Cũng Đành
TÔI biết, tất cả những gì đang hiện diện trước tầm nhìn, chỉ ít tiếng đồng hồ nữa, chúng sẽ biến thành ảo ảnh và trở nên kỷ niệm. Quả tình lúc này, tôi không thể có một nhận định chính xác, đâu là thực, đâu là hư!
Cái thành phố mến yêu, đã trên ba mươi năm, tôi có mặt, đã quá quen thuộc nhưng bỗng nhiên nó trở thành xa lạ từ con đường tới dãy phố, hàng cây! Tôi ngồi trên chiếc xe đạp cũ mèm, đạp từng vòng hờ hững. Trước khi mất hết những thứ gì quá quen thuộc, quá thân mến, người ta có cảm tưởng hình như những thứ đó có một hấp lực kỳ lạ bắt mình phải nghĩ tới, phải lệ thuộc vào nó như chiếc đinh gút trước sức hút của khối nam châm. - “Hay là thôi, mình hủy bỏ chuyến đi?” Đã có phút tôi nghĩ như vậy, vì cuộc đời đã mất mát quá nhiều, chỉ còn sự lưu luyến nhỏ bé này, chả lẽ để mất nốt? Tôi cứ suy nghĩ miên man, vòng bánh quay đều trên mặt lộ rộng rinh vì không còn nhiều xe lưu hành như ngày trước.
Ánh nắng đã ngả dài, bóng những tàng cây cao làm rợp một bên phố. Tôi ngửa mặt nhìn lên. Khung trời xanh ngắt không gợn một áng mây. Sài-gòn đang mùa mưa, nhưng buổi nay trời rất đẹp. Những vòm lá chao qua, chao lại theo cơn gió. Những chiếc lá rụng đuổi nhau chạy giạt vào mép lộ. Vài chiếc xích-lô đạp đợi khách đậu bơ vơ. Chưa bao giờ thành phố Sài-gòn lại buồn bã như vậy! Đây, tuy không phải nơi tôi sinh ra. nhưng chính nó đã nuôi dưỡng và cho tôi tất cả những hoài vọng cũng như thất vọng trong tuổi thanh niên. Hơi thở của tôi hòa cùng nhịp sống của nó. Tôi đã sống với tất cả đam mê, với những chứng tích đã khắc đậm vào tâm cảm như mũi dao nhọn chạm sâu vào mặt đá. Thế mà chỉ mấy tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ phải xa nó, xa vĩnh viễn như một chia lìa khuất mặt! Những hình ảnh từ một cõi mơ hồ nào lao vút tới như nhưng mũi tên thép cấm vào trí tưởng làm toàn bộ thần kinh choáng váng. Tôi cố gỡ từng mũi một, mỗi mũi được rút ra, đều mang theo dòng máu tràn trề. Tôi nghiến chặt hàm răng để ngăn dòng cảm xúc. Tôi muốn sống, muốn ôm cả cuộc sống đã trôi qua của cái thành phố này và giữ kín cho riêng mình. Từ một đại lộ tới con hẻm lầy lội sau mỗi cơn mưa, từ tấm mái tôn rỉ sét đến ánh đèn le lói hắt hiu trong một xóm nghèo, từ chiếc hàng ba lâu ngày, sơn đá tróc, từ nhánh bông giấy màu rực rỡ lả ngọn bên bờ tường, từ tiếng rao hàng mỗi sớm, mỗi khuya, tất cả lúc này a vào tôi như những rễ tầm gửi bám vào thân gỗ mục. Tôi ra đi, chưa biết may rủi nào đó đang chờ đợi ở ngã ba đường? Nếu ở lại, đời tôi cũng chẳng có cơ may tái tạo. Tôi sẽ phải cúi mặt trước kẻ thù tới khi nhắm mắt. Để dứt bỏ lòng suy nghĩ, tôi rướn mạnh người. Hai chiếc bàn đạp quay nhanh theo đà chân.
Chiếc xe lao qua những dẫy phố tới đầu con lộ, nhìn thẳng ra mé sông. Ngay sát đó, một Công Viên với bồn cỏ cằn cỗi, vài chiếc ghế đắp bằng xi-măng có dăm người ngồi, dáng điệu trầm ngâm. Tôi băng ngang lộ, tìm chỗ dựng xe, ngồi xuống ghế, nhìn dòng nước. Bên kia là Thủ Thiêm. Rặng dừa nước giăng ngang chân trời như răng cưa. Bờ bên kia, phía xa, một dẫy xà-lan đen ngòm đậu im lim, xen kẽ vài chiếc ghe chài nép sát, trông bé nhỏ, thật bé nhỏ so với chiều dài, rộng của dòng sông. Có cô gái đứng hong tóc trên mui một chiếc ghe. Gió thổi làm dòng tóc bay bay như những đợt sóng. Thỉnh thoảng, cô đưa tay lên vuốt, hình như muốn cho mau khô. Mỗi lần cô gái cử động, cái thân hình mảnh mai lại lay động như có sức đẩy vô hình. Cái hoạt cảnh này bất chợt làm tôi sống lại khoảng đời đã mất! Tôi nhớ, cũng một buổi chiều như thế này, ngày xưa, tôi đã cùng Mỵ qua sông trên chuyến đò ngang. Chúng tôi đã chạy nhảy trên con lộ đất đỏ hoe, uốn lượn theo bờ lúa. Chúng tôi đã đuổi bắt những con bướm vàng bay nhởn nhơ bên vệ cỏ. Chúng tôi đã ngắt những bông đòng đòng đưa lên môi, hút chất nước thơm mùi lúa mới. Chúng tôi đi mãi đến một thôn xóm xa, nơi có thật nhiều dừa nước lả ngọn trên con lạch, có chiếc cầu khỉ bắc ngang. Khi qua cầu, Mỵ bíu chặt lấy tôi vì sợ té. Đôi bàn tay nhỏ bé đã ôm tôi trong suốt khoảng thời gian tuổi trẻ thiên thần. Mỵ cứ lần từng bước theo tôi. Khi qua được quá nửa cây cầu, không hiểu sao, My buông tay. Mỵ đi từng bước rụt rè, lảo đảo. Bỗng Mỵ hụt chân. Sợ quá, Mỵ bíu chặt lấy tôi, cả hai mất thăng bằng cùng rớt xuống lạch. Chúng tôi lóp ngóp lội vô bờ, áo quần sũng nước. Mỵ chưa qua cơn sợ, da mặt tái xanh, đôi mắt mở to ngơ ngác. Tôi đưa Mỵ vào núp dưới bóng những tàu dừa. Mỵ xõa tóc, dòng tóc đen lánh như mun, chảy dài che lấp nửa lưng. Mỵ đưa tay lên vuốt cho dòng tóc bung ra trước cơn gió. Tôi nhìn những đường cong diễm tuyệt mờ ảo sau nếp vải ướt. Trông Mỵ lúc này giống một tác phẩm điêu khắc. Cơn gió mạnh đột nhiên ạp tới. Mỵ run vì lạnh. Nàng ôm chặt tôi. Những lọn tóc bay theo chiều gió quấn chặt lấy hai đứa như chiếc lưới bằng tơ. Chúng tôi cứ ôm nhau cho tới lúc áo quần khô hết mới trở về con lộ dẫn đến bến đò. Buổi chiều nay, buổi chiều cuối cùng, tôi có mặt tại nơi này, vô tình lại được nhìn dòng tóc bay trên bến sông buồn! Đã từ lâu, Mỵ không còn thuộc về tôi nữa; nàng đã lấy Khang, bạn thân của tôi, cùng ở trong Quân Đội, nhưng không cùng Đơn Vị. Còn tôi, sau đó ít lâu, vì định mệnh đẩy đưa, cũng thành hôn với người bạn cùng lớp với Mỵ khi trước. Chồng Mỵ hiện vẫn còn bị tập trung Cải Tạo tại miền Đắc. Tôi biết, trong hoàn cảnh này, Mỵ đang gặp khó khăn, cũng như gia đình tôi và bao nhiêu gia đình quân nhân khác. Cái cuộc sống này, không còn thuộc về giai cấp của chúng tôi nữa. Tôi muốn đến thăm Mỵ lần cuối, cũng như vài người bạn thân trước khi giã từ cái không gian khốn khó mà mấy chục triệu con người đang phải gánh chịu từng giờ, từng phút. Tôi ra đi, nếu may mắn, không bị Công An biên phòng bắt, không bị đại dương vùi dập, sẽ đến một phương trời khác, cũng kể từ đó, tôi và họ sẽ chỉ sống với nhau bằng kỷ niệm! Tôi thường nghĩ, một trong những bất hạnh cửa cuộc đời là không có bạn. Bạn bè tôi còn đó, có đó, nhưng tự trong thâm tâm, tôi đã cảm thấy mất họ và mất tất cả những gì thiêng liêng, quý báu mà cả đời tôi đã cố công gìn giữ. Trong tuổi hoa niên, tôi đã mất Mỵ và nàng đã trở thành một ngọn hải đăng le lói ở cuối chân trời tiếc nuối! Cho đến hôm nay, dưới sự thống trị bạo tàn của Cộng Sản, tôi đã mất hết, kể cả tự do! Tôi như con chim bị nhốt trong chiếc lồng chật, cứ tung mình nhảy quay cuồng để tìm không gian xoải cánh.
Dòng sông phản chiếu ánh sáng cuối của một ngày, long lanh như một chiếc gương vĩ đại. Vài ngôi sao nhấp nháy trên cao. Màu trời tím biếc, phẳng lỳ như tấm nylon căng thẳng. Rặng cây phía bên kia đã xậm màu trở thành một khối đậm đặc, nặng nề chắn ngang tầm mắt. Cảnh trí như chết sững, u uất, tạo nên ấn tượng ghê sợ! Tôi nhìn quanh quất. Mọi người đả bỏ Công Viên từ lúc nào, chỉ còn lại mình tôi với nỗi buồn câm tiếng. Những giờ phút cuối, tôi còn có mặt tại thành phố mến yêu này, sao thê thiết như vậy? Sự biệt ly nào cũng buồn, nhưng sự biệt ly quê hương hình như nó se siết, nó đớn đau đến tận cùng cảm giác! Tia sáng của ánh đèn hắt vào mặt cỏ Công Viên. Cảnh vật đó hoàn toàn bị xóa mờ, lẫn lộn. Tôi ngó ra mé lộ. Từ bờ hè bên kìa, một cặp trai gái dắt tay nhau băng qua đường. Họ dìu nhau đến góc bồn cỏ, nơi có hàng cây thấp lè tè. Tôi nhìn họ. Cô gái hãy còn trẻ, mặc chiếc áo bà ba màu sặc sỡ, mặt mày son phấn tèm lem. Chàng trai, bận đồ xanh công nhân, mái tóc dài thậm thượt phủ quá gáy. Vừa ngồi xuống, gã con trai đã ôm ngang thân cô gái, ghì chặt. Hai khuôn mặt áp vào nhau, hình như họ không nhìn, không biết gì, ngoài họ! Cái hoạt cảnh này, không phải lần thứ nhất tôi thấy, mà hầu như tất cả mọi Công Viên thành phố đều biến thành nơi trao đổi và trả giá ái tình mỗi chiều xuống. Dù không muốn, tôi vẫn phải chứng kiến những hành động sỗ sàng của gã con trai và sự chịu đựng của cô gái. Những chiếc khuy áo ngực mở tung. Một khoảng trắng mét lồ lộ dưới ánh đèn. Bàn tay gã con trai luồn dưới nếp vải. Bỗng cô gái rướn mình, cho tay cài cúc áo. Hai khuôn mặt rời nhau. Tiếng cô gái nói ráo hoảnh: - Anh trả tiền trước đi! - Xong rồi trả, hổng được sao? - Em hổng chịu đâu! Bữa nọ em bị một anh chơi xong là dọt đó! - Bao nhiêu? - Ba trăm đồng! - Úy trời, sao leo thang mau dữ vậy? Hôm trước có hai trăm thôi mà? - Anh nói giỡn hoài à! Mọi thứ đều leo thang, chứ có phải chỉ tụi em leo đâu? Anh thấy hôn, hai trăm đồng một tô phở rồi đó! Gã con trai không nói thêm lời nào cho tay móc túi quần, dúi vào tay cô gái tờ giấy bạc. Cô gái mở ra coi rồi đưa trả, vùng vằng đứng dậy bỏ đi, miệng lẩm bẩm: - Kẹo như vậy cũng đòi đi chơi! Gã con trai mân mê tờ giấy bạc, liếc nhìn theo cô gái đi khuất sau lùm cây, từ từ đứng dậy rẽ qua ngả khác.
Công Viên lúc này vắng hoe, chỉ mình tôi với chiếc xe đạp. Tôi nhìn dòng sông đã đen kịt và quánh đặc như hắc ín. Kiến trúc của thành phố đã mờ nhạt các góc cạnh sắc sảo. Ánh đèn đường hiu hắt, chỗ có, chỗ không, tạo nên một không khí ma quái. Tôi không muốn suy nghĩ gì ở trong hoàn cảnh này, vì càng suy nghĩ càng cảm thấy tủi hổ! Mới có mươi năm, dưới sự cai trị của Cộng Sản cái thành phố xinh đẹp này đã biến thành một bãi rác khổng lồ với những tội lỗi chồng chất! Tôi toan đứng dậy, bỗng có tiếng nói cất lên từ phía sau:
- Thầy làm ơn!...
Tôi quay đầu ngó. Mắt tôi bỗng hoa lên tưởng mình nhầm. Có phải đây là những con người hay những thây ma? Tôi định thần nhìn lại. Đúng, họ là những con người hình như mới chui từ Địa Ngục lên. Người nào cũng đen thui, còm nhom, da bọc xương, quần áo tả tơi như những miếng giẻ bẩn. Họ gồm một gia đình, vợ chồng và ba đứa con nhỏ. Người đàn ông cao lênh khênh, hai con mắt trắng dã, sâu hoắm đăm đắm nhìn tôi. Tóc, râu quá dài phủ lấp gần kín khuôn mặt, giống như chiếc bờm sư tử, bên vai đeo chiếc bị cói, tay cắp manh chiếu. Một bàn tay nhơm nhếch chìa ra trước mặt tôi cầu xin bố thí. Còn người đàn bà nhỏ thó, co rúm trong manh khố tải, nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ, nửa van lơn, nửa trách móc! Qua cái nhìn đó, trong tôi bỗng hằn lên câu hỏi: - Tại sao chị lại nhìn tôi với ánh mắt như vậy? Hay chị có biết tôi từ trước? Chị biết tôi đã buông súng, đã từ chối chiến đấu trong lúc Tổ Quốc lâm nguy vì sợ chết, để cho gia đình chị cũng như bao nhiêu gia đình khác phải gánh chịu hoàn cảnh khốn khổ hiện tại? Tôi là kẻ đốn kiếp, hèn nhát không xứng đáng với bộ quân phục, với cấp bậc mang trên cổ áo, và những tấm huy chương có phải chăng là sự lường gạt?... Nhưng không, không phải thế! Tôi đã suy diễn quá sâu và quá xa. Thực tế, chị ta chỉ nhìn tôi như nhìn tất cả những ai mà chị cầu xin chút tình thương giữa hoàn cảnh bần cùng! Người chồng cất giọng yếu đuối:
- Từ sớm tới giờ, các cháu chưa có một hột cơm vô bụng, xin thầy rủ lòng thương, cho chút ít!
Thấy tôi ngần ngại chưa tồ thái độ, người vợ tiếp:
- Làm phước đi thầy! Chúng tôi bị đuổi đi vùng Kinh Tế Mới, nhà cửa bị tịch thu hết, không còn gì để sống, đành phải ăn xin. Khi trước, gia đình tôi đâu có thế này! Tôi sững mắt hỏi:
- Gia đình bác thuộc thành phần nào mà phải đi vùng Kinh Tế?
Người vợ cúi mặt, hình như để giấu cảm xúc:
- Chúng tôi có đứa con trai lớn là sĩ quan Biệt Kích bị đi học tập Cải Tạo từ tháng 6 -75 đến nay chưa được tha. Vì thuộc diện gia đình có người đi Cải Tạo nên bị đuổi đi vùng Kinh Tế Mới. Sau một thời gian lao động cực kỳ vất vả, sống không nổi, chúng tôi bỏ trốn về thành phố. Từ đó, hành nghề ăn xin, tối ngủ vỉa hè đó, thầy ơi!
Tôi móc túi quần, đưa vào tay người chồng tờ giấy một trăm đồng. Cả hai người đều mở to mắt nhìn tôi như thấy một vật lạ. Có lẽ, số tiền tôi cho đã vượt quá mơ ước của họ. Nhưng họ có biết đâu, chỉ còn ít tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ rời bỏ cái thành phố này. Tôi không cần nhiều tiền, chỉ giữ vừa đủ tiền xe lam từ nhà tới xa cảng miền Tây và mua một khúc bánh mì ăn sáng. Vé xe, tôi đã mua chợ đen từ mấy bữa trước. Sau lời cảm ơn, cái gia đình khốn khổ ấy lại lếch thếch bước đi. Mấy đứa trẻ thấy có tiền, chúng kêu đói. Người bố chửi làu nhàu:
- Đù má tụi bây, chỉ đòi ăn thôi! Ít nhiều gì tụi bây cũng có củ khoai dằn bụng, còn tau và mẹ tụi bây từ sớm đã có chút gì vô bụng đâu? Đói, đói, lúc nào cũng kêu đói!...
Bị chửi, mấy đứa trẻ lặng im, cúi đầu đi như những vết nhọ.
Tôi dắt chiếc xe xuống lề đường, lên yên đạp. Mặt lộ có vẻ như hẹp lại vì thiếu ánh sáng. Chiếc xe đưa tôi qua từng con phố im vắng. Những căn nhà cửa đống im im như muốn giữ kín trong lòng nó sự bí mật riêng tư. Cái không khí sinh động, ồn ào khi trước dường như mất hẳn. Ở đây, chỉ còn lại một số hình ảnh đã phai mờ trong mắt nhìn, hồn nghĩ. Tôi quẹo xe vào đường Tự Do. Vòng bánh quay đều nhịp. Cả một giải đường hun hút, quanh quẽ phơi mình trong đêm vắng. Con đường này khi xưa, vào giờ này, bắt đầu phô diễn những cặp đùi, những bộ ngực, những kiểu áo hở hang nhất của những cô gái bán “bar”, đón chờ các chú GI thèm mùi da thịt. Những ngọn đèn màu lấp lánh như mời gọi thứ vui thân xác! Tất cả, tất cả đã bị nhận chìm tận đấy sâu dĩ vãng! Trên vỉa hè có vài bóng người lầm lũi đi, đầu cúi xuống như không muốn nhìn thấy gì trước mặt. Nơi căn nhà bán thực phẩm khi trước, có bầy chiếc tủ kính nhỏ bán thuốc lá lẻ. Nén nhang châm thuốc cháy như chiếc dấu chấm bằng mực đỏ. Một bóng người ngồi im lìm bất động. Cơn gió thổi mạnh từ phía bờ sông ào tới. Những cánh lá vàng bay lả tả đuổi nhau giạt vào lề đường làm tăng thêm chiều dày của lớp lá đã tích lũy từ bao nhiêu ngày trước, không ai buồn quét. Tôi đạp qua tòa nhà Quốc Hội, bây giờ là Hí Viện. Trong đầu tôi tự nhiên hồi tưởng đến những gì thuộc về chính trị đã xảy ra trong lòng tòa nhà này, những năm trước. Nó cũng là một hí trường, không hơn, không kém! Bức tượng Thủy Quân Lục Chiến tấn công tòa nhà đã bị giật sập từ lâu làm tầm nhìn suốt Đại Lộ Lê Lợi không bị vướng mắc. Nhưng cảnh trí ở đâu cũng vậy, dù xa hay gần, vẫn ngần ấy chán chường, tủi hổ! Có tiếng xe gắn máy nổ ròn rã phía sau. Tôi lái xe nép sát lề. Chiếc Honda vù qua như cơn lốc. Tôi thoáng thấy đứa con gái ngồi sau, vòng tay ôm ngang thân đứa con trai. Bỗng tiếng thắng kêu ren réc. Chiếc xe chao qua chao lại giữa mặt lộ. Tôi tưởng thể nào chiếc xe cũng đổ và tai nạn sẽ xảy ra. Nhưng không, nó cứ lượn vòng như biểu diễn trò chơi nguy hiểm. Tên Công An đứng gác ở đầu phố thổi còi cho lệnh xe dừng. Chiếc xe chạy vòng từ từ đến gần tên Công An như tuân lệnh. Tên này móc tay vào chiếc xà-cột lấy cuốn sổ biên phạt. Bỗng chiếc xe rồ ga chồm lên như con ngựa điên lao sát vào tên Công An rồi vút đi với tiếng cười thách thức. Tên Công An giận quá, rút súng bắn mấy phát lên trời trước cái nhìn thản nhiên của vài người có mặt. Cái hoạt cảnh ấy xẩy ra quá nhanh nhưng nó chứng tỏ sự bất phục tùng của người dân đối với chế độ!
Vương Cung Thánh Đường hiện diện trước mắt tôi như một chứng tích. Tôi ngước nhìn, hai cây Thánh Giá trên chóp tháp in lên nền trời mù thẳm. Giáo Đường im vắng. Làn ánh sáng yếu ớt rọi qua những khuôn kính màu không đủ tạo nên sinh khí. Tôi nhớ đến mỗi sáng Chủ Nhật, nơi đây tấp nập, đông đảo các con chiên ngoan đạo đi xem lễ và cũng để khoe khoang quần áo, đồ nữ trang! Bức tượng Đức Mẹ Maria trắng toát đứng bơ vơ giữa một khung cảnh âm u, tràn đầy bóng tối. Ngay dưới chân tượng, vài bóng người ngồi, đầu gục xuống, có lẽ, họ đang cầu nguyện để xin phước lành! Chúa ở trên cao, cao quá, mà con người ở không gian này lại quá nhỏ bé và quá thấp, biết đến bao giờ lời cầu xin mới hiệu nghiệm?
Tôi quẹo xe vào Đại Lộ Thống Nhất. Mặt lộ rộng thênh thang, hai bên là những bãi cỏ lớn với hàng cây cao trồng thẳng tắp, giờ này đứng im lìm như một lũ hàng binh chịu tội! Màu trắng ngà của Dinh Độc Lập nổi bật giữa những màu sắc thâm u bao quanh nó. Tôi hồi tưởng đến những diễn biến của lịch sử suốt từ thời Pháp thuộc, Nhật thuộc rồi Việt-Minh, rồi lại Pháp đến nền Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa, tới hôm nay là chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa! Cả một quá trình dài lâu của lịch sử đang chắn ngang tầm mắt của tôi kia, lúc này nó cũng tầm thường, nhàm chán như cuộc sống hiện hữu. Lá cờ màu đỏ, trong đêm tối trở thành màu tím xẫm, từ trên cao rũ xuống như miếng giẻ rách! Trong mấy chục năm chinh chiến, hàng triệu thanh niên đã gục xuống, bao nhiêu tang tóc, chia lìa và cũng nhờ cơ may của vận hội, nó mới hiện diện. Cũng kể từ đó, khởi đầu cho những tan nát, rã rời, đau thương, uất giận chứa chất ngùn ngụt trong lòng người dân miền Nam nước Việt! Một sức nặng vô hình của bạo lực đã làm tê liệt mọi cơ năng sống động của một thành phố đa hoạt ngày trước. Khi tôi vừa trờ tới ngã ba, một chiếc xe hơi màu trắng từ cổng lớn chạy ra. Tôi phải thắng lại, chờ. Dưới ánh đèn, tôi thấy một mụ đàn bà tóc cài bím, cười toe toét, coi bộ tự mãn bên cạnh gã tài xế đầu đội cối! Toàn thân tôi như có dòng điện nhấn vào. Trước mặt không còn Đại Lộ, nhà cửa, cây cối gì hết. Một vùng đen ngòm, sâu hoắm như chiếc vực khổng lồ mở ra. Tôi rướn người ấn mạnh bàn đạp. Vòng bánh lao nhanh cùng với hình ảnh chiếc xe hơi và mụ đàn bà. Sự thực, tôi cũng không hiểu vì nguyên cớ nào đã làm tâm trí rối loạn? Cái tòa nhà đó, chiếc xe hơi với mụ đàn bà, nào có dính dấp gì với đời sống đích thực của riêng tôi, nhưng có lẽ, những hình ảnh ấy hốt nhiên tạo cho tôi sự uất hận và bắt tôi phải chấp nhận sự thực, một sự thực ô nhục kéo dài đến bao lâu chẳng biết? Tôi đạp xe băng qua ngã tư Gia Long, Công Lý định tiến thẳng ra Đại Lộ Lê Lợi, nhưng không hiểu sao tôi lại rẽ vô Lê Thánh Tôn, con đường chuyên bán giầy dép. Cả một dẫy phố cửa đóng, then cài trông hoang lạnh dễ sợ! Dưới những chiếc mái hiên lớn, có những thân người nằm co quắp trên những manh chiếu đủ màu, to nhỏ. Có người đắp mảnh khố tải để chống lạnh. Có người nằm tơ hơ với chiếc quần xà lỏn! Những đứa trẻ con nằm ôm nhau như những con chó nhỏ. Ở trên bực thềm, có gã đàn ông ngủ ngồi, mồm há hốc, đầu ngoẹo sang một bên, coi thật thiểu não! Tôi chợt nghĩ, trong số những người nằm đây, biết đâu chằng có cái gia đình, tôi đã cho một trăm đồng hồi chiều?
Vòng bánh lăn đều qua cửa Bắc chợ Bến Thành. Không còn những xạp bán trái cây ngoại quốc, chỉ có vài ô bán kẹo bánh và hoa quả địa phương. Mấy chú xích-lô đợi khách, ngồi trên yên tán chuyện. Tôi đạp chầm chậm. Một tiếng nói cất lên: - Đù mẹ, khi trước gặp chuyện gì oan ức còn có báo chí để kêu, nay dưới thời Cách Mạng, có chuyện gì đéo biết cửa nào mà gõ. Chán thiệt! Tiếng nói như bị chìm vào hư không vì chẳng có lời góp ý! Nhưng, những nét sống ấy, câu nói ấy, rồi đây sẽ theo tôi suốt đời, dù tôi có mặt ở bất cứ góc độ nào trên trái đất!
Thời gian thu ngắn dần từng phút giữa tôi và cái thành phố mến yêu này. Chỉ vài tiếng phù du nữa, khi chiếc xe Lam đưa tôi xuống miệt Phú-Lâm, để từ đó xuôi về miền Tây, điểm hẹn, là xong, là hết! Ý nghĩ đến thăm Mỵ lại bừng sáng trong đầu. Nhà Mỵ ở khu Bàn Cờ, cách đây không bao xa. Đã lâu tôi không lại, nhân dịp này đến để hỏi thăm tin tức về Khang và chào Mỵ lần cuối. Tôi rẽ vào dường Lê Văn Duyệt, đạp một lúc rồi quẹo qua Phan Đình Phùng. Đường vào nhà Mỵ phải xuyên hai con hẻm dài rồi quặt vào lối ngõ nhỏ, trời tối rất khó đi. Tôi phải xuống dắt xe vì lối hẻm đã chật, hai bên lại chất đầy những chiếc sọt đựng rau, cùng những chiếc bàn gỗ nhỏ, ban ngày dùng để buôn bán. Ánh đèn hắt ra từ khuôn cửa sổ mở. Tôi dựng xe vào chiếc hàng ba, đứng ngoài ngó vào thấy mấy đứa con của Mỵ đang ngồi quây tròn trên chiếc đi-văng, trước mặt mỗi đứa có bát cơm vàng khè, ở chính giữa đĩa rau xanh ngát. Tôi biết Mỵ chưa ăn cơm chiều, định quay ra vì đến thăm lúc này e bất tiện cho Mỵ. Có nhịp guốc kéo lê trong bóng tối và tiếng nói:
- Ông tìm ai? Cô Ba hé? Tôi chưa kịp trả lời, từ phía trong nhà, Mỵ hỏi vọng ra: - Ai đó? - Cô Ba ơi! Có người kiếm nè! Cánh cửa sổ mở hé, Mỵ ngó ra thấy tôi, nở nụ cười gượng gạo: - Ủa anh, mời vô! Sao lâu không thấy lại? Tưởng anh “chui” rồi chứ? Tôi nói ấp úng: - Chui vô nhà thì có! Tôi đang bị quản chế mà! Mỗi khi đi đâu, đến nhà ai, có việc gì đều phải viết kiểm điểm báo cáo hàng tuần cho Công An Phường, do đó, sợ phiền lụy lây đến bạn bè nên ít dám đi thăm. Sao, vẫn nhận được tin của Khang chứ? Đã chuyển Trại chưa, hay vẫn còn ở Trại Nam-Hà? - Em mới nhận được thư tuần trước; ảnh vẫn ở Trại cũ, chưa chuyển vào Nam. Em đang sửa soạn gửi quà cho ảnh đây! Mỵ thở dài buồn bã rồi tiếp: - Biết đến ngày nào ảnh mới thoát? Như anh vậy là xong! Hết thời gian quản chế, được phục hồi quyền công dân, ráng kiếm một công việc làm ăn, nuôi vợ con cho yên thân, đừng có tham gia hoạt động chống đối, kẻo nhỡ bị bắt thì lại đi Cải Tạo đó! Hồi chiều, ở hẻm ngoài, tụi Công An đến vây bắt mấy cậu thanh niên Phục Quốc làm náo loạn cả xóm! Nè anh, em nghe nói họ tha nhiều, sao chưa thấy Khang, chả biết khi ở Quân Đội, ảnh làm cái chức vụ gì mà bị Cải Tạo lâu thế?
Mỵ nhìn tôi với đôi mắt thâm quầng có lẽ, do nhiều đêm mất ngủ và lo nghĩ. Tôi biết trả lời sao để Mỵ có thể hiểu, sự được tha hay còn bị cầm giữ dưới chế độ Cộng Sản chỉ có trời mới biết! Nó tùy thuộc rất nhiều về bản Tự Khai Lý Lịch, về quá trình bản thân cũng như gia tộc và rất nhiều lý do khác nữa, theo sự đánh giá của Cộng Sản. Tôi đành nói loanh quanh nhằm mục đích an ủi để Mỵ yên lòng:
- Tôi tin trong năm nay Khang sẽ được về vì khi trước, Khang có giữ một nhiệm vụ gì quan trọng đâu? Sự về chậm có lẽ, vì tính tình Khang cứng dắn, không chịu khuất phục trước sự đối xử tàn bạo của kẻ thù, tôi nghĩ vậy! A, bà giỏi ghê vậy đó, mười năm nay, một mình xoay xỏa lo cho đàn con, lại tiếp tế cho Khang chu đáo, thế là nhất rồi đấy. Mỵ xoay người nhìn quanh nhà:
- Anh không thấy sao, nhà cửa trống trơn, có cái gì bán hết rồi, nếu tình trạng này kéo dài ít lâu nữa, chắc mẹ con phải đi ăn mày quá!
Nói xong, Mỵ cúi xuống, đưa hai bàn tay khô đét, nổi chằng chịt gân xanh, lên ôm mặt. Trước tình cảnh này, tôi thấy không nên ngồi lâu và lời giã từ chỉ làm My tủi thân thêm, tôi nói vài lời không đâu, trước khi ra về. Mấy đứa trẻ chờ mẹ ăn cơm, chắc đói bụng, chúng cứ mân mê bát cơm, liếc nhìn về phía Mỵ. Tới cửa, không hiểu sao, tôi cho tay móc túi quần, lấy những tờ bạc cuối cùng dúi vào tay đứa bé nhất:
- Cháu cầm lấy, sáng mai chia nhau ăn quà nhé! Mỵ đứng sững nhìn tôi rồi ngó đứa bé đang cầm chặt mấy tờ giấy bạc trong tay:
- Ồ anh mới đi Cải Tạo về làm gì có tiền, lại còn cho cháu! Cảm ơn Bác đi con!
Tôi dắt xe ra khỏi ngó hẻm. Câu nói giã từ hình như còn mắc ngang cuống họng. Khi tới mặt lộ, tôi lên yên đạp mải miết. Tôi nhìn đồng hồ, mười một giờ đêm. Trong túi tôi không còn đồng bạc cắc. Tôi nhắm hướng Phú-Lâm đạp. Vòng bánh quay đều đều. Tôi biết cứ đạp với tốc độ này, tôi sẽ có mặt ở xa cảng miền Tây, trước giờ xe khởi hành nhiều. Chiếc xe, tôi dự định sẽ vứt vào một bụi rậm nào đó, may ai người ấy được!