← Quay lại trang sách

Chương 4 QUAY VỀ ALAMANDA

Thứ Sáu

Ngày 29 tháng Ba năm 2013

17h07

Đại úy Aja Purvi vừa càu nhàu vừa đạp nghiến chân phanh chiếc Peugeot 206. Ngay trước đường hầm xuyên Mũi Marianne, một dãy dài vô tận những chướng ngại vật hình nón màu cam đang chạy dọc theo một trong hai làn của con đường ven biển.

Công trường xây dựng!

Cửa vào hầm giống cái miệng khổng lồ tối như hũ nút chậm rãi nuốt dần một chuỗi những hộp tôn đủ màu sắc khiến ta phát bực. Chiếc 206 đi thêm được vài chục mét rồi dừng sững phía sau một chiếc 4x4, ngang hàng với một chiếc xe bán tải màu đỏ.

Aja nhìn đồng hồ bên cạnh tay lái. Bực dọc. Cô phải mất bao nhiêu thời gian để vượt qua quãng đường tám kilômét dẫn đến khách sạn Alamanda? Ba mươi phút? Một giờ? Lâu hơn nữa?

Aja cáu kỉnh ngắm nghía những con sóng từ Ấn Độ Dương đang xô vào mỏm núi đá mà dường như trông rất giống khuôn mặt nhìn nghiêng của Marianne. Ôi trời... Aja chưa bao giờ nhận ra biểu tượng nước Pháp trên khối đá bazan này, lẽ ra người ta nên cho nổ tung nó bằng thuốc nổ thay vì tiêu tốn tiền tỷ để làm tuyến đường cao tốc Tamarins, cao hơn vài trăm mét, làm biến dạng cảnh quan và không giải quyết được vấn đề gì của giao thông trên đảo. Nó chỉ có tác dụng kìm giữ người dân trên đảo Réunion trong mối ảo tưởng rằng họ luôn có thể đăng ký thêm nhiều xe nữa, khoảng ba chục ngàn chiếc mỗi năm, cho đến vô tận. Tuy nhiên, cần chấp nhận một sự thật hiển nhiên: Réunion là một ngọn núi mọc lên giữa đại dương. Gần như toàn bộ dân cư đổ hết ra vùng bờ biển, và tất cả đều di chuyển bằng xe hơi trên dải đất chật hẹp gần như là bằng phẳng nằm kẹt giữa đại dương và chân những ngọn núi lửa, đi vòng tròn, tự do như những proton trong một cỗ máy gia tốc cộng hưởng từ. Người dân đảo Réunion đang thử nghiệm khái niệm về bộ giảm tốc cho các phân tử.

Aja nhẫn nhịn tắt động cơ. Gã đàn ông trong chiếc xe bán tải bên cạnh nhìn cô từ trên cao, chừng hơn một mét, với vẻ mời mọc. Một gã người Cafre với cánh tay trần thò ra ngoài chiếc áo thun trắng và buông thõng qua cửa kính xe để mở. Cả điều này cũng khiến Aja bực bội. Nếu lái chiếc Jumper của đồn cảnh sát, hoặc chỉ cần có bộ đèn hiệu gắn lên nóc chiếc 206, thì cô đã có thể nuốt gọn đoạn đường ven biển này trong vài phút, các xe ôtô khác sẽ dạt sang hai bên giống như nước biển rẽ ra trước nhà tiên tri, kể cả gã người Cafre đang vươn cổ ra để nhìn được sâu hơn xuống ngực cô... Aja vô thức khép vạt áo lại. Đôi khi, những gã này khiến cô muốn đeo mạng che mặt. Chỉ để khiến họ thấy chán nản.

Dù sao, trong cái nóng 300°C này, một chiếc áo trùm đầu hoặc một chiếc mũ lưỡi trai... Hoặc mũ kê pi...

Giám đốc khách sạn Alamanda, ông Armand Zuttor, đã nhấn mạnh... Rất nghiêm trọng!

“Hành động kín đáo thôi, Aja nhé, cháu cố gắng đừng làm kinh động các du khách!”.

Ông chủ Da trắng[9] giám đốc khách sạn gọi cô bằng cháu với cái cớ là ông ta đã biết cô từ khi còn bé tí, khi cô theo ba mẹ đến Alamanda. Giữa yêu mến và coi thường, ranh giới đôi khi rất mỏng manh, Aja đâu có ngốc.

“Đây là một vụ riêng tư, cháu hiểu không, Aja, không phải là một vụ điều tra chính thức. Martial Bellion không muốn đâm đơn kiện, cháu qua và trấn an anh ta về cô vợ thôi, bác nhờ cháu việc này đấy.”

Nhờ vả? Một cách bí mật? Để xem nào... Từ chối thế nào đây? Du lịch là ngành cung cấp 80% công ăn việc làm ở Saint Gilles. Dịch vụ khách sạn là hai trăm việc làm... Chỉ riêng Alamanda đã là ba mươi.

Theo Armand Zuttor, không có gì phải lo lắng, chỉ là một vụ vớ vẩn, một cặp vợ chồng người Paris với cô vợ đã xách vali bỏ đi, và anh chồng còn lại một mình như một gã ngốc bên bể bơi cùng với một đứa bé sáu tuổi bế trên tay.

“Khá kỳ cục, Aja nhỉ? Nếu chuyện này xảy ra với bất kỳ người Créole[10] nào, hẳn là mọi người sẽ chỉ cười. Kể cả một người Zoreille[11]. Nhưng một khách du lịch... Với lại anh chồng không chịu thừa nhận sự thật hiển nhiên là con chim nhỏ đã bay đi, anh ta cứ nài nỉ chúng tôi báo cảnh sát, gọi cảnh sát đến, ngay lập tức... Cháu hiểu không?”

Aja hiểu. Và nữ đại úy cảnh sát đồn Saint Paul đã đến ngay giống như người lính cứu hỏa nhìn thấy cơn ho đầu tiên của ngọn núi Lò Lửa...

Cúi đầu cam chịu trong cảnh giao thông cuối chiều. Điểm chết, không ai có thể ra hoặc vào đoạn đường hầm này nữa. Aja thở dài và cáu kỉnh đưa một tay mở cửa kính bên tay lái. Không khí ngột ngạt, không có gió. Thời tiết này có thể khiến lốp xe chảy nhũn. Một giai điệu séga[12] nhỏ giọt trên dãy xe bất động, khạc ra từ bộ loa của chiếc bán tải. Gã người Cafre gõ nhịp mấy ngón tay đeo nhẫn theo điệu nhạc Créole, hẳn là gã đang chờ đợi người dẫn chương trình đài Freedom vừa điểm hết từng cây số tắc nghẽn trên đảo, vừa nhấn mạnh rằng ở đây không có đường tránh, hoặc lũ bò rừng ranh ma không phải là một trong những loài vật đặc trưng của hòn đảo, nhằm vực dậy tinh thần cho người nghe.

Aja ngả đầu ra sau dựa vào ghế lái. Muốn bỏ quách chiếc xe lại đây mà đi bộ nốt quãng đường còn lại. Còn gã người Cafre, dường như gã không quan tâm đến việc tắc đường, thậm chí còn thích thú. Gã có âm nhạc, có ánh nắng, có biển... và một cô gái để ngắm.

Cứ như thể cả ngày hắn chỉ có mỗi việc đó...

17h43

Martial Bellion ngồi đối điện với Aja Purvi. Nữ đại úy cảnh sát nhận thấy anh ta rất nhợt nhạt. Cô mới là người vừa phải ngồi chết gí dưới nắng cả tiếng đồng hồ, dán mông xuống cái ghế giả da của chiếc 206, thế nhưng vị du khách kia lại đang vã mồ hôi như tắm mặc dù sảnh khách sạn bật điều hòa. Cô vừa bước vào, anh ta đã đứng bật dậy khỏi chiếc ghế bành bằng nhựa giả mây.

— Đại úy Purvi?

Miệng anh ta vẫn mở, như thể đang cố hít thở, giống hệt lũ cá ngoại lai trong chiếc bể đằng sau.

— Tôi... tôi xin lỗi vì đã làm phiền cô, đại úy ạ. Tôi ngờ rằng, đối với cảnh sát, một vụ mất tích như thế này có thể rất... rất vớ vẩn. Nhưng... nhưng phải nói thế nào nhỉ... Xin thứ lỗi, thưa đại úy, tôi đang tìm từ... Đằng sau vẻ bề ngoài... có... có...

Aja tỏ thái độ thông cảm trong khi Martial lau vầng trán ướt đẫm bằng một vạt áo sơmi vẫn mở phanh cúc. Chỉ trong một câu, Bellion đã xin lỗi hai lần. Cô thấy cảm giác tội lỗi đó hơi kỳ lạ, nó lại càng thêm trái ngược với dáng vẻ đẹp trai, bộ ngực hoàn hảo hằn rõ bên dưới lớp áo sơmi Blanc du Nil. Tại sao lại phải cảm thấy tội lỗi đến mức ấy?

Bellion hít một hơi sâu đến mức có thể phá cả kỷ lục thế giới về ngừng thở, rồi tuôn ra một mạch:

— Đại úy, tôi sẽ trình bày theo kiểu khác, có lẽ sẽ đơn giản hơn. Tôi không ngốc, tôi ngờ là tất cả mọi người sẽ nghĩ rằng vợ tôi đã cho tôi leo cây. Đương nhiên... Trên đảo này không thiếu những trường hợp như vậy. Đại úy, hãy nghe tôi, trường hợp này thì không phải... Cô ấy sẽ không bao giờ bỏ đi như thế. Đi mà không có con gái... Không có...

Aja đột ngột cắt đứt những ngập ngừng của Martial:

— Được rồi, ông Bellion. Ông không cần phải giải thích nữa, chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể. Ông thật may mắn vì ông Armand Zuttor rất chăm lo cho khách hàng của mình... Ở đây, đồn cảnh sát cũng nằm trong các dịch vụ mà khách sạn cung cấp. Đảm bảo an ninh, ông hiểu chứ. Tôi sẽ điều tra về vụ bà nhà mất tích, tôi đảm bảo với ông, với mọi sự kín đáo cần thiết...

Cô muốn rằng...

Mồ hôi khiến chiếc áo vải lanh bết chặt vào da Martial. Trong suốt. Aja vừa mỉm cười vừa đưa mắt nhìn về phía chú cá đuôi gai vàng đang chơi trò cai trị trong bể cá. Có gì đó trong thái độ của vị du khách đang lo lắng này vẫn tiếp tục khiến cô nghi hoặc.

— Nghe này ông Bellion, hôm nay thì đã quá muộn rồi, nhưng ngay ngày mai ông phải đến đồn cảnh sát Saint Gilles để thông báo chính chức về việc vợ ông mất tích. Người ta sẽ yêu cầu ông xuất trình giấy tờ tùy thân, và một số thủ tục hành chính khác. Từ giờ đến lúc đó, tôi sẽ xem mình có thể làm được gì. Ông có ảnh của vợ ông chứ?

— Tất nhiên.

Bức ảnh được chìa ra. Aja nhìn ngắm khuôn mặt trái xoan hoàn hảo của Liane Bellion, suối tóc vàng, hàm răng trắng thanh tú. Một người thuần chủng! Cô hiểu rằng một cô gái như thế này có thể khơi gợi rất nhiều ham muốn giữa một phòng thí nghiệm lai tạp là hòn đảo Réunion này. Aja cắn môi, vẻ thông hiểu.

— Cảm ơn, ông Bellion. Ông Armand Zuttor đã nói lại với tôi những sự kiện cơ bản. Ông hãy ở trong sảnh hoặc ra hoa viên khách sạn, uống một cốc rum hoặc một vại bia, nó sẽ tốt cho ông đấy, nhưng đừng lên phòng ngay. Đừng động vào bất cứ thứ gì, tôi sẽ nói chuyện với ông sau vài phút nữa.

17h46

Gabin quan sát Aja đi vòng qua bể bơi tiến lại gần quầy bar. Nữ đại úy cảnh sát đặt bức ảnh lên quầy bằng một cử chỉ dứt khoát.

— Một cô gái đẹp như thế này trong khách sạn, hẳn là anh phải nhận thấy ngay nhỉ, Gabin?

Anh chàng nhân viên quầy bar suy nghĩ một lát rồi mới trả lời. Thông thường, ánh mắt các khách hàng đứng trước quầy bar sẽ hướng ra phía sau anh, nhắm vào bộ sưu tập rượu rum ấn tượng chiếm trọn ba chiếc giá, chúng được bày trong những chiếc hộp đủ màu sắc rực rỡ giống như lá bùa yêu trong tủ kính của một dược sĩ. Nhưng Aja thì nhìn thẳng vào mắt anh. Cô không quan tâm đến rượu rum. Như đa số người Zarabe[13], cô không uống rượu. Tuy nhiên, không có gì là tội lỗi khi cô được mời, chỉ là nếm thử, hồi cô còn là một cô bé và đã đứng chờ ba mẹ hàng giờ bên bể bơi. Trước khi thảm kịch xảy ra.

Bởi vì Aja nhìn chăm chăm vào anh, Gabin cũng không thể không nhìn đáp lại. Chỉ huy đồn cảnh sát Saint Gilles là một bông hoa khá hiếm trên đảo. Một cô gái Zarabe lai Créole. Gabin hiểu biết khá rõ về người Zarabe, chuyện lai tạp không mấy phổ biến trong tộc người này, họ thường mong muốn không phải chia sẻ bộ gen cũng như tài khoản của họ trong ngân hàng. Kín đáo và hiệu quả. Hai mươi lăm nghìn thành viên, mười ba đền thờ, không sử dụng khăn choàng đầu, không đeo mạng che mặt hoặc bất cứ dấu hiệu phô trương nào khác... và tất cả các doanh nghiệp dệt, xe hơi và đồ ngũ kim trên đảo!

Aja có bố là người Zarabe và mẹ là người Créole. Có thể xem cô là một cô gái xinh xắn không? Gabin tự hỏi. Không dễ có câu trả lời dứt khoát. Đôi khi sự lai tạp tạo ra những tuyệt tác, chúng tác động mạnh đến bạn bởi vẻ đẹp mang tính phổ quát; nhưng tạo hóa lại thường xuyên thử nghiệm các ngón nghề. Kiểu như Aja. Một tập hợp ít có của mái tóc dài đen, đôi mắt xanh hình quả hạnh ẩn dưới hàng mi đen và rậm gần như giao nhau. Một vẻ xinh xắn tiềm tàng, Gabin phân tích, nhưng để mang lại vẻ mỹ miều, Aja phải cười, như đôi lúc cô vẫn làm. Cũng phải ngắm cô khi đang mặc áo tắm nữa. Vẫn không được. Aja là cô gái thuộc vùng Thượng ở Saint Paul, từ một trong những khu ổ chuột trên bình nguyên Sỏi, anh biết cô từ khi cô còn là học sinh trung học. Ngay từ hồi đó, Aja đã cư xử như con thằn lằn trong lớp học toàn tắc kè hoa. Có năng khiếu, cứ như mười năm một lần ông trời lại cho nảy nòi ra một cô bé như thế. Thuộc kiểu người có nước da hơi rám nắng, không bao giờ thò chân xuống nước vùng phá, chỉ có học, học và học, nhiều hơn những người khác. Aja đi học ở chính quốc, giống như nhiều người khác. Khoa Luật trường Panthéon Assas, rồi trường cảnh sát Châteaulin, ở Bretagne. Thủ khoa. Nhưng ngược với những tài năng khác trên đảo, Aja đã quay về. Có lẽ bây giờ cô đang nuối tiếc về việc đó. Với những người lai muốn leo lên bậc thang hành chính ở hòn đảo này, cái giá không hề rẻ chút nào... Người ta đã chôn vùi cô ở đội cảnh sát hình sự nội địa độc lập Saint Gilles les Bains. Chỉ có điều cô gái nhỏ rất nóng nảy, tham vọng và mạnh mẽ, Gabin đã tận mắt thấy cô hành động, một cô ả thằn lằn có khả năng trèo lên rất cao. Khát khao phục thù giống như một động cơ phụ trợ. Người Zoreille ở Saint Denis có nguy cơ gặp khó khăn nếu cứ bịt miệng cô lâu dài...

Aja ve vẩy bức ảnh trước mũi anh, vẻ sốt ruột.

— Thế nào, Gabin?

— Thế nào cái gì? Tôi tin là chưa nghe thấy tiếng còi hụ, Aja ạ... Cô đang làm thêm giờ trái phép đấy à?

— Cứ cho là thế đi. Anh biết cảnh sát rồi đấy. Không ai đi đi lại lại vì một bà vợ người Créole bị chồng đánh. Nhưng một nữ du khách bỏ đi...

Gabin cười nhe hết cả hai hàm răng trắng.

— Cô học ngoại giao à, Aja, hay đấy!

Aja không trả lời, cứ như cô đang ngẫm nghĩ, rồi hỏi lại lần nữa.

— Thế nào, anh biết gì về cô nàng bé nhỏ này?

— Gần như là không biết gì, người đẹp ạ. Cô biết đấy. Tôi cắm rễ ở quầy bar chẳng khác gì một cây phi lao. Tôi chỉ nhìn thấy cô ta lướt qua trước hàng ghế vải gập, cởi áo tắm, quấn người trong một cái khăn, và tách! hết phim. Cô đi hỏi Naivo ở quầy lễ tân ấy. Không nên bỏ lỡ anh ta, một nhân viên mới, một gã Malgache có cái mặt chồn sóc đeo cà vạt. Chính anh ta là người mở cửa phòng cho anh chàng Bellion...

17h51

Aja bước vào sảnh. Không thấy Martial Bellion ở đây. Hẳn là anh ta đã làm theo lời khuyên của cô, đã giữ khoảng cách, lùi xa, để mặc cô điều tra. Cô bỗng nở nụ cười: Gabin không nói dối, quả đúng là một chú chồn sóc đang trông quầy lễ tân! Naivo đang ngồi sau quầy, đôi mắt màu hạt dẻ tròn xoe như hai hòn bi, khắp mặt phủ một lớp lông sáng màu, một vành đai tóc màu xám và cứng vòng từ tai này sang tai kia... và một chiếc cà vạt sọc đen trắng, trông như thể anh ta quấn đuôi lên quanh cổ vậy.

Một chú chồn sóc to lớn mượt mà rất nhạy cảm với sức hút từ các cô gái tóc vàng. Bức ảnh Liane đưa qua đưa lại trước đôi mắt lồi to khiến anh ta trở nên ba hoa không thể dừng được.

— Đúng thế, đại úy Purvi ạ, tôi đã nhìn thấy Liane Bellion lên phòng hồi chiều. Đúng, chồng cô ấy có đến tìm tôi trong sảnh để nhờ mở cửa phòng 38. Bao lâu sau ấy à? Khoảng một giờ. Anh chàng khốn khổ có vẻ lo lắng, thậm chí là hoảng hốt, như một kẻ đau khổ trong bộ dạng đi dép tông và mặc quần bơi. Chính tôi, đại úy ạ, chính tôi là người đã mở cửa phòng 38 cho anh ta... Ở đó, nói như thế nào nhỉ? Lộn xộn. Những dấu vết của một cuộc vật lộn. Hoặc của giấc ngủ trưa giữa vợ và chồng, nếu cô hiểu tôi muốn nói gì, đại úy ạ...

Một trong hai hòn bi màu hạt dẻ biến mất dưới khu rừng muối tiêu của một bên lông mày, và Aja nghĩ điều này hẳn là tương ứng với cái nháy mắt của loài chồn sóc.

— Chỉ có điều... - Naivo nói tiếp. - Chỉ có điều toàn bộ quần áo của cô gái đã biến mất. Cô có thể tin tôi, trong những chuyện này tôi rất tinh ý. Liane Bellion đã thu dọn đồ đạc...

Những sợi lông trên một con mắt khép lại lần nữa, kiểu như khóa dính.

— Nhưng đó không phải là điều quan trọng nhất, đại úy ạ, quan trọng nhất là có những dấu vết của... nói thế nào nhỉ?

Aja nheo mắt. Theo bản năng, cô cảm thấy mình sẽ không thích đoạn tiếp theo. Anh chàng chồn sóc vươn thẳng người thêm chút nữa.

— Những vết vô cùng giống với vết máu...

Aja điềm tĩnh đón nhận.

— Chúng ta cùng lên phòng, nếu anh không phiền. Anh sẽ mở cửa cho tôi...

Họ đi lên. Tầng ba. Aja chỉ lướt ánh mắt qua những ô cửa kính và quan sát những du khách đang trò chuyện quanh bể bơi dưới ánh mặt trời đỏ ối, tay cầm ly cocktail; những tấm lưng trần của phụ nữ, những bụm khói thuốc, những đứa trẻ đang nô đùa dưới làn nước ánh huỳnh quang liên tiếp được nhuộm màu xanh da trời, đỏ và xanh lá cây nhờ hệ thống đèn ngầm. Một đêm tiệc ở xứ nhiệt đới. Yên ả bình lặng. Khung cảnh thiên đường. Armand Zuttor nói đúng, những chiếc đèn hiệu cảnh sát có thể sẽ gây ra cảnh xáo trộn.

Anh chàng chồn sóc Naivo xoay tròn chùm chìa khóa trên tay rồi bước về phía phòng 38. Trông anh ta giống như người gác vườn thú miễn cưỡng mở cửa chuồng của một con khỉ đột vừa mất tích.

— Đại úy, tôi nói chuyện với cô được không?

Giọng nói như vừa vang lên từ một chiếc loa vô hình. Aja quay lại thì phát hiện ra sau lưng cô có một bà già đang bấu chặt vào chiếc chổi lau. Bà già người Créole, đang từ cuối hành lang tiến lại gần bằng những bước chân êm ru, nhắc lại:

— Cô có đúng là đại úy Purvi không? Cô bé Aja. Con gái của Laϊla và Rahim?

Aja không biết điều gì khiến cô khó chịu hơn. Việc một người phụ nữ không quen biết nhắc đến tuổi thơ của cô, hay âm điệu uể oải trong lời nói của bà lao công già. Cô khẽ gật đầu.

— Ta thường gặp mẹ cháu, cháu biết đấy, Aja bé nhỏ ạ, - bà già Créole nói tiếp. - Ở chợ Saint Paul, gần như là cách ngày một lần. Chúng ta thường nói chuyện về quá khứ, giống như hai bà già.

Aja nặn ra một nụ cười.

— Cháu nghe bà nói đây...

Anh chàng chồn sóc không nhúc nhích. Bà già Créole cũng vậy. Nghẹn lời.

— Chỉ hai ta thôi, - cuối cùng bà cũng nói rõ.

— Được thôi, - Aja chấp thuận đồng thời quay sang phía Naivo.

Anh chàng chồn sóc mở to đôi mắt phẫn nộ, những sợi lông ở vùng mắt và thái dương dựng cả lên, nhưng rồi vẫn miễn cưỡng đi ra xa đến tận cuối hành lang. Bà già Créole cầm chổi dường như đang tìm từ, Aja chờ vài giây rồi lên tiếng trước.

— Bà ở đây khi nào?

— Ba mươi năm sáu tháng, cháu gái Aja ạ...

Aja thở dài.

— Ý cháu là chiều nay, bà ạ. Cháu muốn nói “ở đây, trong hành lang này”.

Eve Marie mỉm cười, bà xem đồng hồ một lát rồi trả lời.

— Bốn tiếng ba mươi phút.

— Lâu đấy chứ?

— Có thể nói là thông thường, tầng này yên ả hơn...

Aja ngắm nhìn sàn nhà, những bức tường, những bức tranh, những ô kính, tất cả đều sạch bong như trong hành lang bệnh viện. Tên của bà già lao công được thêu trên áo khoác ngoài.

— Bà Eve Marie này, cháu thấy bà có vẻ là một người ngăn nắp và tỉ mỉ. Hãy cho cháu biết chính xác điều gì đã xảy ra trong hành lang của bà vào chiều nay.

Bà già Créole mất một khoảng thời gian dài vô tận để dựng chiếc chổi lau vào cạnh tường.

— À thì, Naivo và anh chồng lên đây vào khoảng 16 giờ để mở căn phòng số... Căn phòng trống rỗng và...

Eve Marie chỉnh lại chiếc khăn trên mái tóc xoăn. Từng lọn một.

Aja lại cất tiếng để đẩy nhanh tốc độ.

— Bà Eve Marie này, chúng ta thống nhất nhé, Martial Bellion lên phòng lúc 16 giờ. Liane Bellion lên phòng trước đó một tiếng, khoảng 15 giờ. Nhưng điều cháu quan tâm là chuyện xảy ra giữa khoảng thời gian đó. Nếu bà không rời khỏi hành lang, chắc hẳn bà phải nhìn thấy cô Bellion ra khỏi phòng.

Eve Marie phát hiện ra trên ô kính gần nhất một vết bẩn gần như vô hình, bà liền lau ngay bằng một góc tấm giẻ lau màu xanh ngọc. Mãi lâu sau, bà mới trả lời:

— Có nhiều người, trong khoảng từ 15 giờ đến 16 giờ, là thế, ta đã nhìn thấy nhiều người qua lại hành lang của ta... Nhưng không có cô gái tóc vàng đó...

Một cú chùy nện vào gáy.

— Sao lại thế được? - Aja gần như hét lên. - Liane Bellion không ra khỏi phòng sao?

Eve Marie bình thản tiếp nhận phản ứng của cô, bà chậm rãi gấp mảnh vải làm tư. Lẽ ra bà nên viết tiểu thuyết trinh thám.

— Anh chồng đã quay lên...

— Một giờ sau đó, cháu biết rồi.

— Không, không phải một giờ sau, trước đó cơ. Có lẽ khoảng mười lăm phút sau cô vợ...

Lại một cú chùy nữa. Vào giữa ngực.

— Bà... bà chắc chứ?

— Ồ, có chứ, cháu gái Aja, cháu có thể tin ở ta, không ai có thể đi qua hành lang của ta mà ta không nhận thấy.

— Cháu không nghi ngờ điều đó, bà Eve Marie. Bà nói tiếp đi!

Eve Marie đưa mắt nhìn Naivo vẻ cảnh giác. Anh chàng chồn sóc đang đi đi lại lại trước cửa thang máy. Bà già Créole hạ giọng thấp hơn một chút.

— Anh ta vào trong phòng. Ngay lúc đó, ta nghĩ anh ta muốn có chút thời gian vui vẻ với cô vợ. Đó là giờ ngủ trưa, cháu hiểu bà muốn nói gì rồi đấy, cháu gái Aja. Con bé đang ở dưới với các bạn. Vài phút sau anh chồng ra khỏi phòng, cùng lắm là mười phút. Anh ta đi về phía ta. Anh ta đã nhờ ta một việc...

Aja nhìn bóng mình trong ô cửa sổ. Ánh mắt xanh lơ của cô hòa lẫn vào luồng ánh sáng huỳnh quang tỏa ra từ bể bơi, dưới đó bốn mét.

— Nhờ một việc ư?

Eve Marie mất một khoảng thời gian vô tận để quay về phía chiếc xe đẩy chứa thùng rác, sản phẩm tẩy rửa và những chiếc bàn chải.

— Đúng, nhờ một việc. Anh ta đã hỏi xem có thể mượn chiếc xe đẩy của ta không. Không phải cái này, cái to cơ, cái mà ta dùng để chở quần áo, ga giường, khăn tắm ấy. Bỏ hết đồ ra. Anh ta mang xe vào trong phòng, hai phút sau ra khỏi đó, bấm thang máy... rồi hấp, biến mất. Ta đã tìm thấy cái xe đẩy của ta ở bên dưới, tầng hầm thứ nhất, gần bãi đỗ xe. Có lẽ cháu thấy chuyện này kỳ lạ, Aja bé nhỏ ạ... Nhưng ở đây, chúng ta không từ chối khách bất cứ điều gì.

Bàn tay run rẩy của nữ đại úy bíu vào thành cửa sổ.

— Cái xe chở vải đó, anh ta có nói với bà là anh ta cần nó vì lý do gì không?

— Cháu biết đấy, cháu gái Aja, ở đây, chúng ta cũng không đặt câu hỏi với khách. La lang na pwin le zo[14]...

Aja cắn môi.

— Có người nào khác đi vào không? Hoặc đi ra? Trong hành lang, suốt chiều nay?

— Không ai cả! Cháu có thể tin ta, Aja ạ. Katish phòng 38 không hề ra khỏi phòng.

Mà nói cho cùng, tại sao lại không tin Eve Marie cơ chứ?

— Cái... xe đẩy của bà. Nó... nó to chừng nào?

Eve Marie có vẻ suy nghĩ.

— Để cháu dễ hình dung, ở trên xe viết là nó có thể chứa được tám mươi cân vải. Ta hiểu cháu muốn suy ra điều gì, Aja bé nhỏ ạ. Nói riêng với cháu, ta sẽ rất ngạc nhiên nếu cô nàng tóc vàng bé nhỏ ấy nặng quá nửa khối lượng đó.

Trong khi ánh mắt Eve Marie hướng về những hạt bụi vô hình khác, Aja nhìn chăm chăm xuống khu vườn của khách sạn. Nhiều nhất cũng khoảng hai chục người đang trò chuyện, uống và chờ cảnh hoàng hôn. Aja nhận ra Martial Bellion ở bên dưới một chiếc đèn, anh ta đang ngồi trên chiếc ghế cao. Một bé gái sáu tuổi ngồi trên đùi.

Vợ anh ta không hề ra khỏi phòng... Naivo đã nói đến những dấu vết vật lộn trong phòng. Những vết máu. Giả thiết tích cực rằng người đẹp đã bỏ trốn vì tình đang trở nên rất tối tăm...

Anh chàng chồn sóc hẳn đã nhận thấy cuộc trò chuyện vừa kết thúc, anh ta tiến lại trong hành lang, tay cầm chùm chìa khóa. Sẽ phải giải thích với anh ta, cũng như với ông chủ khách sạn, rằng chương trình đã thay đổi. Armand Zuttor sẽ không thích đâu... Có đầy đủ khả năng để khiến những đồ vật bừa bãi trong phòng 38 trở thành những chỉ dẫn đáng tin cậy của hiện trường một vụ án. Aja cụp mắt nhìn đồng hồ. Lý tưởng nhất là sẽ phải đến lấy dấu vân tay, dấu máu, ADN, và toàn bộ phần còn lại của quy trình. Ngay tối nay.

Chỉ còn phải thuyết phục Christos di chuyển thôi...

Chú thích:

[8] Một chứng bệnh lạ do virus truyền từ một loài muỗi gây ra, được phát hiện lần đầu vào năm 2005 trên các đảo thuộc Réunion và quần đảo Comoros.

[9] Cách gọi những người gốc Paris giàu có từ thời thuộc địa.

[10] Người da trắng sinh ra trên đảo.

[11] Người gốc Paris định cư tại đảo Réunion.

[12] Điệu nhảy theo nhạc trên đảo Réunion.

[13] Người đảo Réunion Hồi giáo gốc Ấn.