← Quay lại trang sách

CHƯƠNG BA

Làn sóng học tiếng Anh đã và đang xâm chiếm, bao trùm khắp Sài Gòn.

Trước đây những học sinh từ lớp năm chuyển sang lớp sáu, em nào được xếp vào loại giỏi đều được tập trung vào các lớp Nga văn. Khi nền kinh tế nước ta thay da, đổi thịt, chuyển từ bao cấp sang thị trường, tiếng Anh trở nên hết sức cần thiết, thì điều nầy được bải bỏ.

Khắp đường phố, các trung tâm ngoại ngữ đang mọc lên như nấm. Tiếp đó, khi các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, tiếng Anh đã đánh bạt các ngoại ngữ khác, chiếm lỉnh hầu như toàn bộ thị trường.

Những ông thầy dạy tiếng Anh ngày trước, thậm chí những nhân viên, tư chức mà ngày xưa phải dùng tiếng Anh trong công việc, đều được các trung tâm nầy thu dụng.

Ở đại học, Khoa Anh văn đột ngột “lên giá”. Sinh viên đăng ký dự thi ngày càng nhiều. Tình trạng thiếu giảng viên khiến số sinh viên ra trường không đủ đáp ứng cho nhu cầu xã hội về chất cũng như lượng.

Nền công nghiệp không khói được nhà nước chú ý, quyết tâm phát triển nên quảng cáo rầm rộ. Du khách bắt đầu xuất hiện trên các vỉa hè ở Sài gòn. Những vị “tây ba lô” đầu tiên, quần sọt, đầu trần, đeo túi sau lưng…Họ đi lang thang khắp các đường phố, ngồi lắc lẻo trên mấy chiếc xích lô, hoặc đứng ở những ngã tư đèn xanh đèn đỏ hỏi thăm đường bằng cách vừa nói vừa quơ tay liên tục.

Người được hỏi thường là công an hoặc một phó thường dân nào đó, rất nhiệt tình cũng giải thích bằng miệng, bằng tay… Bằng tất cả những gì có thể cử động được.

Điều nầy được xem như một hiện tượng lạ, luôn là mục tiêu của những ánh mắt hiếu kỳ quanh đó. Một đôi khi vị khách may mắn nào đó, gặp được người biết được ngôn ngữ mà mình xử dụng. Thế là y mừng như gặp cứu tinh. Họ chuyện trò ríu rít khiến bà con đã đi qua, còn ngoái đầu nhìn cái vị đồng bào tóc đen thui của mình bằng ánh mắt tràn trề khâm phục.

Từ việc ngưỡng mộ ngôn ngữ tây phương bà con dần ngưỡng mộ tất cả những thứ gì xuất xứ từ trời tây. Các quán ăn, khách sạn đang mang bảng hiệu tiếng Việt cũng đổi sang tiếng nước ngoài để thu hút khách.

Nếu ngày xưa các cô gái “lấy Mỹ” bị coi là mối điếm nhục của họ hàng, thì giờ lại được trân trọng vì mang lại niềm vinh hạnh cho cả gia đình và bà con lối xóm.

Tuy khách nước ngoài được nhiệt liệt chào đón. Nhưng tiếc rằng ta mở cửa quá sớm mà không kịp chuẩn bị kỹ lưỡng. Chưa dọn dẹp sạch sẽ căn nhà của mình chớ nói gì tới việc trang trí. Nhà cửa còn bề bộn, nên khách đến chẳng ở lâu, khách đi không hẹn ngày trở lại.

Xóm “…” tuy hầu hết là dân lao động, thu nhập ít ỏi nhưng cũng nhanh chóng nắm bắt được ngọn gió của thời "mở cửa". Họ khuyến khích con em mình chuyên chú vào việc học tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Anh. Cái giấc mơ con mình trở thành bác sĩ, kỷ sư, dược sĩ, mà ai ai cũng ấp ủ được điều chỉnh lại. Họ hướng chúng đến các nghề nghiệp mà tiền lương được lảnh bằng đô la.

Ngày học đầu tiên chỉ có mỗi mình Hà. Công buồn thiu, mắc cỡ nữa, nhưng tự an ủi thôi thì một cũng còn hơn không.

Công lấy lý do là Hà đã bỏ công sức, tiền của ra chiêu đãi cả bọn nên nhất quyết từ chối, không chịu nhận học phí. Hà phải nhón chưn nhét nó vào tận đáy túi áo sơ mi của ông thầy.

Cái cảnh ấy bị những cô gái đang ngồi ăn chè trước hiên căn nhà đối diện trông thấy, thế là rộ lên cái tin là họ “hun” nhau giữa thanh thiên bạch nhựt.

Thời buổi nầy hể có tiếng là có tiền, cho nên nhờ vậy mà buổi học kế đó số học sinh tăng lên gấp bội. Đa số là đồng nghiệp của Hà. Họ đến để xem mặt mũi ông thầy như thế nào mà cưa đổ cô gái xinh đẹp, nổi tiếng thông minh, tinh nghịch nhứt xóm ấy.

Vừa may có một cô trong xóm được đổi đời. Cô gái đó nhờ biết chút đỉnh tiếng Anh nên làm quen với một ông tây, rồi được ông chồng ngoại quốc ấy rước theo về miền đất hứa.

Thế nên các cô còn lại bắt đầu nhen nhúm hy vọng. Họ rủ nhau học tiếng Mỹ để tìm vận may tương tợ. Cái lớp học của Công hội đủ ba yếu tố “thiên thời, nhơn hòa, địa lợi” nên phất lên như diều gặp gió.

Thoạt đầu bà con e ngại vì lớp học chỉ toàn các cô gái buôn hương bán phấn, họ không dám cho con vào học.

Các cô học trò vô tình đã quảng cáo miễn phí cho Công, khi đi đến đâu cũng ca tụng ông thầy trẻ dạy vui, dạy giỏi. Họ khen Công hiền khô, chẳng những không dám la rầy mà thỉnh thoảng còn có biểu hiện nể sợ học trò.

Vợ chồng chủ tiệm uốn tóc “Ngọc Nga” bắt đầu yên tâm, bèn cho hai đứa con gái nhỏ lên bảy, lên chín của mình đến học thử coi ra làm sao.

Hai đứa nhỏ đó đều mê tít thò lò!

Thế là các gia đình khác cũng noi theo. Mấy đứa nhóc còn lại thấy mấy đứa nó xí xô với nhau, đâm ra thích, cũng nằng nặc đòi đi học với tụi kia cho bằng được.

Cái tính a dua xem ra đóng góp hơn năm chục phần trăm sĩ số.

Lớp học không bàn, không ghế mà bà con gán cho cái tên “bụi đời“ ấy bắt đầu đông dần.

Học sinh đủ mọi lứa tuổi và thành phần. Ngoài các cô gái còn có một tên choai choai chưa có nghề nghiệp cùng mấy đứa cà nhỏng khác nữa.

Người lớn tuổi nhất là cô bạn ở cùng một nhà với Hà. Đứa bé nhất mới học lớp một, cháu ngoại của một “má mì” kiêm luôn nghề cho vay.

Thoạt đầu Công gom chung vào một lớp. Thế nhưng các cô gái ăn mặc, nói năng thoải mái quá khiến mấy đứa nhỏ bị phân tâm, nhất là cái cậu choai choai. Công chẳng thể nhét chữ gì vào đầu chúng, chàng phải tách ra làm đôi. Tụi nhỏ học trước, các cô gái học sau.

Sự thành công trong nghề dạy một phần là nhờ Công triệt để áp dụng cái nguyên tắc “không bao giờ làm học trò tổn thương dưới bất cứ hình thức nào”. Nhưng cái tính khôi hài mới giúp chàng nhiều nhất.

Nhờ những tiếng cười mà giờ dạy của chàng không hề nặng nề nhàm chán. Chàng hay pha trò cho không khí vui nhộn. Để học trò hiểu và nhớ, Công hay lồng những cử chỉ, lời nói có tính trào lộng vào bài giảng để thu hút sự tập trung và giúp chúng dễ nhớ. Phương pháp ấy vô cùng hữu hiệu.

Lớp học đó khiến bà con trong xóm hết sức ngạc nhiên.

Họ hỏi nhau:

-Cái ông thầy nầy dạy cái kiểu gì mà tụi nhỏ như bị thọc lét vậy trời?

Bởi thỉnh thoảng họ lại nghe những luồng sóng cười từ trong lớp tuôn ra từng đợt.

Công luôn làm cho giờ học sinh động bằng nét mặt vui tươi, minh họa bài học bằng những câu nói đùa dí dỏm. Chàng thường đặt ra các câu hỏi và khuyến khích họ trò hỏi lại mình.

Mỗi lần dạy phát âm chàng thường há miệng thật to, cho học trò thấy cách vận dụng môi và lưỡi rồi bắt làm theo cho đúng.

Những lúc thất vọng, buồn bực chàng thường biểu lộ bằng cách vò cho cái đầu của mình rối tung lên. Học trò biết đó là cái dấu hiệu cho thấy ông thầy mình sắp đứt gân máu, liền chuộc lỗi bằng cách ngồi thẳng lưng chăm chú học.

Hầu hết con nít (và người lớn chúng ta) đều khoái vui nhộn, đều thích được cười. Cho nên cái tánh cà rỡn, những câu nói đùa cùng những mẫu chuyện khôi hài của ông thầy khiến họ đi học đều đặn không nghĩ một buổi nào.

Từ những đứa bé tí mang tâm hồn còn mới nguyên như tờ giấy trắng, cho đến các cô gái phong trần mà cuộc đời đã để lại trong lòng họ những vết thẹo như các luống cày sâu hoắm, đều bị Công thu hút.

Thậm chí ở những cô mà mục tiêu ban đầu là đi tới lớp để trêu chọc cái ông thầy trẻ măng, đẹp trai cho vui. Cũng dần bị sự chân thành, nhiệt tình của Công cảm hóa. Những nụ cười gặt được các trong giờ học đó, đã giúp lòng họ nhẹ nhàng. Khiến đóm lửa của hy vọng, của niềm vui dần dần le lói.

Tâm hồn trong sáng, cùng cuộc sống nghèo nhưng lành mạnh, ( nhứt là cách cư xử trân trọng của Công đối với họ) đã khiến các cô gái chai sạn ấy thay đổi từng chút một.

Họ không còn ăn mặc hở hang, đến lớp với áo quai, quần sọt như trước nữa. Những câu chửi thề nói tục cũng dần giảm bớt. Cái lớp học ấy không ngờ đã giúp mấy cổ phục hồi nhân phẩm một cách nhanh chóng và manh nha cái tư tưởng đổi nghề dù chưa thể.

Điều nầy khiến cho những gia đình trong xóm mừng còn hơn trúng số.

Lớp “BỤI ĐỜI” ngày thêm đông nhưng cơ sở vật chất chẳng hề cải thiện, bởi học phí rẻ rề nên tiền kiếm được vừa đủ cho Công trang trải việc ăn học, đâu có dư mà sắm bàn, sắm ghế.

Học sinh vẫn phải đến lớp, với một tay ôm tập, một tay xách ghế. Chiếc ghế nhựa thấp thấp ấy được dùng thay bàn học.

Cái cảnh trò ngồi chồm hổm trên nền nhà, ông thầy thì cúi gập người để sữa những chữ viết sai của trò, vẫn tiếp diễn khiến ai trông thấy cũng thương thương, tội tội.

Ông chủ tiệm uốn tóc mừng rơn khi hai đứa con mình ngày càng ham học và tiến bộ rõ rệt. Vốn có nghề thợ mộc nên rủ bà má mì bỏ tiền ra mua ván, ổng góp công, tự tay đóng tặng cho “nhà trường” bốn cái băng thật dài. Hai cái cao làm bàn còn hai cái thấp hơn làm ghế.

Cha mẹ của đám trò nhỏ và bà con trong xóm đều tỏ ra ưu ái năm chàng trai trẻ, đặc biệt là Công. Cho nên thỉnh thoảng đang ăn cơm, một người trong họ phải bỏ đũa chạy ra xem ai gõ cửa, rồi lại quay vào với tô canh chua, mắm kho hoặc dĩa tép rang ngon lành trên đôi tay.

Một em học trò có má bán trái cây ngoài chợ. Thế là lâu lâu hệ thống miễn dịch trong cơ thể của họ được tăng cường nhờ chuối, chôm chôm, cam, xoài, vú sữa…v…v…

Mấy cô học trò đôi khi được khách hàng mời đi ăn. Chạnh nhớ tới ông thầy và mấy người bạn ốm đói của ổng, thế là kêu cả đống thức ăn để mang về biếu.

Có khi nửa đêm họ rón rén gõ tay lên cửa, trao vội mấy cái bánh bao hoặc vài ổ bánh mì thịt, hay một hộp xôi mặn to đùng, khiến cả bọn đều mũi lòng, ấm bụng.

Năm chàng trai đền đáp lại tấm thạnh tình đó bằng cách hăng hái giúp đỡ khi được bà con nhờ đến, như đi dự những cuộc họp phụ huynh mà nhà trường bắt buộc, viết thư tình giùm cho các cô…v…v…

Giá mà bọn Công biết được bà con trong xóm hãnh diện về cái lớp học và mang ơn họ nhiều như thế nào, chắc sẽ mừng và cảm động đến phát khóc.

Danh tiếng cái lớp của ông thầy vui tính đã bay xa. Bởi giúp bà con vơi bớt mặc cảm, nên đi tới đâu họ cũng đem nó ra khoe.

Như một loài hoa lạ đột nhiên xuất hiện giữa đám cỏ dại. Cái lớp học ấy được mọi người hết lòng yêu quý.

Điều nầy chẳng những khiến các chàng trai phơi phới tinh thần mà Hà cũng vô cùng vui sướng. Cô ngấm ngầm tự hào khi Công nửa đùa, nửa thật bảo rằng, nhờ cúng tổ và cô mở hàng mát tay nên chàng mới “ăn nên làm ra “ như vậy.

Những vị thầy có lương tâm rất “cưng” mấy đứa học trò thông minh, siêng năng, ngoan ngoãn. Công là một người thầy rất có lương tâm và Hà là cô học trò rất thông minh, chuyên cần, không nghĩ học buổi nào.

Bởi thế nên cái công việc vỡ lòng cho cô học trò xinh đẹp ấy đối với Công như một niềm vui, một chuyến du hành, mà nhờ đó chàng khám phá ra một sứ sở đầy màu sắc và vô cùng thú vị.

Khi Tánh hỏi chàng về việc học của Hà. Công đáp:

-Tao dám chắc không có người thứ hai nào thông minh bằng cô ấy. Trong đầu cổ như có một viên kim cương rất to ở trỏng. Nó rọi sáng trưng, hể tao dạy qua một lần là cổ biết liền. Mới tập viết mà nét chữ rất cứng, rất đẹp.

Tánh cười cười rồi nói:

-Tao thấy Hà thông minh và giỏi lắm đó! Có khi còn hơn mấy thằng mình cộng lại.

Công lại nói:

-Điều tao khâm phục nhứt là thái độ lạc quan, yêu đời của cổ. Tuy làm cái nghề bị mọi người rẻ rúng mà cổ vẫn ngẩng cao đầu. Chẳng chút tự ti mặc cảm, có cái nhìn hết sức độc lập, phóng khoáng khác xa người thường.

Tánh cười, phụ họa:

-Hà quá tự tin, gần như tự tôn nữa là khác. Cổ làm như được trúng tuyển vô cái nghề tủi nhục hạng nhứt đó chớ không phải lỡ bước sa chưn vào đấy. Không chừng còn cho rằng nếu có xấu hổ thì chính nam giới tụi mình, người mua mới chịu, chớ người bán như cổ thì chẳng can hệ gì. Đúng là một cá nhân rất độc đáo.

Công bênh vực:

-Xét ra cái nghề nầy bị lên án hết sức oan uổng. Theo tao chuyện đó cũng giống như ăn, uống và các nhu cầu cần thiết khác. Tại người ta gán cho nó một ý nghĩa xấu xa. Xã hội loài người lại hùa nhau nghiêm cấm nên thiên hạ càng bị kích thích. Điều nầy khiến cái nhu cầu về nó ngày càng cao mà lượng cung cấp thì hiếm hoi, nên các cô gái có hoàn cảnh không may ấy phải hành nghề lén lút. Họ mang mặc cảm phạm tội, trở nên tự ti rồi bị bốc lột, lợi dụng tối đa. Nếu nhà nước cho họ hoạt động công khai, cấp cho họ cái giấy phép hành nghề và kiểm tra đều đặn như các ngành ăn uống, giải trí khác thì biết đâu xã hội được lành mạnh hóa. Họ cũng không có nguy cơ trở thành nạn nhân của những mụ tú bà, những tên ma cô và mấy tên cuồng dâm.

Tánh vỗ vai Công rồi nói:

-Mầy đừng có lo, theo cái đà nầy tao thấy trước sau gì nó cũng được hợp thức hóa rồi lành mạnh hóa. Biết đâu còn được coi như một môn thể thao, được thi đấu ở thế vận hội đàng hoàng.

Cả hai bá vai nhau cười nghiêng ngã.

Công nói:

-Tao nghe thằng Hy nó nói ba cái chuyện đó rất tốt cho sức khỏe, giúp người ta giải stress, tim khỏe lên, tăng cơ, giảm mỡ...Có đúng hông mậy?

Tánh lắc đầu:

-Tao đâu có biết! Nhưng nghe cũng có lý vì đa số dân độc thân hay bị chết non!

Rồi nói một cách nghiêm túc:

-Hổng chừng nó sẽ được mấy ông bác sĩ kê vô đơn cho bệnh nhân. Quy định họ phải thực hiện đều đặn mỗi tuần mấy lần, mỗi lần bao nhiêu phút nữa đó!

Công cười đến ho. Chàng ráng dừng lại rồi nói:

-Biết đâu nó được đưa vào giảng dạy, có thi cử hẳn hoi! Tới chừng đó mấy cô trong xóm mình trở thành giáo sư nổi tiếng hoặc chuyên gia hết ráo. Hổng biết chừng tụi mình phải sắp hàng xin chữ ký của mấy cổ.

Tánh bỗng đổi giọng hăm he:

-Mầy liệu hồn đó nghe! Tao thấy cái cô Hà nầy không đơn giản đâu. Những người có một tuổi thơ bi đát, dễ gì có nét mặt tươi rói, thái độ tự tin như cổ. Nghe cái cách cổ nói chuyện ai mà tin là dân mít đặc…

Không để Tánh nói hết, Công bác ngay:

-Bộ mầy không nghe cổ nói là cổ làm trong cái bar mà khách toàn là dân có tiếng, có tiền và người nước ngoài hay sao? Ở bầu thì tròn, gần đèn thì sáng, có gì đâu mà lạ! Hơn nữa kiến thức đâu chỉ có trong sách vở. Hiện giờ các phương tiện thông tin đang bùng nổ, lan rộng đến tận mấy cái hốc bà tó. Nhà nào cũng có ra dô. Ti vi đâu còn là của hiếm. Cho nên cứ chịu khó mở tai, mở mắt ra là khai trí mấy hồi!

Tánh trề môi:

-Coi bộ mầy tin tưởng cổ tuyệt đối, nên bênh chầm chập. Ráng mà giữ cái tình thầy trò cho trong sáng nghe chưa! Đừng có để nó đổi màu, rồi giúp đâu không thấy mà hại nhau cùng khổ đó nghe mậy!

Công làm thinh, chàng không dám nói với Tánh rằng chàng đã sớm phát hiện ra Hà nói dối. Ngay dòng chữ đầu tiên nàng viết, Công đã nhận ra nó y hệt như nét chữ trong lá thư tiếng Anh mà nàng nhờ Công đọc.

Chàng đã biết rằng Hà vô cùng tinh nghịch. Cái tính thích gì làm nấy, có phần nông nổi đó chứng tỏ nàng là đứa con được cưng chiều rất mực. Những câu nói cố làm ra vẻ ngây ngô dốt nát, chẳng thể che đậy kín mít cái tia sáng thông minh, hóm hỉnh thỉnh thoảng lóe lên trong ánh mắt của Hà.

Công cũng vậy! Chàng đang đóng vai một ông thầy ngờ nghệt, giả vờ tỏ vẻ tự hào rằng nhờ mình dạy hay mà Hà mới biết chữ nhanh đến vậy. Công ví Hà như một con chim quý, lìa bỏ vườn ngự uyển để ghé thăm. Chàng không dám đánh động vì sợ nó giật mình rồi bay đi mất tiêu, mất biệt.

Dù biết Hà nói dối, dù nghi ngờ nàng mang mình ra đùa cợt. Dù vẫn hoang mang về mục đích của nàng khi cố ý tiếp cận mình. Công vẫn không thể không quý mến Hà.

Cái tình cảm ấy đã vượt quá mức bình thường, đang lao đi với vận tốc của ánh sáng, Công muốn cản cũng không thể được.

Công biết rằng dù sao nầy Hà có cư xử với mình như thế nào đi nữa, chàng vẫn mãi trân trọng những gì nàng mang đến cho mình. Chẳng những không hề oán trách, Công còn cảm thấy tràn ngập một niềm tri ân đối với Hà.

Chàng thường âm thầm gửi đến nàng lời cám ơn chân thành của mình: Cám ơn nàng đã khiến chàng chờ đợi ngày mai bằng một tấm lòng háo hức; Cám ơn nàng đã cho chàng cảm giác tràn trề hạnh phúc; Cám ơn về chiếc áo nàng mặc, tiếng cười nàng gieo, cả mùi nước hoa nàng xức lên người... Để chàng được nhìn ngắm, nghe và cảm nhận hình dáng, âm thanh, hơi thở của nàng đang chui vào mắt, tai, tim, phổi của mình.

Nhờ có nàng mà chàng dốc hết khả năng yêu thương của mình ra ban phát cho vạn vật. Nhờ có nàng mà thế gian đối với chàng như chốn thiên đường. Nhờ có nàng mà chàng có đủ năng lượng và lòng hăng hái để đáp ứng mọi đòi hỏi của loài người và cả ông trời (nếu ổng ra chỉ thị rõ ràng)!

Sức mạnh ái tình giúp Công khám phá nơi ẩn nấp của hạnh phúc. Khám phá ra cái chân lý quan trọng nhất của cuộc đời mình. Khám phá ra điều kiện giản đơn để duy trì cuộc sống trên trái đất và cải thiện bản chất con người chính là tình thương yêu!

Lời cảnh báo của Tánh quá trễ nên đã trở thành vô dụng mất rồi!