tìm cách sao cho trong vài giây hoặc vài phút, chính bạn có thể biến thành bộ phận đó, hòa đồng với nó như một. Nó là bạn. Bạn là nó. Nó, tức cái cổ, cặp mắt, ngón chân... của bạn.

Cách luyện tập đó rất quí báu. Dù bạn yêu mình ít hay nhiều, dù bạn đắm đuối yêu mình hoặc chẳng yêu mình chút nào cả thì cũng nên thường tập như vậy, càng nhiều lần càng tốt, mỗi lần nửa giờ. Sau mỗi lần tập, bạn sẽ thấy linh hoạt hơn, và chắc chắn là bạn sẽ kính trọng cơ thể của bạn hơn, sẽ ngạc nhiên nhận thấy rằng một sự hợp tác thân tình giữa bạn và cơ thể của bạn có thể làm được những việc tốt đẹp.

Sau khi đặt câu hỏi căn bản và có lẽ sau khi tìm được một phần hoặc trọn câu đáp rồi, sau khi đã tập luyện về tâm-thân như tôi mới chỉ, bạn phải làm thêm như vầy nữa:

Kê nhẩm trong óc hết thảy những thiên tư của bạn, những việc thiện bạn đã làm, đặc biệt là những cái hay của bạn mà bạn thường quên hoặc coi thường giá trị.

Bạn biết lợi dụng triệt để những cái đó không?

Nếu bạn chịu gắng sức thì thuật này tất hiệu nghiệm.

Đôi khi ta biết được tại sao một thuật nào đó có lợi cho ta. Nhưng có khi ta chỉ thấy rằng có sự cải thiện mà chẳng hiểu vì đâu Tinh thần của cơ thể ta rất rộng rãi, cái "óc tự phụ" của ta không thể đo được nó. Nó có nhiều tài năng hơn óc ta, nhiều gấp bội! Nó biết cách thức đẩy ta tự tồn từ hàng vạn năm trước khi bộ óc tính toán của ta bắt đầu nẩy nở.

Khi ta thấy khoan khoái hơn - thì cứ hưởng sự khoan khoái đó đi.

Khi ta không hiểu tại sao (lại khoan khoái) - thì cứ hưởng sự bí mật đó đi, cứ tin tưởng (ở cơ thể).