HAI NGƯỜI ANH HỌ
Năm ấy Văn mới mười tám tuổi. Nhân vụ hè Văn về quê nghỉ, tình cờ gặp hai người anh họ cùng suýt soát tuổi với Văn: Thọ, con của người bác và Huân con của bà cô. Hai người cũng cùng ở Hà-nội về nghỉ hè.
Mới chỉ mấy hôm, ba anh em đã trở thành tri kỷ. Huân làm thợ may, đã vào nghiệp đoàn và đã được tuyên truyền nên hiểu biết ít nhiều về chính trị. Anh đem cách tổ chức nghiệp đoàn và tinh thần của giới thợ thuyền nói cho Thọ nghe. Còn Thọ, vì có học, lại từng đọc nhiều nên anh biết nhiều cái mà Huân không biết. Anh nói chuyện với Huân về tình hình thế giới, về việc cải cách hương thôn, vấn để vệ sinh, v. v... Cả hai đều có ý phục lẫn nhau.
Văn coi hai anh họ của mình như những bậc vĩ nhân vì thấy họ bàn đến những chuyện to lớn quá. Thọ và Huân cũng mến Văn, cũng tự cho mình là có bổn phận tuyên truyền, đưa dắt Văn.
Sáng sáng, sau khi tập thể thao xong, ba anh em thường rủ nhau lên đê chơi. Họ đi thủng thỉnh hưởng những cơn gió mát buổi sáng, ngắm mặt trời mới mọc và nhìn dòng sông nước đục lờ chảy êm êm. Chán rồi họ đến bên cái lò gạch bỏ không ở trên đê ngồi bàn chuyện thế giới. Họ nói thao thao không ngớt. Nào phê bình Tưởng Giới Thạch, Hitler, Mus- solini, nào bàn đến sự vượng suy của các nước, rồi lại tính đến chuyện hưng vong của nước nhà, cùng nhau dự tính nhiều câu chuyện đại sự mà cứ tưởng sức mình làm được dễ dàng. Có nhiều ngày, ba anh em quên cả bữa ăn, bận rộn nhiều, chép, chương trình, thảo viết báo hô hào, v.v... rồi đem giấu kỹ trong dui nhà để chờ ngày mang ra dùng.
Ngoài những tư tưởng cách mệnh, Thọ còn có tài xuất khẩu thành thơ và lại thích ngâm thơ của mình cho người khác nghe, Huân có tài vẽ, tuy anh chẳng học vẽ bao giờ. Thấy anh vẽ được bức tranh cô gái ngồi giặt trên cầu ao, hay bức Lã Bố hý Điêu Thuyền phỏng theo những bức tranh in của Tàu, thì cả làng khen anh có hoa tay, Thọ thường ngậm ngùi bảo Huân:
– Đấy anh xem, giá nước mình cũng được như ở các nước văn minh khác thì anh đã được vào trường theo học vẽ, để trở nên bực họa sĩ đại tài, nhưng ở nước mình thì anh lại đi làm thợ may.
Nghe Thọ nói, nét mặt Huân buồn buồn. Anh gật gù có vẻ tán thành nhưng không nói gì cả.
Có những buổi chiều, ba anh em ra bờ sông chơi. Văn và Thọ ngồi câu cá, Huân loay hoay vẽ những bức sơn thủy. Trong lúc ngồi chờ cá cắn câu, Thọ nẩy trí được bài thơ nào lại vội buông cần câu ghi chép rồi ngâm vang lên. Huân vỗ tay khen là hay, Thọ nhìn vào bức vẽ của Huân cũng tấm tắc khen giỏi.
Thấm thoát đã hết vụ hè, những chương trình đã thảo vẫn giấu trên mui nhà, chưa kịp đem ra thi hành thì ba anh em đã phải từ biệt nhau, người đi học, người đi làm. Từ đó, Văn ít có dịp gặp lại hai người anh họ.
Sáu tháng sau, Văn được gia đình cho sang Pháp học ; thế là anh lại càng không có dịp được gần Huân và Thọ nữa.
Tuy xa cách, nhưng Văn vẫn giữ trong lòng mỗi cảm phục hai người anh họ, Văn tin tưởng họ sẽ trở nên những người không thường.
*
Tám năm sau, Văn trở về nước, Anh vui mừng khi nghĩ đến sắp được gặp lại Huân và Thọ, vì trong thời gian ở Pháp, Văn vẫn chẳng quên những kỷ niệm êm đẹp và cái ý tưởng và trời thuở trước của mấy anh em. Văn cũng được tin Thọ và
Huân cùng đã có vợ. Độ ấy Hà nội nhộn nhạo, nhiều gia đình phải chạy loạn. Vì vậy, nhân thể Thọ ở tạm nhà quê ; nhà sẵn vườn, ruộng, anh trông nom theo nếp cũ bố mẹ, và vợ anh cũng là người nhà quê nên lần đầu anh không còn tính việc ra ở Hà-nội nữa.
Còn Huân, vì công việc không có nên cũng đành phải về quê làm ruộng đỡ vợ.
Một buổi, Văn đáp chuyến xe lửa sớm nhất về thăm Thọ và Huản. Văn nóng nảy muốn gặp hai người anh họ ở chốn cũ..
Tới ga, xe lửa vừa ngừng, Văn vội xách va ly nhảy xuống. Cảnh vật nơi đây vẫn vậy, sau tám năm xa cách mà không có gì thay đổi. Chung quanh cái nhà ga nhỏ bé, lèo tèo mấy quán nước vắng, và cái quán của bác Tý ở dưới gốc cây bàng vẫn còn bán món canh bánh đa cua. Món này ngày xưa ba anh em thích ăn lắm, thường rủ nhau từ làng ra ga xa chừng hơn một cây số để ăn bát canh bánh đa rồi lại trở về.
Văn rẽ vào con đường đất về làng, nhìn những thửa ruộng lúa xanh mới cấy ở hai bên con đường đất anh đang đi, và dàng kia, sau hàng tre xanh, thấp thoáng thấy cái cổng làng màu trắng. Mùi ruộng lúa, mùi cỏ, mùi đất, mùi mồ hôi của mấy con trâu đang gặm cỏ bên bờ, tất cả mọi thứ đó gây cho Văn một cảm giác vui vui nhưng lẫn có chút buồn
: trước cảnh quê hương thân mến, Văn cảm thấy tình đất nước vẫn mật thiết với mình. Tám năm trời ở Pháp, lúc này đối với Văn chỉ như một giấc mơ.
Vào đến làng, Văn tới nhà Thọ trước,
Văn thấy Thọ mặc bộ quần áo cánh ta, đang ở sản cúi dắt đứa con mới chập chững biết đi. Nghe tiếng chó sủa, Thọ ngẩng lên nhìn. Khi nhận ra Văn, bỗng nhiên Thọ luống cuống gọi người nhà ra đỡ đứa bé rồi chạy ra đón Văn. Thọ hơi lúng túng khi Văn đưa tay ra bắt, Miệng Thọ chỉ lắp bắp đưa được hai câu:
– Ồ Văn! Ồ, Văn!
Văn hỏi thăm đến Huân, Thọ chỉ đáp:
– Anh ấy độ này vẫn ở nhà.
Rồi Thọ gọi vợ con lên giới thiệu với Văn và bảo làm cơm thết Văn. Trong lúc ăn, Văn gợi chuyện thời thế ra để nói. Thọ cũng trả lời, nhưng không còn những giọng hăng hái, bồng bột như hồi nào nữa. Anh lại e dè nói với Văn:
– Ở đây bây giờ tại Nhật nó khủng bố ghê lắm. Tháng trước làng này cũng có mấy người bị bắt. Thôi, chưa phải thời, chúng mình chưa bàn đến việc gì được.
Rồi anh chỉ vào đĩa xào nói:
– Kia, chú xơi đi chứ. Thịt ếch đấy. Này ai làm ếch cũng lột da bỏ đi, chỉ có nhà tôi là nó lấy cả da. Nó tẩy bằng vôi rồi làm thế nào không biết mà xào lên ăn ròn, còn ngon hơn lòng tràng nữa. Lại còn gỏi cua, nó làm cũng khéo, để mai tôi bảo nó sửa soạn một bữa thết chú.
Lúc Thọ nói khen vợ làm khéo thì nét mặt vui tươi hẳn lên và miệng mủm mỉm cười. Còn Văn nhận thấy cách xưng hô của Thọ gọi minh bằng chú một cách rất tự nhiên.
Hai người đang ăn thì Huân đến,
Văn vui mừng bỏ đũa bát đứng lên nắm tay anh mà lắc. Mắt Huân long lanh lộ vẻ vui được gập Văn, miệng vẫn nhai trầu bỏm bẻm, anh cười nói:
– Tôi thấy nói có chú về, tôi vội xuống. Thế nào, khá chứ?
Văn nháy mắt nhắc lại một câu mà xưa kia mấy anh em thường nói:
– Ồ phải biết,
Huân cười đáp lại, Thọ hỏi Huân:
– Bác đã xơi cơm chưa? Cùng xơi nhân thể đi.
Huân đưa mắt nhìn qua mâm cơm, Anh ngần ngừ rồi trả lời, giọng không được thực thà:
– Mời hai chú, tôi đã vô phép.
Văn bỗng nhiên phá lên cười, nói: – Gớm, các anh bây giờ đứng đắn quá, nào chú nào bác cẩn thận. Sao không gọi tên như hồi xưa có tiện không?
Cả Huân và Thọ cùng cười ngượng ngập.
Huân đánh trống lảng:
– Chiều nay mời hai chú xuống xơi cơm với tôi nhé!
Thọ chưa kịp trả lời thì Văn đã đáp:
– Ồ, tôi chưa nói với các anh nhỉ. Tôi bận lắm. Nhớ các anh quá nên phải về chơi một buổi. Chiều nay tôi phải đáp chuyến tầu cuối sáu giờ ra Hà-nội.
Sự thực thì Văn không có gì bận đến phải ra ngay. Trước khi về đây, anh cũng sắp đủ các thứ cần dùng vào va-ly, tính ở lâu lâu ; nhưng anh đã chán nản thấy Huân nhai trầu bỏm bẻm và gần như khinh khinh Thọ, còn Thọ thì hình như bằng lòng về cảnh gia đình đầy đủ vợ khéo, con khôn của mình. Những chí hướng ngày trước, Thọ không còn dám khơi ra. Mỗi khi Văn nhắc lại, mặt Thọ cũng thấy lộ ra vẻ như buồn như tiếc, nhưng anh chỉ nói:
– Thôi, chưa phải thời, bây giờ ai mà dám làm gì. Làm việc mà không đợi thời cơ thì chỉ có mà ngồi tù chứ ích gì...
Cơm xong, Huân mời Thọ và Văn xuống nhà mình chơi. Thọ từ chối còn phải ở nhà trông con để vợ đi giã gạo, Văn chán nản đi một mình với Huân.
Tới nhà, Huân cũng gọi vợ lên giới thiệu với Văn, rồi giục vợ đi đun nước. Xong anh đứng lên lấy bộ chén hạt mít trên bàn thờ xuống rửa. Một lát sau, vợ Huân đem ấm nước sôi lên: Huân tự tay pha trà đưa mời Văn, Văn thở dài rất nhẹ, đỡ chén trà trong tay Huân xong đặt xuống, rồi thủng thẳng bước ra hè, tới cây cau bên cạnh bể nước, Văn ngừng lại nhìn đăm đăm vào những nét khắc tên của ba anh em hồi trước mà Thọ đã khéo tay khắc vào đấy.
Phía sau bể, sát với hàng rào dâm bụt, một cái lu vỡ vứt lăn lóc, Văn nhớ lại cái lu ngày xưa kia mấy anh em, dùng đựng nước lọc để uống mỗi buổi sáng trước khi tập thể dục.
Bỗng tiếng Huân nói bên anh:
– Chú còn nhớ cái lu đấy không? Tôi vẫn giữ nhưng hồi năm ngoái con Vện nhà tôi cắn nhau với con Mực bên bà Cả, chạy loạn cả lên làm vỡ mất. Giận quá.
Văn ngửng lên nhìn Huân, trong một phút Văn hiểu. Thì ra cũng có lúc Huân cũng như anh, nhớ tiếc những cái gì đã qua. Lòng Văn nao nao. Cả hai anh em cùng nhìn xuống sản mà cùng chẳng nhìn gì cả.
Mấy phút sau Huân lên tiếng trước ; – Mời chú vào xơi nước kẻo nguội. Khi hai anh em ngồi bên khay nước
Huân buồn rầu khẽ nói:
– Chú Thọ dạo này khác lắm, chú ạ. Chú ấy nghe thím ấy quá. Độ này tôi làm ăn vất vả, nghề may thì không có việc. Còn ruộng nương trước kia bên chú Thọ vẫn cho nhà tôi cấy rẽ năm mẫu ; năm nay thím Thọ đòi cả lại, nhà tôi phải nói mãi thím ấy mới để cho có hơn một mẫu.
Chiều đến, gần tới giờ tầu, Văn từ biệt Huân ra Hà-nội. Thọ cùng đi để tiễn Văn ra ga. Còn Huân chỉ tiễn tới cổng làng.
Đi được mấy bước, bất giác quay lại, anh bắt gặp Huân đang đứng nhìn theo mình. Ánh mắt Huân buồn bã, luyến tiếc. Văn cảm thấy Huân nhìn như có vẻ hai người từ biệt nhau mà biết không có dịp gặp nhau nữa, Văn giơ tay vẫy, Huân cũng giơ tay và nhếch mép cười như mếu.
Đi bên cạnh Thọ, Văn còn đương tìm cách định nói chuyện với Thọ về thơ phú xem độ này Thọ có còn hay làm thơ nữa không ; nhưng Văn thấy Thọ đi sát vào gần mình và lên tiếng trước, giọng to nhỏ:
– Này chú, bây giờ anh Huân khác lắm cơ. Hôm nọ, chị ấy sang vay nhà tôi hai thìa mỡ, nhà tôi nó cho vay mỡ đặc, mãi đến nửa tháng sau chị ấy mới mang trả, lại trả mỡ loãng mới rán. Chú thử tính xem hai thia mỡ đặc thì được đến sáu thìa mỡ loãng ấy chứ lại.
Văn ngạc nhiên nhìn Thọ. Thọ vẫn tiếp:
– Lại một lần chị Huân mang chén sang vay nước mắm, nhà tôi nó cũng cho vay. Nước mắm ấy nhà tôi nó mua những hai mươi đồng một lít mà nó rót cho vào chén cứ đầy ăm ắp, cái thứ chén con gà sâu lòng ấy. Thế mà lúc đã trả chị ấy đem trả nước mắm thối, mà lại đong vào cái chén nhỏ.
Cứ những chuyện như thế mà Thọ vừa đi vira kể mãi cho tới khi đến ga. Vừa may lúc ấy tàu sắp đến, Văn chen vào mua vé xong, không đầy mười phút sau tàu tới. Văn bắt tay Thọ từ biệt.
Lên đến tầu, Văn cảm thấy nhẹ nhàng như vừa thoát một tai nạn, Văn tìm một chỗ ngồi và bắt đầu suy nghĩ về những sự thay đổi của con người.