← Quay lại trang sách

- 4 -

Gió thổi ào ào. Gió tốc mấy tấm tôn cũ khua nhau lèng xèng tạo nên những tiếng động khó ngủ trong con hẻm nhỏ mang tên Hoàng Đạo.

Đêm đã khuya lắm rồi, dãy nhà đối diện với bức tường ga Hòa Hưng câm lặng đã đóng cửa im ỉm, ngủ vùi trong tăm tối. Chẳng có lấy một chút ánh sáng nào ở khu vực nầy, cho dù một ngọn đèn néon vàng vọt đi nữa. Đâu đó có tiếng chó sủa rân một cách vô lối rồi sau đó lại là một không gian tĩnh mịch, yên ắng. Gió từ dưới con kinh đen ngòm thốc lên, mang mùi hôi thối tộng vào mũi thằng Tài. Nó vẫn đang nửa thức nửa ngủ trên cái võng đan bằng ny lông đã rách te tua và được ngoại nó vá chằng vá đụp. Mấy lần Tài đã tính thay cái võng của nó nhưng ngoại nó không cho. Bà Tám Trầu – ngoại nó - luôn miệng kể:

“Đồ kỷ niệm của má mầy đó, rách kệ nó, để tao chằm lại. Mầy nằm cái võng nầy hồi còn đỏ hỏn.”

Còn bây giờ Tài đã được mười bốn tuổi, cái tuổi mà lẽ ra nó phải cắp sách đến trường như bao đứa nhỏ khác. Nhưng nó không được cái diễm phúc đó vì má nó chết sớm, chết khi nó được ba tuổi. Thằng Tài không có ba. Bà ngoại nó khẳng định với nó như vậy. Cái người đàn ông mà đáng lẽ nó gọi là ba đã vắng bóng trong ký ức non dại của thằng Tài. Ông ta đã vượt biên khi vợ chớm mang bầu, bỏ mặc vợ ở lại mà không một lời từ giã. Ông ta đang sống ở phương trời nào hay đã làm mồi cho cá, bà ngoại thằng Tài hoàn toàn không biết.

Cái thời điểm của những năm 1979, 1980 là cực kỳ khó khăn, má thằng Tài phải bươn chải mua bán nuôi đứa con nhỏ xíu và nuôi mẹ. Sự khổ cực đã quật ngã người phụ nữ trẻ và chị đã ra đi vĩnh viễn vì một căn bịnh quái ác: lao màng não. Thế là thằng Tài mồ côi cả cha lẫn mẹ, đúng hơn là mồ côi mẹ vì nó có ba đâu.

Căn nhà ọp ẹp của má Tài để lại là chốn nương thân duy nhứt có giá trị sống còn của hai bà cháu.

Từ căn nhà trống trước hở sau đó, bà Tám Trầu nấu nồi xôi đậu đem ra ngồi bán cạnh đường rầy xe lửa kiếm tiền nuôi cháu. Và cái thằng Tài đã lớn lên bên cạnh con kinh hôi thúi, nghiễm nhiên trở thành thằng nhóc nhẩy tàu lửa, ăn cắp vặt nổi danh đến nỗi đám bụi đời lấy tên nơi ở của nó đặt kèm tên nó: Tài Hoàng Đạo.

Nó bị công an Hòa Hưng tóm cổ nhiều lần nhưng ở lứa tuổi mười một, mười hai, lại là một thằng khôn ngoan nên nó chỉ bị cảnh cáo rồi thả. Sau những lần như vậy, Tài Hoàng Đạo càng khôn hơn. Cái việc làm nó từ bỏ nhẩy tàu lửa là có lần nó đã thấy một thằng nhóc trạc tuổi nó rơi xuống và bị xe lửa cán nghiến mất hai chân. Vô bịnh viện thằng nhóc đó cũng chết luôn vì bị mất máu quá nhiều. Cảnh tượng đó làm thằng Tài Hoàng Đạo kinh hãi và nó đâm chùn chân, không dám nhẩy tàu nữa. Nó lui về khu Hoàng Đạo, tập hợp đám em út ở khu Hòa Hưng bàn tính chuyện làm ăn khác.

Tài Hoàng Đạo men đường rầy xe lửa ra đường Huỳnh Văn Bánh, mò ra chợ Mới - cái chợ được cất lên từ một khu nghĩa địa đã giải tỏa.

Nhưng ở chợ Mới thì chẳng làm được cái gì, lớ quớ là vô “ấp” ngay vì ở chợ nầy người ta giữ gìn an ninh tốt lắm. Thế là từ Hoàng Đạo nó băng qua Cầu Sạn, trổ ra Đặng Văn Ngữ và trong một đêm lang thang nó đã bắt gặp cái không khí huyên náo ở lò mổ. Nó đã thấy những thằng nhóc trạc tuổi nó “mần ăn” ra trò nhờ cái lò mổ trời cho đó...Tài Hoàng Đạo trở mình trên võng, tiếng muỗi vo ve bên tai làm nó khó chịu vô cùng.

Bà Tám Trầu vẫn ngủ say trên giường, không hề hay biết thằng cháu nhỏ đang thao thức suy tính công việc trong đầu. Thằng Tài đập muỗi bồm bộp, mắt lim dim nhưng đầu nó suy nghĩ thật căng thẳng.

“Tụi nó cho mình biết thằng Cường Lì cũng ghê gớm lắm. Mình mà xâm phạm vào lãnh địa của nó là có đổ máu ngay. Hay là mình dàn xếp với nó? Nó hổng chịu đâu. Nó đâu có chịu nhịn ăn dễ dàng như vậy? Chậc, lúc nầy công an bố ráp rát quá, chịu đói à? Hay là trở lại nghề nhẩy tàu? Hổng được, rủi tàn phế hay... chết thì ai nuôi bà ngoại...”

Thằng Tài suy nghĩ miên man. Dưới lòng kinh, trong đám rau muống xanh um, những chú ếch nhái kêu inh ỏi. Sau nhà nó là bãi cỏ mọc um tùm lan gần sát mé nước đen ngòm, mấy con dế gáy ren rét nghe buồn não nuột. Nó lại xoay mình trên võng, tay gãi đầu sồn sột... “Mình nghĩ lung tung quá. Hay mình sợ nó? Tài Hoàng Đạo mà sợ à? Còn lâu. Được lắm. Để gọi tụi thằng Ba Nhỏ, Lé Sóc sang thử phổi tụi Cường Lì xem sao. Thôi ngủ, mai tính tiếp.”. Thằng Tài Hoàng Đạo quờ tay nắm mép cái mền vải đen sì thủng lỗ chỗ quàng kín người rồi lắc mình một cái cho cái võng đung đưa. Tiếng kẽo kẹt vang lên chơi vơi giữa trời đêm sâu thẳm, mấy tấm tôn cũ vẫn tiếp tục điệu nhạc lèng xèng của chúng theo từng cơn gió mạnh. Những tiếng động đó chẳng mảy may tác động đến cơn buồn ngủ của thằng nhóc bụi đời. Nó chìm ngay vào giấc ngủ mặc cho bầy muỗi đói vẫn bay loạn chung quanh.

Nhưng thằng Tài ngủ chưa được đã giấc thì bà Tám Trầu đã thức dậy. Bà lò mò tìm hộp quẹt, đánh diêm châm lửa vô ngọn đèn dầu hoa kỳ rồi lần ra sau nhà vo nếp, đãi đậu nấu xôi. Tiếng động lịch kịch làm thằng Tài giựt mình. Nó biết bà ngoại đang chuẩn bị nồi xôi đi bán. Kéo tay tụt cái mền đen xỉn xuống ngực, nó nằm nghe bà nó vừa làm vừa ho sù sụ. Ngoài trời hãy còn tối đen mà bà nó phải lò mò làm việc, thằng Tài thấy xốn xang trong lòng. Đã bao lần nó xốn xang như vậy và bật dậy ngăn ngoại nhưng bà Tám Trầu đã mắng nó:

“Tao nghèo thì tao nấu xôi tao bán. Ai dám khinh tao? Còn mầy liệu đó, bày đặt làm bậy có ngày đi cải tạo mút chỉ, tao hổng có thăm nuôi nổi đâu”.

Những lần nghe bà cảnh cáo như vậy thằng Tài chỉ biết lảng sang chuyện khác hoặc phân bua với bà ngoại là nó làm ăn đàng hoàng lắm, không hề có chuyện gì bậy bạ. Nhưng bà Tám Trầu dư biết đám con nít bụi đời ở đây chẳng được học hành, bạ gì lấy nấy, ăn tục nói bừa lại hay đánh lộn. Bà cũng biết rõ tụi nhỏ đó sợ thằng cháu bà, cái thằng lầm lì ít nói mà hễ nói “dộng’’ là dộng ngay. Bà sợ cháu sẽ mang thân tù tội, nó mà đi cải tạo hay đi tù thì bà còn thiết sống gì nữa. Bà Tám Trầu thương thằng cháu ngoại quá, bán được đồng xôi nào bà cũng đong gạo hết, phòng thằng cháu đói. Nhưng có khi nào thằng Tài chịu ăn cơm ở nhà đâu, nó đi đâu, làm gì thì bà hoàn toàn mù tịt, nhiều khi tối mịt nó mới mò về, người lấm lem như ma. Thằng Tài chỉ tắm nhoáng một cái rồi lăn ra ngủ như chết, đồ đạc vất bừa bãi trong nhà. Có lần bà lục túi nó và bàng hoàng thấy cả đống tiền. Sáng ra bà vặn hỏi mãi nhưng thằng cháu chỉ cười toe, đưa cho bà hai trăm ngàn rồi vọt mất. Số tiền đó bà Tám Trầu chẳng đụng đến bao giờ vì bà sợ nó là đồng tiền phi nghĩa. Nhưng rồi mấy lúc gần đây thì thằng Tài chỉ quanh quẩn trong xóm, uống cà phê hút thuốc suông và bà biết cháu bà rỗng túi vì bà phải trả tiền thiếu cà phê, thuốc lá cho nó. Bà không hiểu vì sao nó ở nhà nhưng bà lại mừng vì như vậy bà đỡ lo hơn. Thời buổi nầy tai bay vạ gió bất ngờ lắm. Nhưng bà Tám có biết đâu thằng cháu bà đang có một toan tính dữ dội...

Thằng Tài ngồi bật dậy, bước ra sau nhà. Nó đứng lặng nhìn ngoại nó đãi đậu hồi lâu rồi ra lu múc nước rửa mặt. Bà Tám ngạc nhiên:

- Trời còn tối hù mầy không ngủ, thức chi sớm vậy?

- Tui hổng buồn ngủ nữa. Sớm sủa gì, xe lửa chạy bây giờ.

- Thằng Tài đáp lời ngoại – Bà để tui nhúm lửa cho.

- Mầy để tao làm, đi ngủ tiếp đi. – Bà Tám lại nói, giọng âu yếm – Mồ tổ cha mầy, hay là lại ra quán già Sửu uống cà phê sớm?

.

- Ừa, tui đi uống cà phê đây. – Thằng Tài quay ngoắt người, vòng qua hông nhà, lầm lũi bước trên con đường đá nhấp nhô. Bầy chó trong xóm sủa rộ lên khi thấy nó xuất hiện dưới bầu trời sao lấp lánh. Thằng Tài cười nhạt:

“Sủa nhiều vô, có ngày tụi tao cho tụi bây ra ngã tư Bảy Hiền, treo lủng lẳng ở quầy thịt chó là hết sủa!”

Từ trong hẻm sâu, nó đã thấy ở đầu đường Hoàng Đạo, ánh đèn tuýp trắng hắt ra từ căn nhà của ông già Sửu. Dân xích lô đã dậy trước nó và chắc đã ngồi đầy cái sân nhỏ nhà ông già rồi. Thằng Tài bước nhanh hơn, nó bỗng thấy thèm ly cà phê kho rẻ tiền và một điếu thuốc thơm.