Xóm Nghèo

Xóm Nghèo

Tổng số chương: 7

Nhà văn Nguyễn Thị Vinh sinh ngày 15 tháng 7 năm 1924 tại Hà Nội. Hai cụ thân sinh mất sớm khi bà mới lên tám. Khởi đầu bà làm thơ sau đó viết văn từ những năm 1939-1940. Năm 1948-1951: bà và con gái sang Hồng Kông tị nạn chính trị cùng với chồng là dịch giả Trương Bảo Sơn. Năm 1953 nhà văn Nhất Linh (1906-1963) đề nghị Nguyễn Thị Vinh vào làm thành viên dự bị của Tự Lực Văn Đoàn để sau đó khi có cuộc họp sẽ chính thức công bố là thành viên chính thức, nhưng cuộc họp đã không xảy ra. Năm 1984, Nguyễn Thị Vinh định cư tại Na Uy cho đến khi qua đời vào ngày 8/1/2020, hưởng thọ 97 tuổi.

;

Các tác phẩm đã xuất bản: Hai Chị Em (1953), Thương Yêu (1954), Xóm Nghèo (1958), Men Chiều (1960), Cô Mai (1972), Thơ Nguyễn Thị Vinh (1972), Nổi Sóng (1973), Vết Chàm (1973), Cỏ Bồng Lìa Gốc (2005).

* BÉ HẢO

Hảo mới lên năm tuổi, Người nó ngắn ngủi, chẫm bẫm ; nước da đen dòn ; mớ tóc rối xù, luôn luôn che gần hết cả cái trán ngắn của nó làm mặt nó càng như bạnh thêm ra. Hai má nó phinh phính lúc nào cũng lem luốc, dính đất cát và nước mũi. Chỉ có đôi mắt nó là đặc. biệt, khác hẳn những trẻ chung quanh nó. Người ta bảo là mắt của nó giống mắt của mẹ nó. Cũng một kiều dài thuôn thuôn, đen lay láy và hai hàng mi dài làm tăng thêm vẻ hiền dịu. Tính nó hiền lành và chậm chạp lắm. Không ai nghe thấy nó chơi hò hét hay chạy nhảy bao giờ. Mỗi bận bị trẻ con hàng xóm bắt nạt thì nó chỉ khóc rấm rứt, mà khóc rất dai.

Nó ở với bà Sắc là cô ruột của nó. Bà Sắc cũng lành như bụt. Bà góa chồng, có hai người con trai đều làm thợ may ở tỉnh cả. Ở nhà chỉ có bà và Hảo sống hẩm hút với nhau ở trong một cái nhà tranh nhỏ bé tận cuối làng. Chiều chiều sau khi ở chợ về, bà Sắc cất quang gánh vào buồng, xong vội vã quay ra nấu cơm và lôi Hảo ra tắm giặt cho nó. Xong việc thì trời nhá nhem tối, hai cô cháu dọn cơm ngồi ăn với nhau ở vỉa hè để đỡ phải đốt đèn sớm sự hao dầu. Ăn xong. bà Sắc còn phải xay thóc làm gạo để sáng hôm sau mang ra chợ bán sớm. Hảo chơi loanh quanh bên bà Sắc một lúc rồi nó đi ngủ trước. Bên tai nó vẫn vắng nghe tiếng xay thóc đều đều mơ hồ như lẫn vào trong giấc ngủ.

Không bao giờ nó biết lúc nào cô nó vào nằm bên nó. Tuy đôi lúc lơ mơ nó có cảm thấy cô nó ôm chặt nó vào lòng, và nó cũng xoay người rúc đầu vào nách cô, ôm lấy người cô, rồi ngủ thiếp đi. Và đến sáng, khi nó thức giấc thì bà Sắc đã gánh gạo ra chợ bán từ lúc nào rồi.

Nội nhà chỉ còn mình nó và con chó vàng nằm im ở chân giường. Hảo chỗi dậy ra ngồi bệt ở ngoài hè, nhìn một con gà mẹ đang dẫn một đàn gà con tìm mồi ở góc sân đất sát ngay hàng rào cây dâm bụt. Những con gà con xinh quá! Cứ tròn như quả trứng, mầu lông vàng óng như mầu tơ. Có con mầu nâu, có con lại lốm đốm. Nhưng con nào cũng xinh, cũng đẹp cả.

Nó chợt nghĩ “Không biết thầy lũ gà con đâu mà không bao giờ nó thấy. Hay chúng nó cũng không có thầy đàn ông như thầy của thằng Tèo, thằng Cu Lớn v.v... mà chỉ có U, cũng như nó chỉ có cô Sắc thôi chứ gì”

Nhưng nó vẫn không hiểu tại sao nó lại không được gọi cô Sắc bằng U như tụi trẻ hàng xóm vẫn gọi mẹ chúng.

Ngồi nghĩ lần thần một lát rồi nó ra ngoài sản đình chơi. Nó gặp anh ba Hiểu đang bế thằng con nhỏ của anh. Trông thấy Hảo anh vui miệng hỏi:

– Hảo, U mày đâu? Hảo trả lời:

– Đi chợ rồi.

– Ai đi chợ?

– Cô Sắc.

Anh ba Hiều bật cười nói:

– Tao hỏi U mày cơ mà. Thế U mày là ai mày có biết không?

– U tôi là cô Sắc.

Hảo trả lời xong bỗng nhiên nó thấy tủi và thèn thẹn. Nó phải cái tính cả thẹn, cử có người hỏi đến một chút thì đỏ mặt. Biết mình đỏ mặt thì nó càng cuống đến phát khóc.

Anh Ba Hiểu thấy nó dơm dớm nước mắt thì không cười và cũng không trêu nó nữa, Chị Hai Ưu, chị Thèm, cụ Lý Bá và mọi người có mặt tại đấy đều nhìn nó vẻ ái ngại. Có vài tiếng chép miệng và thở dài nhẹ nhẹ. Hảo dấm dứt khóc, nó tức anh Ba Hiểu lắm: « Sao cái Tý nó đứng kia, anh không hỏi cái Tý mà lại đi hỏi nó. Và sao nó lại không gọi cô Sắc bằng U có được không? »

Mọi tối, sau khi ăn cơm xong, bà Sắc xay gạo còn Hảo chơi loanh quanh bên bà một lúc rồi dị ngủ trước ; nhưng tối hôm ấy Hảo cứ sẩn bẩn ở cạnh bà, khiến bà phải gắt lên dục nó đến mấy bận:

– Đi ngủ đi Hảo!

Nhưng Hảo vẫn cứ ngồi yên: Mấy lần nó định kể với bà câu truyện anh Ba Hiểu hỏi nó hồi sáng, nhưng nó không biết nói ra làm sao.

Trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu nhỏ, trên khuôn mặt luôn luôn lo âu của bà Sắc, các nếp nhăn như sâu thêm lên. Thân hình bé nhỏ của bà nghiêng ngả theo đà xay lúa một cách mệt nhọc. Đôi lúc tiếng cối ngưng lại tựa như bị vướng nghẽn, nhưng thực ra chỉ vì bà yếu sức không điều khiển được cối cho điều hòa. Hảo nhận thấy bà thường phải nghỉ luôn. Bà hay thở đánh phào một cái và đưa cánh tay lên gạt mồ hôi trán. Hảo biết bà mệt lắm. Lúc ấy nó muốn được bà ôm nó vào lòng để nó cũng ôm chặt lấy bà và gọi: « U ơi! » Nó muốn gọi cô Sắc của nó bằng U quá, nhưng chỉ mới thầm muốn thôi mà nó cũng đã thèn thẹn. Nó không biết làm thế nào để gọi được hai tiếng: « U ơi!» thân yêu ấy ra thành lời được nên nó cứ đần mặt ra ngồi nhìn bà Sắc.

Như cảm thấy điều gì trong cái nhìn của cháu, bà Sắc ngừng tay xay lúa, lấy vạt áo lau mồ hôi mặt vira để che bớt nỗi cảm động, bà bảo Hảo:

– Đi ngủ thôi chứ, con!

Nghe giọng nói thân yêu của bà Sắc, Hão thấy sung sướng và tủi thân, vì Hảo biết trong giọng nói ấy bà Sắc giấu nhiều nỗi yêu thương nó lắm. Nó bỗng òa lên khóc và nức nở bật kề cho bà Sắc nghe câu truyện hồi sáng anh Ba Hiểu hỏi nó và cười nó thế nào.

Giọng đầy nước mắt, nó hỏi bà.

– Thế sao con lại không gọi cô bằng U hở có? Hay tại con không có thầy?

Bà Sắc quay mặt đi để giấu nước mắt và mắng át Hảo trong tiếng cười gượng:

– Cha mẹ mày, hỏi lẩn thẩn mãi. Đi ngủ đi!

– Nhưng thầy con đâu? Thầy con là ai?

– Thầy mày là em ruột tao. Thầy mày chết từ hồi mày mới được ba tháng kia.

– Tại thầy con chết nên con mới không gọi có bằng U phải không cô?

– Không phải thế. Tại tao là cô mày... Bà Sắc ngưng kịp không nói nốt câu: «... chứ không phải là U mày. » Nhưng Hảo hình như cũng mang máng cảm thấy như thế nên trong lòng nó thắc mắc và buồn thế nào ấy. Nó muốn hỏi cô nó nhiều điều lắm, nhưng chính nó cũng không rõ là nó muốn biết thêm điều gì và hỏi thế nào, vì thế nó lại đần mặt ra.

Bà Sắc thương cháu, liền bế nó vào đi ngủ. Hảo ôm chặt lấy cổ bà rồi thiêm thiếp ngủ ngay trên tay bà.

Đặt cháu ngủ xong, bà Sắc lại quay ra xay lúa. Tiếng cối ầm ỳ, nhưng vẫn không làm tan được nỗi thương nhớ, đau buồn trong lòng bà.

Bà nhớ đến cậu Tốn, bố của bé Hảo, là người em trai độc nhất của bà.

Hồi còn sống, cậu Tốn làm cai thợ may cho một hiệu may đồ tây lớn nhất ở Hà-nội. Vì có hoa tay làm việc giỏi, cậu được chủ mến nên làm ăn rất khá giả. Câu Tốn rất thương bà, vì bà lấy chồng nghèo. Cậu luôn luôn giúp đỡ gia đình bà. Chồng bà được cậu lo cho đồng sưu, đồng thuế. Hai con bà được cậu đem lên Hà nội cho học nghề may. Mỗi lần cậu về làng thăm bà, bà rất thích nghe tiếng giày tây của cậu nện cồm cộp trên những viên gạch đường làng. Bà thường tủm tỉm nghĩ thầm:

– Trông cậu ấy mặc sang cứ y như là ông tham nhà nước vẫn về làng đo ruộng ấy.

Cậu Tốn thích ăn mắm tôm riu của bà làm. Cậu hay khoe với mọi người rằng bà Sắc làm mắm, làm tương giỏi nhất làng. Cứ ngồi nhìn cậu ăn cơm mắm với lá lộc sung một cách ngon lành mà bà thấy sung sướng. Làn nào cũng vậy, hễ bà định bắt gà làm thịt đãi cậu, thì bao giờ cậu cũng gạt đi, và chỉ đòi ăn cơm với mắm thôi,

Về mùa rét, cậu Tốn thích nấu nước lá chanh lá bưởi để tắm những dịp cậu ở nhà ; không để cậu phải hỏi, bà Sắc cũng tự ý đi hái lá đem bỏ vào chiếc nồi đồng to nấu nước cho cậu, rồi bà đem chiếc cót ra quây ở bên cạnh bề nước để cậu tắm ở đấy. Chiếc cót ấy bây giờ vẫn còn nhưng đã rách không dùng được nữa, bà đem để nó ra vườn sau cạnh chuồng gà. Còn cái nồi đồng to thì đã mấy năm nay vẫn cất y nguyên ở buồng trong. Xưa kia còn cậu Tốn thì chiếc nồi ấy chỉ để thỉnh thoảng nấu nước tắm cho cậu, và ngày Tết thì luộc bánh chưng, nhưng bây giờ bà không lấy ra dùng làm gì nữa. Bà sống giản dị, không bao giờ phải cần đến một nồi nước nóng to như thế. Tết nhất bà cũng: không có gói bánh chưng như hồi còn chồng bà và cậu Tốn nữa. Bây giờ, người ít, ăn ít, gói không bõ công. Vả tiền đâu.

Hồi cậu Tốn chưa vợ, bà vẫn rắp tâm định hỏi cô Vân, con ông Lý Cựu cho cậu, nhưng bà chưa kịp nói thì bỗng một hôm, nhân dịp làng có hội, cậu Tốn về đem theo một người đàn bà ăn mặc theo lối tỉnh, dáng người óng ả, có cặp mắt thuôn dài đen láy. Rồi cậu giới thiệu với mọi người là vợ cậu. Bà Sắc buồn mất ít lâu không phải bà không ưa người em dâu, vì mợ Tốn rất thùy mị, bà không chê trách mợ điều gì. Nhưng tại bà khô- ng còn được tự tay săn sóc cho người em trai độc nhất của bà như trước nữa, Trong tình chị em của bà đã có nhiều sự thay dồi nhỏ nhặt, tuy hai người vẫn thân yêu nhau. Bà cảm thấy nhớ tiếc một điều gì không rõ rệt. Nhưng tính bà vốn hiền lành, giản dị nên không bao lâu, sau mấy bận vợ chồng cậu Tốn về thăm bà thì bà đả quen. Bà yêu quý chiều chuộng cả hai vợ chồng em. Mợ Tốn cũng quý bà thật tình. Cách đó mấy tháng sau ông Sắc qua đời. Bà khóc ngấm khóc ngầm mất mấy tháng mới tạm khuây. Trong thời gian này vợ chồng cậu Tốn về thăm bà luôn. Mợ Tốn hồi này đã có mang.

Tết ra được ít lâu tự nhiên bà thấy nóng ruột nên bà phải nghỉ buổi chợ, nhân thế ở nhà phơi thóc. Hôm ấy vào ngày hai mươi sáu tháng giêng. Bỗng có người gọi bà phải ra Hà Nội ngay, vì cậu Tốn mắc bệnh đau màng óc, hiện đã nằm ở nhà thương, và đã phát mê không biết gì nữa. Bà hoảng hốt theo người đó, ra tới tỉnh hồi bốn giờ chiều. Tới hai giờ đêm thì cậu Tốn mất. Hồi đó mợ Tốn mới sinh Hảo được ba tháng.

Nghĩ đến đấy như bị xúc động mạnh bà phải nghỉ làm, ngồi xuống đất đưa bàn tay lên bóp trán, bà lại nhức đầu, bà tự cảm thấy hồi này yếu hơn nhiều. Nhìn chỗ gạo làm chưa xong, bà thở dài. Cái mệt thể xác lẫn nỗi buồn trong tâm hồn làm người bà rời rạc. Bà đến phải bỏ dở việc đấy mà đi nghỉ thôi chứ không cố được nữa. Bà vừa đưa tay ra đằng sau tự đấm vào lưng mấy cái vừa uể oải đứng dậy thu xếp để nghỉ, Hình ảnh của cậu Tốn và chồng bà lại hiện ra trong trí nhớ

; bà vội đưa tay lên xoa mặt, như không muốn nghĩ đến nữa, nhưng nước mắt lại trào ra. Bao giờ cũng vậy, cứ để mặc cho ý nghĩ được nhớ đến chồng, đến em thì lòng bà lại bị đắm chìm trong nhớ thương se sắt, lẫn với mọi kỷ niệm vui buồn. Bà sợ buồn nhưng bà vẫn thích nhớ tỷ mỷ đến từng lời nói, từng dáng đi, cách dứng, từng việc làm của người đã khuất để mà tiếc thương, đau xót. Những lúc ấy, ít khi bà khóc, nhưng buồn thấm thía

! Còn khi nào bà cố không muốn nhớ đến thì trong lòng bật thấy khổ sở mãnh liệt làm bà lại nức lên khóc không thể nén được,

Trong nhà mỗi cái đều có ghi kỷ niệm của ông Sắc ; ngay chiếc bàn thờ kia chính tay ông đóng lấy để thờ gia tiên, bây giờ bà bầy thêm cả bài vị ông và cậu Tốn ở trên đó. Còn hai cây cảnh ở sản cũng là do cậu Tốn, nhân dịp Tết, mua ở tỉnh đem về, rồi lại do tay ông Sắc uốn thành hình con hạc. Sáng mồng một Tết năm đó, hai anh em ông Sắc và cậu Tốn dậy sớm đốt pháo mở hàng, hai cậu con bà reo vui chạy nhảy trên sân đất đỏ những xác pháo ; không khí trong nhà ngào ngạt mùi khói pháo lẫn với mùi hương và cỗ cúng. Trên bàn thờ đèn nến sáng ngời.

Xưa kia thì thế, chẳng bù với bây giờ ngày Tết mà ở nhà chỉ có mình bà và Hảo, Sáng mồng một bà theo tục lệ, dậy sớm để làm cỗ cúng. Bà cũng làm thịt một con gà, lúc ấy trời chưa sáng hẳn, Hảo hãy còn ngủ. Chỉ có mình bà thui thủi đi ra đi vào trong căn nhà bếp, ánh lửa rơm lập lòe không đủ làm tan không khí giá rét. Thỉnh thoảng bà phải ra sân múc nước ở bể. Mỗi lần đặt chơn trên mặt sân đất còn đẫm sương đêm lạnh buốt, bà lại chạnh lòng nhớ tiếc những xác pháo đỏ tươi của cái tết năm nào...

Thu dọn xong, bà khe khẽ lên nằm cạnh Hảo ; nhớ lại những câu con bé hỏi bà hồi tối, bà lại thương nó quá,

Hồi Hảo được sáu tháng, mợ Tốn mang Hảo về gửi bà nuôi hộ, vì mợ mắc đi buôn bán xa. Lúc đầu, mợ thường về thăm Hảo đều đều ; nhưng bẵng đi một dạo đến bốn năm tháng, mợ mới về. Lần này, mợ mang về biếu bà Sắc chiếc áo cánh bông, và Hảo được mợ may cho hai bộ quần áo bằng lụa màu hồng, một chiếc áo len đỏ do tay mợ đan. Mợ còn mua cho Hảo mấy thứ đồ chơi nữa. Mãi tới nay, Hảo vẫn còn giữ được con vịt bằng cao su từ dạo ấy.

Bà Sắc còn nhớ như in hình dáng mơ Tốn bế bé Hảo ngồi trên chiếc giường mé bên trái ; mợ vừa mặc áo mới cho con, vira cười nói chuyện với nó, nhưng mặt mợ thì đẫm nước mắt. Tối đến, mợ ngủ với Hảo cũng ở trên chiếc giường đỏ. Bà Sắc nghe mợ thì thầm nói với Hảo, tuy con bé không hiểu gì cả:

– Con ơi, mợ ở với con nhé. Con có thích cho mợ ở với con không? Con có thích ngủ với mợ không?

Rồi mợ hôn con chùn chụt. Ở giường bên này bà Sắc nằm im cố nén tiếng thở dài.

Kỳ đó mợ ở nhà chơi lâu nhất, dễ đến sáu, bẩy hôm ; và khi gửi Hảo lại với bà Sắc để đi, mợ khóc nhiều lắm.

Thế rồi bẵng đi mấy năm nay mợ không về nữa. Có người gập nói mợ đã có chồng nhưng trông mợ không được khá lắm và buồn buồn thế nào. Bây giờ nghe đâu mợ đã theo chồng đi xa lắm.

Nghĩ đến đây, bà Sắc bỗng ôm chặt lấy Hảo và nói nho nhỏ:

– Con! con ở với U. U thương con!

Không biết Hảo ngủ hay thức, nhưng nó bỗng xoay mình, rúc đầu vào nách bà và ôm chặt lấy bà.

Hơi nóng từ ở người hai cô cháu thấm lẫn sang nhau như một tình thương vô bờ bến...

Danh sách chương


Sách tương tự