← Quay lại trang sách

Phần Thứ Ba - Thắng Cảnh Cổ Tích

Để giúp cho khách du lịch đến Khánh Hòa biết qua những nơi nào đến viếng, người địa phương có bài hát rằng:

Nhắn ai viếng cảnh Nha Trang,

Muốn tìm dấu cũ thì sang Tháp Bà.

Muốn trông trời biển bao la,

Con thuyền nho nhỏ bơi ra Hòn Chồng.

Muốn xem cá lạ biển đông,

Xuống tòa Hải Học trong vùng Trường Tây.

Muốn vui cùng nước cùng mây,

Mây trùm Suối Ngổ, nước đầy Suối Tiên.

Ba Hồ lắm thú thiên nhiên,

Qua Sơn là chốn thần tiên đi về.

Lòng mong nương bóng Bồ đề,

Lên chùa Hải Đức gần kề Nha Trang.

Những nơi kể trong bài hát là những nơi chân người nhàn du thường lui tới. Sự thật, thắng cảnh của Khánh Hòa không phải chỉ có thế mà thôi. Những cảnh núi non sông suối, đâu đâu cũng đều cso những đặc điểm, những kỳ thú đối với những người có đôi mắt mỹ thuật, có tấm lòng rảnh lợi danh.

Nhưng dù lòng rảnh lợi danh đi nữa, cũng ít người có đủ thì giờ để đi xem khắp non nước Khánh Hòa. Cho nên phần đông đành theo lời hướng dẫn trên mà đi viếng cảnh, kẻ theo thứ tự trong bài hát mà đi, người tùy theo chỗ thuận tiện, tùy theo phương tiện. Song trước khi đi xa, không mấy ai không tìm hưởng những cái đẹp cái thú ở ngay trước mặt: Nha Trang.

I. NHA TRANG

Tại sao lại gọi là Nha Trang? Có người bảo rằng: Xưa kia nơi đây chỉ toàn nhà tranh vách đất. Riêng tòa nhà của Bác Sỹ Yersin bằng gạch ngói đồ sộ và quét vôi trắng. Người ngoại quốc đi ngang qua biển Cù Huân, trong thấy đất liền, hỏi là xứ gì. Người thông ngôn thoáng thấy nhà Bác Sỹ Yersin trăng trắng bèn đáp « Nhà Trắng ». Người ngoại quốc mới ghi vào địa đồ, nhưng vì chữ Âu Châu không có dấu, nên ghi là « Nha Trang ». Đó là câu chuyện hài hước bày đặt ra để nhạo những ông thông dịch viên ít học. Chớ tên Nha Trang đã có từ khi nước Việt Nam chưa sản xuất những ông thông dịch viên mà xưa kia gọi là Thông Ngôn, và trước khi người Âu Châu sang Á Đông tìm thuộc địa.

Nha Trang do chữ Chàm Ea Tran hay Yjatran mà ra 1. Trong các sách viết trước thời Pháp thuộc, đã dùng đến. Như trong tập « Phương Đình Dư địa Chí » của Nguyễn Siêu đời Tự Đức, nói về tỉnh Khánh Hòa, ghi rõ rằng: « Năm Quý Sửu đại quân lấy lại Bình Khang doanh, tiến đánh thành Qui Nhơn, lúc ban sư đắp thành đất ở thủ sở Nha Trang gọi là thành Diên Khánh, núi sông thực là thiên hiểm, tục gọi là Nha Trang thành ». 2

Như thế, Nha Trang dùng gọi thành Diên Khánh từ thời Gia Long và mới dùng gọi tỉnh lỵ từ ngày Pháp đặt nền đô hộ ở Trung Việt. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí của Cao xuân Dục soạn triều Duy Tân cũng có nói đến Nha Trang. Song không phải tên thành phố mà tên một nguồn của con sông Cù Giang: Nguồn Nha Trang 3. Như thế nhất định Nha Trang không phải do Nhà Trắng mà ra vậy.

Nha Trang không phải là một thành phố thương mãi, mà là một thành phố du lịch, một thành phố thừa lương. Cho nên muốn thưởng thức cảnh thú của Nha Trang phải tìm nơi thiên nhiên chớ đừng tìm nơi nhân xảo. Thành phố Nha Trang thời Pháp thuộc chỉ bằng một phần ba thành phố hiện thời. Phố xá và gia cư của người Việt người Tàu chen chúc từ ga xe lửa đến Chợ Đầm (tức chợ cũ Nha Trang). Còn người Pháp ở dọc theo bờ biển, từ tòa Sứ (tức tòa Hành Chánh hiện nay) cho đến Đại Khách Sạn (Grand Hôtel).

Vùng Mả Vòng chưa có nhà cửa. Truyền rằng xưa kia là vùng cổ mộ nằm trong một vòng thành xây bằng đá núi, hình nguyệt mãn, cao đến rún. Trông đã xưa lắm nhưng vẫn còn nguyên vẹn dưới nhiều lớp rêu xanh. Đi lại đi qua, người ta tránh ra một phía. Đến khi người Pháp mở đường Quốc Lộ số 1, mới dời mộ đi nơi khác và phá hủy vòng thành. Nơi nầy rất nhiều ma. Sau khi mả đã dời rồi mà người ở quanh vùng vẫn thường thấy bóng ma thấp thoáng, và những đêm trăng mờ gió lạnh lại còn nghe tiếng than khóc não nùng. Cho nên khi mặt trời đã chìm tây thì ít người dám lai vãng.

Vùng Phước Hải cũng là vùng hoang vắng.Nhà cửa thưa thớt. Một phần lớn diện tích là rừng hoàng mai. Mùa xuân hoa nở ánh cả vùng. Nhưng không có người đến chặt về cắm bình hoặc thưởng cảnh. Vì cọp ở Đồng Bò thường ra để kiếm mồi. Vịnh Nha Trang, nhà Nho Thuần Phu Trần khắc Thành có câu: 4

Mả Vòng đêm vắng ma trêu nguyệt,

Phước Hải rừng xuân cọp thưởng mai.

Tuy là ngụ ý châm biếm nhân vật đương thời, câu thơ vẫn cho chúng ta thấy rõ quang cảnh Nha Trang thời người chưa đông đất còn trống. Trong bài Tặng Biệt của một nhà chí sỹ làm vào khoảng Thành Thái Duy Tân (1889-1916) có câu:

Đại Lãnh văn viên cô nguyệt hạ,

大嶺閒猿孤月下

Nha Trang đả hổ loạn vân gian.

芽莊打虎亂雲間

Nghĩa là:

Đại Lãnh nghe vượn, lạnh lẽo bóng trăng soi,

Nha Trang bắn hùm, rộn ràng tầng mây thẳm.

Câu nầy chứng minh rằng chuyện cọp ra Rừng Mai Phước Hải là chuyện thật vậy.

Bên cạnh rừng mai, còn có rừng dương liễu. Rừng có hai cánh, một trải trên vùng hỏa xa hiện thời, một giăng từ sàn tàu bay hiện thời cho đến Chụt. Cũng như Rừng Mai Phước Hải, rừng dương liễu là một giai cảnh của Nha Trang. Rừng mai phơi vàng, rừng dương buông lục. Nhưng rừng mai chỉ đẹp về mùa xuân. Còn rừng dương bốn mùa đều đẹp. Một bên do trời sanh và không có người chăm sóc. Một bên do người trồng và được sở kiểm lâm trong coi. Cho nên khi rừng mai đã bị phá để lấy củi hoặc lấy đất, thì rừng dương liễu vẫn còn tươi tốt cho đến ngày nổi chiến tranh. Nhưng, hiện nay cả hai chỉ lưu lại hình bóng mơ màng trong những vần thơ thời Tiền Chiến:

Biển Én sóng vờn trăng thúy liễu, 5

Đồng Bò hương thoảng gió hoàng mai.

Nước non vẫn thắm mày dương liễn,

Mưa nắng riêng gầy vóc lão mai. 6

Và trải bao nhiêu gió sương, tình vẫn còn đượm đà trong bài:

« NHA THÀNH MAI LIỄU »

Mấy xuân mai liễu sum vầy,

Liễu mai còn đó xuân nầy vắng ai!

Đeo sầu gầy gọ vóc mai,

Nhớ thương tóc liễu biếng cài mái xanh.

Gió hương thổi khắp Nha Thành,

Chiêm bao lẩn quẩn bên mành trăng soi!

Lượng xuân chẳng lẽ hẹp hòi,

Để cho mai liễu thiệt thòi tuổi xuân!

(Trường Xuyên)

Rừng mai có trước rừng dương liễu đã lâu đời. Nhưng đến khi có người biết đến chân giá trị thì rừng mai chỉ còn lưa thưa vài ba gốc, lại ở trong nơi xa xôi hẻo lánh không tiện đường tới lui. Bởi vậy nên tiếng không được nổi bằng rừng dương liễu nằm ngay bên đường quan lộ, ngày ngày không ngớt kẻ lại qua.

Cùng Rừng Dương Liễu làm Nha Trang nổi danh là « Vùng cát trắng dương xanh » trong toàn quốc:

Về vùng cát trắng dương xanh,

Cho đây gởi gắm tâm tỉnh chút nao?

Từ phen biển dậy ba đào,

Non xa ngắm bóng trăng sao ngại ngùng.

(Nhắn bạn Nha thành T.X.)

Đó là bãi biển Nha Trang vậy. Bãi biển Nha Trang, theo lời du khách đã ra Bắc vào Nam, thì là một bãi biển đẹp nhất trong toàn quốc. Bãi biển vừa rộng vừa dài. Hình giống một lưỡi liềm bằng bạc, cán trở ra xóm Cồn, mũi day xuống Chụt, và lưỡi được sóng biển mài dũa sáng trưng. Cát vừa trắng vừa mịn như đường cát trắng Đồng Xuân ở Phú Yên. Rờ vào nghe mát rợi. Cho nên có bài hát rằng:

Bãi biển Nha Trang: mịn màng trắng trẻo,

Đường trong leo lẻo, Gió mát thanh thanh.

Đêm đêm thờ thẫn một mình,

Đố sao cho khỏi vướng tình nước mây.

Tự bản thân, bãi biển trong đã đa tình đã quyến rũ, huống hồ còn được nhiều cảnh vật bên ngoài điểm xuyết thêm: Những khóm dừa xanh đứng ngay hàng, làm tàn che nắng ban trưa, che sương ban tối… Những bồn hoa tư mùa xanh tốt, những biệt thự có vườn tược bao quanh, những rừng dương liễu linh động nhưng yên lành, chạy dọc theo con đường Duy Tân ven biển ; những cảnh nhân tạo trong thiên nhiên ở phía Đông Nam: ngọn Cảnh Long với những lâu đài ẩn hiện trong cây đá ; những ngọn núi ở tận ngoài xa xôi nhưng trông như gần gũi, trùm bóng lên dãy núi Cù Lao thâm thấp ở phía Đông Bắc và lác đác nơi sườn màu ngói đỏ mà vách trắng của dãy Nhà Dòng Phan Xi Cô (Fancico), nhà dòng La San. Và ngay trước mặt ở phía Đông, những hòn lao xanh, hòn to hòn nhỏ, hình thù khác nhau sắc thái khác nhau, nổi trên mặt sóng xanh, dựa vào lưng trời xanh, man mác bát ngát… Khung cảnh ấy làm nổi bật bãi cát trắng trẻo, mịn màng… làm cho bãi cát đã có duyên càng thêm duyên, đã có sắc càng thêm sắc, giá trị gia tăng bội phần. Một nhà thơ ví bãi biển Nha Trang với một giai nhân dòng cự tộc. Giá trị chẳng những ở tư đức tư dung, mà còn ở nơi gia đình, nơi họ hàng bên nội bên ngoại.

Và vẻ đẹp của bãi biển Nha Trang, giá trị của bãi biển Nha Trang mỗi lúc mỗi khác:

- Buổi sáng, bao nhiêu ánh ngọc ngà châu báu nơi thủy cung đều hiện lên mặt sóng, trông lộng lẫy huy hoàng. Và những cảnh vật chung quanh, nhờ ảnh hưởng, cũng trở nên huy hoàng lộng lẫy.

- Buổi trưa, biển trở thành một tấm sa tanh xanh thêu kim tuyến căn phơi. Nhà cửa cây cối núi non là những người đứng canh giữ.

- Buổi chiều, tất cả biển trời cây đá đều trở thành gấm vóc mà bên ngoài trùm một tấm màn bạch sa mỏng và sưa.

Còn bãi biển là một tố nữ trần thân nằm im lìm ngắm cảnh giàu sang của trời tặng. Ban đêm, cát hòa với nước, không còn phân biệt ngã với nhân. Và ánh đèn câu ngoài khơi lại làm giàu thêm cho cảnh. Nếu trời có trăng thì trước mặt là một tấm nhung trắng kết hoàng bảo trải dưới vòm nhà bằng bạch cẩm nạm kim cương. Nếu trời không trăng, thì lại là một tấm nhung đen rải hồng bảo xích bảo hoàng bảo, một nửa trải dưới nền một nửa phất trên trần, trong một đền thờ của người Ấn. Ngắm cảnh giàu sang lúc ban đêm không phải là bãi biển như lúc ban ngày, mà chính là du khách, du khách ưa thích cảnh giàu sang mà không bao giờ muốn chiếm hữu.

Ngoài cảnh đẹp thiên hình vạn trạng của thiên nhiên, bãi biễn Nha Trang còn có gió mát. Bãi biển nào lại không có gió mát? Đúng vậy. Nhưng gió Nha Trang có một khí mát đặc biệt, một khí mát dịu dịu, êm êm… một khí mát « trung hòa » của ngà voi, của đá cẩm thạch, khác với khí mát của Vũng Tàu, của Qui Nhơn, của Sầm Sơn, của Hạ Long… nơi nào cũng có phần « quá khích » hoặc nhiều hoặc ít, chú không mấy nơi « theo đúng thuyết Trung Hòa của Đông Phương ». Thú vị nhất là gió buổi trưa mùa hạ. Nằm dưới bóng soan nở đỏ, hoặc dưới bóng dừa buông xanh, nhìn ra biển khơi, du khách có cảm giác đương nằm dưới gốc cây đa, cây sanh ở thôn quê, nhìn ra đồng lúa mới chín tới, bên trên vàng ánh, bên dưới xanh um, và ngọn nồm thổi qua, sóng chao vàng xanh lẫn lộn. Trong khí mát lại dường như có chất bổ. Người đương mệt mỏi, ra ngồi nơi bãi trong giây lát thì tâm thần liền thấy dễ chịu ngay. Cho nên người ở bốn phương thường lấy Nha Trang làm nơi dưỡng bệnh.

Nhưng quang cảnh ấy, phong thú ấy, là quang cảnh phong thú ngày xưa, ngày mà « vùng trời đất chưa nổi cơn gió bụi ». Chớ hiện nay, những bồn hoa không còn tốt tươi, những rừng dương đã bị đốn trụi. Và trên bãi biển, mấy chục quán « bar » đã chiếm hết những « yếu điểm », đã làm thương tổn vẻ đẹp thiên nhiên bằng những kiến trúc phản nghệ thuật, đã làm ô uế cát trắng nước trong bằng những đồ thừa thãi, đồ cặn bã của thú ăn chơi.

Dù yêu phong cảnh đến đâu cũng không ai dám ra nằm lăng trên bãi cát để « ôm gió nước vào lòng », hoặc để tưởng mình đương nằm dính lưng vào lưng trời, nhìn xuống biển khơi xem đèn câu lấp lánh. Một đôi khi quên cảnh trước mặt, dấn bước đi lang thang, thì hoặc ít hoặc nhiều, thế nào chân cũng dậm phải ruột gan của đám người lấy huỳnh kim làm lý tưởng. Bãi biển Nha Trang hiện thời thật chẳng khác một cô xuân nữ bị cưỡng bách vào thanh lâu, mà những quán « ẩm thực » kia là những mụt phong tình mọc trên tấm thân ngà ngọc. Mong một ngày nào đó Long Vương sai sóng thần lên quét sạch những xú uế, để cho bãi Nha Trang lấy lại quang cảnh và phong thú của nghìn xưa. Ngày đó chắc không lâu. Vì điềm thái hòa đã ứng lên những mụt tường vân ngoài biển.

Cuộc Đất của Nha Trang, theo các nhà Phong Thủy Tức Thầy Địa, là một đại cuộc: Tứ thủy triều qui, tứ thú tụ.

Tứ thủy triều qui là bốn mặt có nước bao bọc: Hai phái Nam và Bắc của con sông Nha Trang, phái chảy vào Cửa Bé, phái chảy xuống Cửa Lớn, ôm choàng lấy cuộc đất, mà phía Đông là biển khơi.

Tứ thú tụ là mượn bốn hòn núi tượng hình bốn con thú tụ họp lại để giữ gìn anh khí:

- Núi Cảnh Long ở Chụt là con Rồng. Vì núi chạy dài từ Cửa Bé ra Cầu Đá dọc theo mé biển và đến Cầu Đá núi lại chạy thẳng ra biển, nên gọi là « Thanh long hý thủy » nghĩa là rồng xanh giỡn nước. 7

- Hòn Sanh Trung ở Hà Ra là Con Voi. Vì núi đứng cạnh đầm Xương Huân, nên gọi là « Bạch Tượng quyện hồ » nghĩa là Voi trắng cuốn hồ. 8

- Hòn Trại Thủy là Con Giơi. Vì trước núi, tại « đầu giơi » có một bàu nước hình tròn như nguyệt 9 nên gọi là « Ngọc Bức hàm hoàn », nghĩa là Giơi Ngọc ngậm vòng.

- Hòn Hoa Sơn, tục gọi là Núi Một, ở Nha Trang Tây, đường Phước Hải, là con Rùa. Vì trên núi có ngọn cổ tháp, nên gọi là « Kim Qui đới tháp », nghĩa là Rùa Vàng đội tháp. Cuộc đất phát đại phú đại quí.

Nhưng rồi phái Nam sông Nha Trang bị lấp, cổ con thanh long và kim qui bị cắt, long mạch bị tổn thương. Long mạch mới bị tổn thương chớ chưa đứt hẳn, nên nhân dân sở tại dù không phát đại phú đại quí, nhưng vẫn sung túc phong lưu, và trải bao phen khói lửa dậy nơi nơi, Nha Trang vẫn được yên ổn hơn đâu hết. Bốn « Con thú » của cuộc đất cũng là bốn thắng cảnh của Nha Trang. Ba cảnh Thanh Long, Bạch Tượng, Ngọc Bức chúng ta đã thưởng thức khi đi dạo núi sông.

Ở đây xin nói riêng về cảnh Kim Qui. Kim Qui hiện nay đã biến dạng hẳn. Con đường Phước Hải đã chia khúc đầu và khúc mình con rùa ra làm hai. Khúc đầu bị đào phá không còn ra dáng ra hình gì cả. Còn khúc mình thì đã đẽo thành một con dấu hình thuẫn úp sấp. Trên đầu rùa còn một cổ tháp. Trên mình rùa đứng sừng sững ngôi nhà thờ Nha Trang.

Đời Lê cảnh Hưng (1740-1786) núi Hoa Sơn còn hình Kim Qui, một thiền sư pháp danh Phật Ấn đến cất một am tranh tu khổ hạnh. Năm Bính Ngọ (1786) thiết hoá đàn trà tỳ 10. Đệ tử thâu xá lợi lập Liên hoa tháp. 11

Ngọc cổ tháp trên « đầu rùa » là tháp của thiền sư. Khi người Pháp chiếm cứ Nha Trang, trên núi Hoa Sơn chỉ còn trơ trọi ngọn cổ tháp. Và nơi « cổ rùa » chỉ có một con đường nhỏ để vô ra. Mãi sau người cầm quyền mới đào sâu phá bằng để làm con đường Phước Hải.

Nhà Thờ Nha Trang cất sau khi đã trổ con đường Phước Hải, vào khoảng 1930-1935. Người kiến lập là một nhà truyền giáo Pháp, Linh Mục Vallet. Hiện nay là nhà Thờ Chánh Tòa của địa phận Nha Trang. Kiến trúc ngôi nhà Thờ Nha Trang không giống phần đông nhà Thờ khác trong toàn quốc. Kiểu thức vừa cổ kính vừa tân kỳ. Tất cả vách, mái, nền, cột đều toàn xi măng. Và đứng chắc trên một đầu non, với « bộ áo xám tro », hình tướng trông nửa như khiêm nhường nửa như ngạo nghễ. Lại gần nhìn kỹ lại có vẻ nghiêm khắc cô cao. Nhờ những khóm trúc đào hoa nở quanh năm ở trước sân, nhất là khóm đa xanh mát đứng che Tiểu vương Cung của đức Bà Maria ở đầu bậc cấp bước lên, làm cho « nét mặt » nhà Thờ bớt phần khô khan lạnh lạt. Lầu chuông cao ngất! Lên đứng nơi gác chuông nhìn ra bốn mặt, thì vọng cảnh trùm cả toàn diện thành phố Nha Trang. Trông tới ngó lui, nước non, nhà cửa, nơi gần nơi xa, nơi ẩn nơi hiện, khoái con mắt, hả tấm lòng, nhiều khi tưởng mình đương đứng nơi trung tâm điểm của vũ trụ. Cho nên nhà Thờ Chánh Toà Nha Trang cũng là một danh thắng của địa phương vậy.

II. THÁP BÀ, HÒN ĐÁ CHỮ

Xem xong các danh thắng trong thành phố, thì lần lượt đi thăm các nơi ngoài thành phố. Tiện đâu xem đó, không phân ranh giới thắng cảnh và cổ tích.

Trước hết nên đi xem Tháp Bà, một nơi xưa cũng thật là xưa, mà đẹp cũng thật là đẹp, một nơi tiêu biểu nhất cho thắng cảnh cổ tích của miền Cát Trắng Dương Xanh.

A) THÁP BÀ

Tức là tháp thờ Bà Thiên Y A Na, tiếng Pháp gọi là Poh Nagar. Tháp xây trên một ngọn đồi trong vùng núi Cù Lao.

Núi cao chừng vài ba chục thước, hình như một chiếc nón lá úp sấp, cây cối tươi xanh. Phía Nam giáp sông Nha Trang, phía Tây và phía Bắc giáp núi và đồng bằng, trước mặt thì làng Cù Lao (Xóm Bóng) và biển Nha Trang.

Tháp gồm có bốn ngọn. Ba ngọn nhỏ một ngọn lớn. Ngọn lớn ở phía Bắc, cao đến 23 thước. Theo nhà khảo cổ Henri Parmentier thì tháp nầy do vua Chiêm Thành là Harivarmah 1er xây vào đầu thế kỷ thứ IX. Còn các ngọn khác thì vào khoảng thế kỷ thứ VII, thứ VIII.

Trong ngọn tháp lớn nhất thờ nữ thần xứ Kaut Hara (Cù Huân) là Poh Nagar (hay Pò Ino Nogar) mà người Việt gọi là Thiên Y A Na.

Tượng nữ thần bằng đá xanh, cao lớn, ngồi xếp bằng trên một bệ cao rộng, cũng bằng đá xanh nguyên khối. Thần có 10 cánh tay. Hai tay đặt trên đầu gối, lòng bàn tay để ngửa. Còn tám tay khác thì giơ lên hình rẻ quạt và mỗi tay cầm một món binh khí, như đoản đao, dáo, ná, tên, v.v… Y phục khắc theo kiểu chúng ta thường thấy ở các tượng đá của Chiêm Thành. Nghĩa là rất đơn giản: đầu đội mão triều thiên, nhọn như mũ vũ nữ Thái Lan thân chỉ che đôi mảnh xiêm y ở hạ thân và ở ngực. Nét chạm trổ cực kỳ tinh vi vừa sắc sảo vừa dịu dàng, trông như người sống. Nhưng rất tiếc là người Việt Nam lấy sơn sơn mặt tượng, rồi vẽ mày vẽ mặt một cách vụng về, lại choàng vào thân náo cẩm bào đội lên đầu một chiếc ngọc miện, hoa hoè loè loẹt, trông như một tượng gỗ, một tượng đất do thợ tay ngang tạc nên. Về mặt mỹ thuật thì bị giảm sút. Nhưng về tinh thần dân tộc thì gia tăng, vì tượng thần đã hoàn toàn Việt Nam hoá, trông vào không còn chút dấu tích gì về Chiêm Thành.

Thiên Y A Na có một sự tích ly kỳ. Truyền rằng:

Xưa kia tại núi Đại An (tức Đại Điền hiện tại) có hai vợ chồng ông tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín thường hay bị mất. Một hôm ông rình, bắt gặp một thiếu nữ trạc chừng chín mười tuổi hái dưa, dồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương, ông đem về nuôi. Hai ông bà vốn không có con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.

Một hôm trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã, thiếu nữ lấy đá chất thành ba hòn giả sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi đứng ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đương nhớ cảnh Bồng Lai. Đã buồn thêm bực! Nhân thấy khúc kỳ nam theo nước nguồn trôi đến, tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ, rủ đến xem. Thấy gỗ tốt xúm nhau khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.

Thái Tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực. Thấy khúc gỗ không lớn lắm, lẽ gì nặng đến nỗi không giở lên. Thái Tử bèn lấy tay nhắt thử. Chàng hết sức lạ lùng vì nhận thấy khúc gỗ nhẹ như tờ giấy! Bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật.

Một đêm, dưới bóng trăng mờ, Thái Tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tư bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất một mùi hương thanh thanh từ khúc kỳ bay ra. Chàng quyết rình xem suốt mấy đêm liền không hề thấy gì khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm, đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt, từ trong khúc kỳ nam bước ra. Thái Tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái Tử về cùng và cho biết rõ lai lịch. Giai nhân xưng là Thiên Y A Na.

Thái Tử vốn đã trưởng thành, nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường, bèn tâu cùng phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua sai bói cát hung. Trúng quẻ « đại cát », liền cử lễ thành hôn. Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai một gái, trai tên Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngôi. Thời gian qua trong êm ấm. Nhưng một hôm, lòng quê thúc giục, Thiên Y bồng hai con nhập vào khúc kỳ nam, trở về làng cũ…

Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông tiều đã về cõi âm. Thiên Y bèn xây đắp mồ mả cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn dã man, bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hoá: dạy cày cấy, dạy kéo vãi dệt sợi… và đặt ra lễ nghi… Từ ấy ruộng nương mở rộng, đời sống của nhân dân mỗi ngày mỗi thêm phú túc phong lưu. Công khai hoá của bà chẳng những ở trong địa phương, mà các vùng lân cận cũng được nhờ. Rồi một năm vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, một con chim hạc từ trên mây bay xuống, bà cùng hai con lên lưng hạc bay về tiên. Nhân dân địa phương nhớ ơn đức, xây tháp tạc tượng phụng thờ. Và mỗi năm vào ngày bà thăng thiên, tổ chức lễ múa bóng dâng hoa rất long trọng.

Ở Bắc Hải, Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về, bèn sai một đạo binh dong thuyền sang Đại An tìm kiếm. Khi thuyền đến nơi thì bà đã về Bồng Đảo. Người Bắc Hải ỷ đông, hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói dối, bèn hành hung. Lại không giữ lễ, xúc phạm thần tượng. Nhân dân bèn thắp hương khấn vái. Liền đó gió nổi đá bay, đánh đắm đoàn thuyền của Thái Tử Bắc Hải.

Sự tích nầy, cụ Phan thanh Giản chép lại thành một bài ký và bố chánh sứ tỉnh Khánh Hoà là Nguyễn Quýnh khắc bia dựng phía sau tháp. Nhưng đó là sự tích của người Việt Nam truyền tụng.

Sự tích của người Chiêm Thành khác hẳn:

Poh Nagar là một nữ thần do ánh mây và bọt nước biển biến sanh. Bà sinh ra với một tấm thân cân đối, một khuôn mặt xinh đẹp tuyệt vời và chói rọi hào quang. Bà sinh ra tận ngoài biển khơi. Nước biển dâng cao đưa Bà vào bến Yjatran. Sấm trời và gió hương nổi dậy báo cho muôn loài biết tin Bà giáng thế. Liền đó những khe suối trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống mừng Bà, và núi hạ mình thấp xuống để đón rước Bà. Bà bước lên bờ. Cây cong cành xuống sát đất để tỏ lòng thần phục. Chim muông kéo nhau đến chầu hai bên đàng cái. Và hoa cỏ vươn lên để điểm hương vào bước chân Bà đi.

Đến Yjatran, Bà dùng phép hoá ra cung điện nguy nga, hoá ra trầm hương kỳ nam, các giống gỗ quí và lúa bắp. Để cúng Trời, Bà tung lên mây một hột lúa. Lúa mọc hai cánh trắng như hai mảnh bạch vân, bay ở giữa không trung. Bà lại đốt một phiến trầm hương, khói thơm toả lên cao vút, dỡ hột lúa có cánh về dâng cúng Trời.

Nơi hậu cung Bà có 97 ông chồng. Nhưng chỉ có ông Pô Yan Amo là có uy quyền và được trọng vọng hơn cả. Ba sanh được 38 nữ thần, người nào cũng xinh đẹp. Song chỉ có 3 người được bà ban cho nhiều quyền phép là là Pô Nogar Dara, Rarai Anaih, nữ thần vùng Phan Rang, và Pô Bia Tikuk, nữ thần vùng Phan Thiết.

Sự tích Poh Nagar và sự tích Thiên Y A Na thật khác hẳn nhau. Sự tích của người Chiêm Thành phản ảnh chế độ mẫu hệ của người Chàm ngày trước. Sự tích của người Việt Nam biểu lộ tinh thần dân tộc rất sâu đậm và cho chúng ta thấy người xưa xem nghĩa đồng bào nặng hơn tình gia đình nhiều lắm:

- Bà Poh Nagar hay Thiên Y A Na thờ ở ngọn tháp chính, ở phía Bắc.

- Ngọn thứ hai, ở chính giữa, thờ thần Cri Cambhu. Tháp xây từ thế kỷ thứ VII và trong tháp có tượng bằng vàng khối. Vào cuối thế kỷ thứ VIII, người Mã Lai xâm nhập xứ Kaut Hara, cướp mất tượng vàng và phá huỷ ngọn tháp. Vua Satyavarman xây tháp lại và tạc tượng đá thay tượng vàng. Tượng nhỏ, hiện còn tốt. Người Việt Nam bảo đó là đền thờ Thái Tử Bắc Hải, chồng bà Thiên Y A Na.

- Ngọn thứ ba, ở phía Nam, đứng ngay hàng cùng hai ngọn trước, thờ tượng Linga, biểu hiệu của thần Sandhaka. Người Việt Nam bảo đó là đền thờ ông Tiều, nghĩa phụ bà Thiên Y.

- Ngọn thứ tư, đứng phía sau tháp thờ bà Thiên Y. Trong tháp không có tượng mà chỉ có đế thờ (có lẽ tượng bị thất lạc lúc người Ma Lai vào cướp phá). Tháp nầy thờ thần Ganeca. Người Việt Nam bảo đó là đền thờ Công Chúa Quý.

- Còn hai tháp nữa cũng ở sau lưng dãy tháp trước, không biết rõ thờ vị thần nào của Chiêm Thành, Người Việt Nam bảo đó là đền thờ bà Tiều, nghĩa mẫu của Bà Thiên Y, và hoàng tử Tri. Tháp đã bị hư nát, chỉ còn nền và một số gạch vụn. Bà Tiều đưa về thờ chung cùng ông Tiều ở tháp thứ ba. Hoàng tử đưa về thờ chung cùng Công chúa ở tháp thứ tư.

Phía trước tháp, dưới chân đồi lại có mấy hàng cột cao lớn bằng gạch. Truyền rằng đó là những cột chống vũ đài. Mỗi khi có lễ, người ta dùng ván gác lên trên cột thành một sân gỗ rộng. Vũ nữ và ca công lên ca múa trên sân gỗ. Thần trong tháp ngồi trông ra, nhân dân đứng dưới trông lên, đôi bên trông đều rõ. Nhưng đó là về thời người Chiêm Thành còn làm chủ đất đai. Từ ngày người Việt Nam thay người Chiêm Thành, thì những cuộc ca vũ tổ chức ngay ở trên sân tháp.

Bốn ngọn tháp Cù Lao, theo tên các vị thần, là đền thờ của người Chiêm theo đạo Bà La Môn. Bà Poh Nagar là một biến thân của thần Civa, một trong ba chúa tể vũ trụ của đạo Bà La Môn. Nhưng từ khi Tháp thuộc quyền sở hữu người Việt Nam các thần Bà La Môn nhường ngôi cho các vị thần Việt tịch và bà Chúa Xứ Poh Nagar hiển linh dưới danh hiệu Thiên Y A Na và nhận ân tứ của vua nước Việt. Vua Gia Long phong tặng « Hồng Nhân Phổ Tế Linh Ứng Thượng Đẳng Thần » và cắt dân làng Cù Lao ba người sung làm từ phu. Các đời vua sau, đời nào cũng có phong tặng. Người địa phương, ngoài danh hiệu Thiên Y A Na, thường tôn xưng là « A Na Diễn Bà Chúa Ngọc Thánh Phi » và gọi tắt là bà « Chúa Ngọc ».

Sau khi xứ Kaut Hara sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam, người Chàm bỏ đi hết, và tuyệt nhiên không bước chân đến tháp Poh Nagar. Gặp những người Chàm ở Phan Rang ra buôn bán ở Nha Trang, hỏi về tháp, họ đáp một cách cụt lủn « không biết » rồi ngó ngơ. Thái độ ấy chứng tỏ rằng họ không ưa nghe tên ấy. Hoặc giả vì tên tháp gợi cảnh diệt vong của giống nòi, hoặc giả họ không phải là người theo đạo Bà La Môn mà là người theo Hồi Giáo. Tháp Chàm bị người Chàm hờ hững!

Trái lại, phần đông người Khánh Hoà và một số đồng bào ở các tỉnh di cư đến, lại gởi trọn niềm tín ngưỡng nơi tháp, nhất là các bà các cô. Ngày rằm và mồng một, người đến lễ bái chật trong chật ngoài. Thời Tiền Chiến, đến ngày vía Bà (ngày 3 tháng 3 âm lịch) nhân dân địa phương tổ chức lễ cúng tế rất long trọng. Ban đêm có lệ múa bóng ở trước sân tháp.

Điệu múa bóng là điệu múa của Chiêm Thành truyền lại. Người múa toàn là con gái. Áo xiêm rực rỡ: đầu đội, người cỗ hoa tươi, kẻ đèn lồng ngũ sắc. Đèn và hoa chồng cao như ngọn tháp. Vũ nữ múa theo điệu đàn điệu trống, đoanh lộn nhịp nhàng dưới ánh đuốc ánh đèn hừng hẫy. Họ múa rất khéo và rất tài. Chẳng những đôi tay đôi chân luôn luôn cử động, vừa dẻo vừa mềm, mà đầu và thân cũng luôn luôn ngửa nghiêng uốn éo theo bước chân nhịp tay, rộn ràng đều đặn. Thế mà đèn và hoa đội trên đầu, không vịn không đỡ mà vẫn không hề lay không hề dịch, dường như có những bàn tay vô hình đỡ nâng. Cảnh tượng vô cùng ngoạn mục. Tổ chức múa Bóng do người ở xóm trước tháp phụ trách. Những vũ nữ phần nhiều là người trong xóm. Trường dạy múa cũng ở trong xóm. Cho nên xóm mệnh danh là Xóm Bóng thuộc làng Cù Lao. Lệ Múa Bóng ngày vía Bà đã bỏ từ thời Bảo Đại, trước đệ nhị thế chiến. Nhân đó có câu hát:

Ai về Xóm Bóng thăm nhà,

Hỏi xem điệu múa dâng Bà còn chăng?

Thế thường tre lụn còn măng,

Lẽ đâu tham đó bỏ đăng cho đành.

Lệ Múa Bóng tuy bỏ nhưng ngày vía Bà vẫn tổ chức long trọng. Người đến dâng hương xin xăm chật trong chật ngoài. Nhưng không tưng bừng rộn rịp bằng đêm Giao Thừa. Đêm Giao Thừa ở Tháp Bà có thể gọi là kỳ thú. Khách du quan muốn thưởng thức thú vị cho đầy đủ thì đêm tất niên phải dưỡng sức để lúc đồng hồ điểm 12 giờ thì đi bộ sang Tháp. Phải đi bộ mới tận hưởng được những gì đáng hưởng khi trời đất bước vào xuân. Khí trời đương lạnh tự nhiên thấy ấm, một khí ấm đặc biệt, dìu dịu thưng thưng, trong trong lại mát mát. Lại phảng phất một mùi hương thanh thanh: hương trầm, hương kỳ nam từ rừng sâu đưa đến, hay hương nhang hương hoa từ trong nhà trong chùa bay ra? Tắm mình trong bầu không khí yên lặng, vừa ấm vừa mát, vừa trong vừa thơm, du khách cảm thấy tâm cũng như thân tự nhiên thanh thảnh nhẹ. Bao nhiêu hận thù, bao nhiêu phiền não đều tan sạch. Cõi lòng từ từ mở rộng để đón phút thiêng liêng mới bắt đầu. Cảnh cũng như người đều dũ sạch những bợn trần của năm cũ. Núi non trông biếc thêm, sông biển trông trong thêm. Và những chòm cây muồng hòe ở hai bên đường, những khóm lau khóm dứa ở nơi bãi vắng, đầy đặc cả đom đóm. Có thể nói rằng đom đóm ngự trị cả nước non. Và cũng có thể bảo rằng bao nhiêu sao trên trời đều sa xuống đọng nơi cây cối. Ánh vàng làm chúa tể thay bóng tối đêm ba mươi. Nhìn trước: ánh vàng. Ngoảnh sau: ánh vàng. Trông sang tả: ánh vàng. Ngó sang hữu: cũng ánh vàng. Từ Cầu Hà Ra qua đến Xóm Bóng, du khách có cảm giác đi ngang qua một rừng sao.

Nhưng rừng sao ở đây không đứng yên mà luôn luôn cử động. Hễ vùng nầy sáng thì vùng kia tắt, vùng nầy tắt thì vùng kia liền sáng. Cứ sáng, tắt, tắt, sáng… luân phiên, liên tục, không mau, không chậm, đều đặn, nhịp nhàng.

Quanh đồi Cù Lao và trên những lùm cây ở mé sông cạnh tháp, cũng đầy cả đom đóm. Ánh vàng cũng rực rỡ, dấp dới lung linh. Và trên tầng ánh sáng khi khuất khi hừng, bốn ngọn tháp nửa quyến cây xanh nổi bật lên nền trời cao, uy nghiêm nhưng hiền hậu.

Những ngọn đèn lồng ngũ sắc dăng trên cành cây, những ngọn huyền đăng treo trước sân tháp, chập chờn trong bóng lá, rọi vào cảnh vật, chỗ tỏ chỗ mờ, nơi thưa nơi nhặt, vui vẻ nhưng rụt rè, như cô gái quê mặc áo mới ra chào khách.

Từ dưới chân đồi lên đến sân tháp, người đông như kiến, chen chúc nhau, nối tiếp nhau. Người tuy đông, nhưng không ồn ào lộn xộn. Phần nhiều các bà các cô, dường như lắng lòng mình lại, để lúc dạo vuờn hái lộc, vào tháp xin xăm, dễ cùng thần linh giao cảm.

Trong tháp chật ních người lễ bái. Hương tỏa mịt mù làm mờ cả hàng trăm cây đèn sáp cháy cao ngọn. Những luồng khói thơm tuôn ra cửa, ra nơi lỗ trống trên đỉnh tháp, ngạt ngào trong gió và lưởng vưởng trên đầu cây cao như những làn sương mỏng. Những tiếng chuông tiếng trống trong tháp bay ra, không rền vang như tiếng trống chùa miễu, tiếng chuông nhà thờ, mà vì vách tháp dày, cửa tháp hẹp, nghe mơ hồ phảng phất như có như không.

Những người vào tháp, phần hơi nóng của đèn hương, phần hơi thở của xương thịt, không thể nào ở lâu được năm mươi phút, nếu không có lòng thành kính hộ trì. Riêng những người râm đi bẻ những cành xanh tươi quanh tháp là vui vẻ thảnh thơi. Đàn ông đàn bà, con trai con gái, ai nấy đều hớn hở tươi cười. Nhưng không một tiếng ồn, không một bước mạnh. Đi qua mặt nhau, êm đềm lặng lẽ như bóng mây qua.

Quang cảnh thật là huyền mơ! Và bầu không khí thiêng liêng bao trùm cả cảnh vật. Đứng trước cảnh có thể gọi là thần tiên ấy, con người dường như trở nên thuần hậu, khoan hòa. Cho nên từ trước đến nay, chưa hề xảy ra những chuyện không tốt không lành mà những nơi đông người thường hay có. Và vì lòng người đã dẹp bớt được tham sân si để hòa mình với cảnh, nên lá xăm, nắm lộc buổi đầu năm rất linh nghiệm. Do đó lòng tín ngưỡng bà Thiên Y A Na gia tăng. Và việc « đi tháp Bà » đêm giao thừa đã thành một cái lệ. Thời Tiền Chiến đã đông, thời Hậu Chiến còn đông gấp bội.

Riêng tiếc, hiện nay xe ô tô, mô tô quá nhiều, nên trên con đường từ Nha Trang sang Xóm Bóng không được yên tịnh như trước. Thời Tiền Chiến, những người giàu có qua tháp chỉ dùng xe tay hoặc xe đạp. Cho nên lòng người có thể giữ được thanh tịnh ngay trong lúc xuống đường. Và cũng rất tiếc lúc nầy đom đóm không sanh sản được nhiều. Không biết vì thời tiết thay đổi, hay vì bột DTT, thuốc diệt trừ sốt rét… đã làm cho giống vật có thứ lửa không nóng, có tấm lòng cẩm tú kia bị tiêu diệt lần lần? Tuy vậy tiếng ồn ào của xe cộ chỉ làm rộn một khoảng đường đi, chớ không thể phá nổi cảnh thanh tịnh của đêm khuya, vẻ u huyền chung quanh tháp. Và những ánh đèn nê-ông trong sương mờ, trên mặt sóng sòng sóng biển, lung linh phiếu diếu, cũng tạo nên cảnh sắc đầy mộng đầy thơ.

Cho nên, nay cũng như xưa cảnh giao thừa ở Tháp Bà vẫn đông đúc. Những người không thích hái lộc, không thích xin xăm, cũng vui vẻ đến tháp để thưởng thức cảnh trời đất vừa đổi mới. Sanh ý của kiền khôn dường như phát xuất nơi đây. Dường như chỉ nơi đây mới thấy rõ vẻ trinh nguyên của tạo hóa, mới thấy rõ sắc tướng của giao thừa.

B) HÒN ĐÁ CHỮ

Nhưng cảnh thú của giao thừa nơi tháp Bà chỉ dành riêng cho những người ở gần tháp, và những người ở gần tháp mỗi năm chỉ được hưởng có một lần. Chung cho mọi người, và lúc nào cũng thưởng thức được, là bản thân của tháp và phong cảnh chung quanh.

Cách xây tháp Poh Nagar, không khác các tháp khác ở Bình Định, Phan Rang. Cách bài trí cũng tương tợ. Nơi tháp thờ thần Poh Nagar, ngoài thần tượng trong tháp ra, nơi khung cửa bằng đá xanh nguyên khối ở trước tháp, một bức tượng chạm nổi rất linh động. Đó là tượng thần Civa, thần bốn tay, một chân đạp trên đầu một con thú dị hình, một chân đương nhảy múa giữa hai nhạc công thổi địch. Hình chạm, nhưng nhìn vào, chúng ta có cảm giác là mềm dẻo như người vũ nữ bằng da thịt. Những hình tượng nơi các tháp khác nét đẽo gọt chạm trổ có phần thô phác chớ không được tinh vi bằng hình tượng nơi tháp thờ Poh Nagar.

Nhìn qua cách thức xây tháp, nét chạm khắc các tượng đá, chúng ta có thể đoán biết được trình độ nghệ thuật của Chiêm Thành. Còn phong cảnh quanh tháp, ngoài cảnh đẹp của biển khơi, của sông dài, của những ngọn núi ngọn đồi lúp xúp. Còn những cụm đá ở nơi cửa sông Cù trông cũng rất vui mắt.

Có hai cụm nằm gần nhau. Chu vi chừng 100 thước vuông, và cao từ mặt nước trở lên chừng vài ba thước. Trên một tảng đá to lớn nhất có một ngôi miếu nhỏ đứng cạnh một cây gòn khẳn khiu. Trông như một hòn non bộ ở giữa một bể cạn trong vườn cảnh. Đó là Hòn Đá Chữ gọi tắt là Hòn Chữ. Gọi như thế là vì trên đá có chữ, một lối chữ hình như những con nòng nọc nối đuôi nhau, cổ nhân gọi là Khoa Đẩu tự. Lối chữ nầy giống như lối trùng văn khắc ở các nơi bia, nơi cửa tháp Thiên Y. Có lẽ là một lối chữ cổ Chiêm Thành, người Chàm đọc không được, người Ấn Độ đọc không được, đến những người thông thạo cổ tự thế giới, như các nhà khảo cổ Âu Mỹ đã từng đến Nha Trang, đọc cũng không được. Những chữ ấy chắc là của vua quan Chiêm Thành ngày xưa đã khắc với một mục đích gì đó, chớ không phải của du khách cao hứng chơi ngông. Nhưng vì không đọc được nên không biết ý nghĩa như sao. Dấu chữ bị sóng gió mài mòn. Hiện chỉ còn trông lờ mờ trên một vài tảng.

Nguyên lai của mấy cụm đá có nhiều thuyết: Kẻ thì bảo là « trời sanh ». Các nhà khảo cổ ngờ rằng từ trên tháp Thiên Y A Na lăn xuống. Nhưng người địa phương tin rằng đó là những tảng đá đã đánh đắm những chiếc thuyền của bộ hạ Thái Tử Bắc Hải. Người xưa đã chạm chữ vào để làm bia cho những kẻ ỷ thế cậy mạnh biết mà sửa mình. Cảnh trí trông cũng khả ái lắm.

Đứng trên đá nhìn ra bốn mặt, thì phía Đông nước xanh lẫn mây trắng, hữu hạn nhưng vô cùng ; phía Tây con sông Nha Trang như tấm lụa giợn thủy ba, chạy dài ở giữa hai bờ non xanh bãi lục, với cầu Xóm Bóng « vắc vẻo qua sông » ; phía Bắc núi non bàn khúc, màu xanh điểm màu đỏ màu trắng của những dãy nhà Dòng, của những ngọn tháp Bà, của nhà cửa làng Cù Lao, và cầu Bến Cá với những ghe thuyền đông đúc ; phía Nam thành phố Nha Trang ẩn hiện trong bóng cây xanh. Quang cảnh ấy, tuy đã trông thấy khi đứng trên Tháp Bà nhìn xuống. Nhưng vị trí thay đổi, cảnh sắc cũng thay đổi rất nhiều. Một giai nhân trông ở sau lưng đâu có giống khi trông ở trước mặt hay khi trông ở bên hữu bên tả. Và nếu đứng trên Tháp Bà nhìn xuống, người giàu tưởng tượng có thể tưởng mình đương đứng tại Ba Lăng mà nhìn cảnh Động Đình: Hòn Chữ biến thành cảnh « thần tiên bất khả tiếp » có trăm ngàn cung điện bằng vàng, muôn vàn Ngọc nữ ẩn náu, và khách vãng cảnh khoan khoái để mặc cho « tâm tùy hồ thủy cọng du du ». 12

Thời thái bình, khách văn chương thường tổ chức những cuộc ngâm vịnh nơi Hòn Chữ, và họ cũng thường mượn Hòn Chữ để gởi gắm tâm tình:

I.

Ai về Xóm Bóng, Hà Ra,

Đi ngang Hòn Chữ cho ta nhắn lời:

Nhắn ai nuôi chí vá trời,

Lòng trung tạc đá muôn đời còn bia.

II.

Anh đứng Nha Trang,

Trông sang Xóm Bóng,

Sáng trăng lờ mờ lượn sóng lăn tăn.

Gần nhau chưa kịp nói năng,

Bây giờ sông cách biển ngăn ngại ngùng!

Biển sâu con cá vẫy vùng,

Sông sau khôn dễ mượn lòng đưa thư!

Anh nguyền cùng em:

Bao giờ Hòn Chữ bể tư,

Biển Nha Trang cạn nước,

Anh mới từ duyên em.

III HANG ÔNG BƯỞI, HANG ÔNG GIÀ

A) HANG ÔNG BƯỞI

Từ Tháp Bà theo mé sông, chân núi đi lên chừng một cây số, hoặc từ cầu xe lửa Ngọc Hội đi xuống chừng bốn năm trăm thước, du khách trông thấy bên bắc ngạn sông Nha Trang, sát chân núi, dưới bóng cây, một cụm đá xanh hòn hòn to lớn chồng chất lên nhau, đồ sộ vững vàng, chắn ngang con đường lên xuống. Trong cụm đá có một hang đá tục gọi là:

Tại sao có tên như thế? Tại vì buổi đầu nhà Nguyễn Trung Hưng, có một nhà sư đến tu nơi hang, quê quán nơi đâu, danh tánh là gì, không một ai biết rõ. Nhân thấy quanh năm chỉ ăn bưởi thay cơm, nên gọi là Ông Bưởi. Truyền rằng:

Ông Bưởi đến hang với một con hổ mun và một con vượn trắng. Cách tu hành khác hẳn các sư sãi nơi chùa chiền. Không kệ không kinh, không mõ chuông, không tràng hạt, mai chiều ngồi im lìm trên đá tham thiền. Con vượn đứng hầu bên cạnh, con hổ nằm canh trước miệng hang. Mỗi ngày nhà sư chỉ thọ trai vào đúng ngọ. Thức ăn là một tép bưởi do con vượn cúng dường. Thường thường ít ra khỏi hang. Thỉnh thoảng có vân du thì cỡi hổ mà đi, nhẹ nhàng như mây gió. Ban đêm trong hang tỏa sáng, xa trông trong mát như ánh trăng. Người thì cho rằng Ông Bưởi tu hành đắc đạo, nên thân phát hào quang. Nhiều người lại quả quyết rằng hào quang kia là do bộ nút bằng dạ minh châu nơi áo cà sa của ông Bưởi phát hiện. Ai cũng cho mình đúng song sợ cọp, không ai dám đến tìm sự thật ở nơi hang.

Nghe đồn ông Bưởi có dạ minh châu, một bọn côn đồ quyết tâm chiếm đoạt. Một hôm chúng rình thấy hổ và vượn vào rừng hái trái, bèn kéo nhau vào hang. Hang đá trống không và thân ông Bưởi chỉ choàng một tấm vải nâu không đường may cũng không khuy nút. Thấy ông Bưởi ngồi như một pho tượng, gọi không đáp hỏi không thưa, một tên lấy tay thọc lét. Nhưng tay vừa để vào nách thì vội thụt ra ngay, vì lạnh rợn mình như rờ vào thây người chết. Tên thứ hai lấy chân đạp mạnh: thân nhà sư vẫn ngồi trơ. Cả bọn xúm nhau xô, nhưng rán đã hết sức, vẫn không xê dịch được mảy may. Một tên nổi khùng, rút dao găm đâm mạnh vào bắp vế. Lưỡi dao lút quá nửa, nhưng ông Bưởi dường không biết không hay. Chúng vừa muốn giở thêm trò, nhưng con dao găm vụt bắn ra, cắm sâu vào vách đá. Đồng thời một vòi máu nóng từ nơi vết thương phun mạnh vào mặt bọn bất lương. Chúng thất đảm xô lấn nhau chạy mất. Từ ấy không ai dám đến gần hang.

Ông Bưởi ở tu nơi hang ngót chín mười năm trời. Những khi dân trong hạt bị cơ cẩn hoặc bị bệnh thiên thời, ông Bưởi thường đem gạo, thuốc đặt nơi ngã ba đường để cứu trợ. Vì vậy nhân dân địa phương xem ông Bưởi như vị Phật sống. Nhưng vì không dám đến gần, nên nhiều người buổi mai buổi chiều, đốt hương vọng về hang mà đảnh lễ. Quan cai trị nghi rằng ông Bưởi có tà thuật. Lại thấy đồng bào mỗi ngày mỗi thêm sùng bái, sợ lâu sanh biến, nên ra lệnh trục xuất khỏi địa phương. Nhưng lệnh không được thi hành, quan liền kéo quân đến vây bắt. Quân lính vừa đến gần miệng hang, thì hổ gầm như sóng dậy, vượn hú lên nghe rợn mình, không ai có gan bước tới. Một tên lại già thiết kế: Dùng hỏa công. Thế là củi chất quanh hang. Rồi lửa bừng cháy rật rật. Ai cũng tưởng ông Bưởi cùng vượn, hổ phải chết thui. Kẻ gian ác lấy làm thỏa lòng. Người lương thiện sụt sùi khóc. Không ngờ ngọn lửa đương lên cao ngất, bỗng rẽ làm hai: ông Bưởi cỡi hổ, dắt vượn, từ trong hang ung dung đi ra, rồi vụt chạy thẳng lên núi. Mây bay gió cuốn, chỉ trong khoảnh khắc đi mất tăm. Không ai biết ông Bưởi đi đâu. Và từ ấy hang bỏ vắng.

Hang ông Bưởi – cũng thường gọi là động ông Bưởi, hay chùa ông Bưởi – Không vĩ đại, cũng không kỳ mỹ, như động Hương Tích, động Huyền Không. Hang chỉ cao rộng vừa một người đi thẳng lưng, và chạy dài chừng mười lăm hai mươi bước. Nền có phần bằng thẳng, nhưng vách hô hê hốc hỉu, chỗ lõm chỗ lồi, chớ không trơn liền cũng không ngay ngắn. Và mái là một tảng đá rộng lớn phẳng phiu, nằm ngang trên vách đá. Miệng hang trở về hướng đông. Lòng hang mát mẻ và sáng sủa, vì cửa hang rộng và đầu hang phía Tây có kẽ hở có thể lách mình ra vô. Cảnh tuy không lấy gì làm đẹp mắt, song nếu đến hang nhằm trưa mùa hạ và chơi cho đến chiều tối, thì hưởng được nhiều thú vị thanh tao. Ở ngoài thì trời nắng chang chang, mà trong hang không hề có một chút nóng. Lúc nào cũng có hơi gió biển thổi lồng, nhưng chỉ hiu hiu vừa đủ mát. Tứ bề im lặng, không một tiếng khuyển, không một bóng người. Tiếng chim trên non, từ xa đưa lại, trong nơi thanh vắng, giọng nghe cao vút và trong veo. Thỉnh thoảng mùi hoa rừng bay theo gió, có đó rồi liền không. Rồi khi mặt trời đã về non, leo lên nóc hang mà thưởng cảnh. Nóc hang, đúng hơn nên gọi là mái hang, là một sân đá vừa bằng vừa rộng, giống như sân thượng một nhà lầu. Trước mặt, sông Nha Trang như con bạch long uốn khúc ; và cồn dừa bãi cỏ nối liền những đám cây với nhà cửa ẩn hiện, thành một bức tranh màu xanh mở rộng điểm thêm những nét xám nét đỏ rung rinh vì những làn khói nhẹ bay qua. Và cửa biển Nha Trang ở phía Đông phản chiếu ánh trời hôm, sáng trưng như một hồ thủy ngân vĩ đại.

Khi trời đã nhá nhem tối, sóc và kỳ nhông kéo ra từng bầy. Nhiều con lớn bằng cổ vế. Trông thấy bóng người, ban đầu sợ chạy trốn, nhưng rồi thấy người không có ác ý, chúng kéo nhau trở lại, ra sân đá nhảy giỡn tự nhiên. Nếu trời có trăng thì có thể ở chơi cho đến khuya để thưởng thức cảnh « yên lung hàn thủy nguyệt lung sa » trong thơ Đường thể hiện. Năm Kỷ Mão (1939), vào khoảng thượng tuần tháng 5, một nhà thơ đến viếng hang ông Bưởi có để lại một luật rằng:

Vách đá cheo leo chắn bợn trần,

Tình riêng với cảnh với giai nhân.

Gió lồng cửa động không trời hạ,

Trăng vẽ mày ai sắc nét xuân.

Đạo hạnh xưa thầy riêng một cõi,

Phong lưu nay tớ vẹn mười phân.

Nhắn cùng anh chị yêu non nước,

Đây của mình đây chớ ngại ngần.

Gần đây, không biết vì mến danh ông Bưởi hay muốn mượn danh ông Bưởi để quyến rũ thập phương, một am thờ Phật dựng trước cửa hang, khiến cảnh thiên nhiên bị giảm sắc đi nhiều lắm! Do đó Trường Xuyên có mấy vần cảm tác:

Mây qua ráng lại chẳng ngăn ngừa,

Mượn cửa am rào nẻo đón đưa!

Sắc gấm dẫu lồng thơ vách đá,

Bụi đời e nhiễm gió ban trưa.

Thăm thầy viếng cảnh chi thêm bận,

Trách nắng than sương nghĩ cũng thừa!

Đành gởi nhớ thương chương ký ức,

Nghìn sau khỏi nhạt mối tình xưa.

B) HANG ÔNG GIÀ

Cách hang Ông Bưởi chừng 7, 8 cây số về phía Bắc, tại ấp Lương Sơn, quận Vĩnh Xương, còn một hang đá nữa, phong cảnh cũng đáng yêu. Đó là:

Hang nằm phía Nam Bãi Miếu trên gành đá Bàn Than. Hang ăn sâu vào gành. Miệng rộng chừng 5, 6 thước. Từ ngoài vào trong dài trên dưới 10 thước. Một nửa ngập dưới nước. Xuồng có thể vào ra dễ dàng. Nơi vách cuối hang có một hóc nhỏ, sâu chừng hai thước. Rong rêu mọc tua tủa. Đứng ngoài miệng hang trông vào, giống hình một ông già râu dài đứng bên cạnh một đứa cháu gái bỏ tóc xõa. Hang do đó mà mệnh danh. Cảnh trong hang trông đã kỳ. Cảnh ngoài hang nhìn cũng rất thú. Hang ngó xuống vịnh Nha Phu. Phía Bắc có núi Phước Hà, phía Nam có núi Rù Rỳ, làm hai cánh cửa che gió. Mặt nước bị thu hẹp không làm cho mắt chơi vơi giữa cảnh mênh mông bát ngát của thương hải.

Gành Bàn Than, đá mọc lởm chởm, chỗ thấp chỗ cao, nơi lồi nơi thũng, chạy từ Lương Sơn đến Rù Rỳ. Chân, sóng vãi trắng. Đầu, cây rải xanh. Bãi Miếu, cát trắng phau và nhỏ mịn, trải dài ở phía Bắc gành Bàn Than. Sóng biển không to, lúc nào cũng thưng thưng chầm chậm. Gành và bãi nhờ Hang mà được khách du quan ghé mắt. Nhưng nếu không gành không bãi thì Hang không đủ sức cầm chân khách được lâu. Cho nên phải có ba mới đủ bộ vậy.

C) HÒN CHỒNG

Từ hang Ông Già trở vô Cù Lao trở lại để viếng cảnh.

Ở Nha Trang, muốn đến Hòn Chồng thì có hai đường. Hoặc đến Xóm Bóng mướn con thuyền nho nhỏ bơi ra hướng Bắc, để khai vị thú trời biển bao la. Hoặc theo đường Quốc Lộ số 1 đi ra khỏi Tháp Bà chừng một cây số rưỡi, rồi quẹo xuống ngõ trẽ qua xóm dừa nước ngọt bóng xanh. Chỉ trong giây lát là đến Hòn Chồng. Hòn Chồng có hai khóm: Một nằm ngoài biển ; Một nằm trong cát, sát chân đồi thôn Cù Lao.

Khóm nằm dưới biển trông có bề thế. Đá một màu xam xám, lớp chìm dưới nước, lớp nổi lên mặt sóng, lớp nằm giăng hàng, lớp chồng lên nhau và nhiều hòn to dềnh dàng nằm đè lên trên hòn bé bỏng, nhưng không hề sụn không hề lay. Từ trong bờ đá chạy lúp xúp ra ngoài khơi, rồi đột khởi lên một tảng đá vừa cao vừa rộng, trông như một cái gò, dáng bằng bằng. Trên tảng đá nầy lại có một hòn đá to lớn như một cái nhà, nằm chênh vênh nơi mỏm cao nhất. Hình đá hơi tròn tròn, nhưng chỗ lồi chỗ lõm, và nơi mặt ngó vào bờ, có dấu một bàn tay to tướng in sâu vào đá với năm đầu ngón tay vấu lại. Người ta bảo đó là dấu bàn tay ông Khổng Lồ 13. Khóm nầy là Hòn Chồng Đực, gọi tắt là Hòn Chồng.

Còn khóm kia là Hòn Chồng Cái, thường gọi là Hòn Vợ. Đá nơi Hòn Chồng Cái cũng lớn chồng lên nhau, lớp nằm giăng hàng như cảnh Hòn Chồng Đực. Nhưng nơi Hòn Chồng Đực, đá thường bị sóng cọ mài nên phần nhiều trơn liền tròn trịa. Còn đá nơi Hòn Chồng Cái rất nhiều góc cạnh, và phần nhiều hình khối, hình lăng trụ. Đá nơi Hòn Chồng Đực thường thường chồng lên nhau. Đá nơi Hòn Chồng Cái lại nằm khăng khít nhau một cách âu yếm. Trên khóm Hòn Chồng Cái, có hai tảng đá hình khối chữ nhật đứng song song, và trên đầu đội hai hòn đá nhỏ hình khối vuông. Đứng xa trông giống hai người đàn bà mặc áo dài, ngồi nhìn ra biển. Cảnh tượng trông vừa cổ vừa kỳ. Khách phong tao thường lấy đây làm nơi ngâm vịnh. Dưới triều Duy Tân (1907-1916), chí sỹ Trần Cao Vân vào Khánh Hòa tìm đồng chí, ghé chơi Hòn Chồng có đề một luật rằng:

Đất nắn trời nung khéo định đôi,

Hòn Chồng Đực Cái phối hai ngôi.

Ông xây nên đống cây trồi mụt,

Bà đúc ra khuôn đá mọc chồi.

Mây núi rủ giăng màn tịnh túc,

Nước khe hầu rót chén giao bôi.

Non thề giai lão trơ trơ đó,

Gió chẳng lung lay sóng chẳng đồi.

Trong quyển Một Tấm Lòng ra đời năm 1939, cũng có một bài rằng:

Trời mây biển nước cảnh mênh mông,

Chân núi dô ra đá mấy chồng.

Khắn khít thớt em nương thớt chị,

Vững vàng hòn cháu đỡ hòn ông.

Sóng xô đẩy mãi bền gan sắt,

Rêu buộc ràng thêm chặt giải đồng.

Gặp gỡ đá đây ta hỏi đá:

Vá trời bao thuở mới nên công.

Thuần Phu Trần khắc Thành họa vận:

Kìa đèo Đại Lãnh đảnh Cù Mông,

Cảnh thú khôn so cảnh Đá Chồng.

Biển bọc chân non hình bán đảo,

Chữ đề mặt đá nét thi ông.

Nước mây bốn phía xem như vẽ,

Sóng gió nghìn thu vững tựa đồng.

Những khách thừa lương thanh thỏa dạ,

Hóa công xưa khéo tạc nên công.

Và gần đây một nữ giáo viên hưu trí, bà Tùng Trang, mượn cảnh Hòn Chồng để tả tình cảnh éo le của mình 14, rất ý nhị, rằng:

Cắt cớ cho rồi đấng hóa công!

Sinh non Bà lại có non Ông.

Xem qua những tưởng hai hòn núi,

Hỏi lại thì ra cặp vợ chồng.

Nước rẽ khối tình trơ tráo mặt,

Sóng trêu gan đá dửng dưng lòng.

Tháng ngày đối diện cùng nhau đó,

Gang tấc mà ra cách mấy trùng!

Cảnh Hòn Chồng, dưới mắt mỗi nhà thơ, nhuộm một sắc thái riêng biệt. Nhưng các nhà thơ đều nói chung cả Hòn Chồng Đực, Hòn Chồng Cái. Tác giả Một Tấm Lòng thì mượn tình ông cháu, nghĩa chị em, để nói. Trần cao Vân và Tùng Trang mượn cảnh vợ chồng để nói.

Nếu đứng trên phương diện vợ chồng, thì thử hỏi: Trên khóm Hòn Chồng Cái có hai Bà. Vậy cả hai là Vợ của Hòn Chồng Đực, hay chỉ một trong hai bà là vợ mà thôi? Nếu chỉ có một bà là vợ, thì cảnh Hòn Chồng là cảnh Thi Sách và hai Bà Trưng. Nếu cả hai là vợ, thì đó là cảnh của Nga Hoàng Nữ Anh và vua Thuấn. Hỏi người Tàu thì nhất định bảo là người đời Ngũ Đế. Hỏi người Việt thì tất nhiên đáp là người đất Mê Linh. Hỏi đá đá làm thinh. Cho nên Cổ bàn Nhân ở Bình Định, vào viếng Hòn Chồng sau ngày chiến tranh Việt Pháp đình chỉ, có bài thơ ngũ ngôn:

Non nước đúc Hòn Chồng,

Hai Bà đối một Ông.

Khói mây đầu nhuốm bạc,

Mưa nắng má phai hồng.

Hồn nghĩa Mê Linh tạc?

Giọt tình Tương Thủy đông?

Vá trời tài hẳn có,

Lấp bể chí nuôi không?

Khắn khít tình em chị,

Lơ là nghĩa vợ chồng!

Chuyện đời thôi để đó,

Chung gánh gánh non sông.

Những bài thơ trên tuy mượn cảnh để ký thác tâm chí song vẫn nêu rõ những đặc điểm của Hòn Chồng trên thực tại khách quan. Nhưng có nhiều du khách đã thất vọng khi đến Hòn Chồng. Như cụ Xuân Sanh tục gọi là « Thầy Đồ Nghệ », thời Pháp thuộc, là một Cụ Đồ đã than:

Ngó lại ngó qua hai đống đá,

Leo lên leo xuống hư đôi giày!

Cụ Đồ nói đúng sự thật một trăm phần trăm. Bởi Hòn Chồng chỉ toàn đá là đá. Và leo đá mà mang giày thì tài gì không hư. Nhưng đó là tại người chớ không phải tại cảnh. Không cảnh nào không đẹp. Nếu trong tâm hồn người đối cảnh có sẵn chất đẹp, thì vẻ đẹp của cảnh sáp nhập vào tâm hồn rồi hiển hiện ra trước mắt. Bằng tâm hồn chứa đựng toàn hình ảnh lợi danh, thì hình ảnh không mấy đẹp kia che khuất hết vẻ đẹp của cảnh. Nh?