← Quay lại trang sách

Con chó mực

Câu chuyện bắt đầu vào đầu tháng Chạp. Nửa đêm hôm ấy, gần như cả buôn Lak thức giấc bởi tiếng la hét vang lên từ nhà Hre Đăng. Hre Linh, cô con gái của Hre Đăng, mười bảy tuổi, vừa lăn lộn trên mặt đất vừa thét vang. Hàng xóm láng giềng vội chạy tới, và trong số họ, có Khuôn Ray, một trong số hiếm hoi người dân trong buôn biết chữ, và lại say mê các câu chuyện phù thuỷ, ma quái. Ông ta tiến lại gần Hre Linh, đưa cô con dao làm bếp:

— Cầm dao đặt lên trán. Quyền lực đen tối sẽ tụ vào lưỡi dao và dẫn cháu tới nơi cần vứt bỏ chúng.

Cô gái đứng dậy, áp lưỡi dao vào trán, cứ thế bước đi trong đêm tối. Cả đám đông đi theo cô. Không chút ngập ngừng, cô tiến thẳng lại một túp lều cách buôn khoảng một cây số và dừng phắt lại. Khuôn Ray nói lớn:

— Chém mạnh dao vào cánh cửa. Ma quỉ sẽ bị gắn chặt vô đó!

Cô gái tuân lệnh, rồi ngã vật ra bất tỉnh.

Qua bữa sau, cô không còn nhớ gì chuyện đêm hôm trước, nhưng cả buôn Lak xôn xao. Thực ra, trong sâu thẳm ý nghĩ, không ai ngạc nhiên về chuyện vừa xảy ra, bởi người ở trong túp lều là bà Y Bông, và đã từ lâu, ai cũng nghĩ bà ta là một mụ phù thuỷ.

Năm nay bà ngoại tứ tuần, người nhỏ thó, ngoài mái tóc hơi bị hói, bà không có vẻ gì là một mụ phù thuỷ cả, dù bà không đẹp. Vậy tại sao bà lại bị buộc tội như thế?

Vì nhiều lý do. Trước hết, bà không có chồng con, và chẳng mấy ai rõ gốc tích của bà. Sau chiến tranh, nghe đâu bà ở bên kia dãy núi phiêu bạt tới đây. Bà lại có hành động kỳ dị: thích cho mấy con quạ ăn. Và sau hết, bà nuôi một con chó đen, đen từ đầu đến chân, đến tận mút đuôi, đen bóng đen láng – một con chó mực, con chó của hoả ngục.

Kể ra cũng có nhiều người đến trấn an dân trong buôn nói chung và gia đình Hre Đăng nói riêng. Trước hết là y sĩ trạm xá tại xã. Anh nói Hre Linh bị mắc một dạng bệnh thần kinh – điên loạn, và cần đưa lên bệnh viện tỉnh điều trị theo đúng các phương pháp khoa học. Còn Vũ Mạnh, trưởng công an xã, quyết định cho đội tuần tra đêm nào cũng rảo quanh buôn Lak. Tuy nhiên dân trong buôn dường như vẫn không sao gạt bỏ được nỗi ám ảnh về mụ phù thuỷ. Nội trong không đầy một tháng, ít nhất ba lần có kẻ chợt hoảng sợ la hét trong đêm – một đứa trẻ trong giấc mơ, một bà già đang khi nằm trên giường bệnh và Hre Linh thêm một lần lên cơn điên loạn. Và, lần nào người ta cũng đổ lỗi cho “mụ phù thuỷ Y Bông”.

Trong khi ấy “mụ phù thuỷ” vẫn không thay đổi thói quen hàng ngày: cho lũ quạ đen ăn, lên làm rẫy giắt theo con chó mực và đêm đêm chui vào túp lều thui thủi một mình…

* * *

Càng gần Tết trời càng trở lạnh. Gió bấc hun hút lùa theo triền núi đổ về buôn Lak. Ngày 24 tháng Chạp, Vũ Mạnh trở về nhà sau lần tuần tra thì đã gần nửa đêm, tự nhiên anh có cảm giác mơ hồ lo ngại. Quả vậy, anh vừa ngả lưng thiu thiu thì điện thoại reo vang. Ở đầu dây bên kia là giọng của nhân viên trực đêm:

— Có chuyện nghiêm trọng vừa xảy ra ở buôn Lak. Con trai của Y Bốc vừa bị giết. Tất cả dân trong buôn đều cho rằng chính mụ phù thuỷ là thủ phạm. Không cách nào thuyết phục hoặc ngăn cản họ nổi.

Mười phút sau Vũ Mạnh có mặt tại hiện trường, dẫn theo hơn chục nhân viên cảnh sát. Chung quanh nhà của Y Bốc là cả một không khí nóng bỏng gây rối: đàn ông, phụ nữ chia thành từng nhóm nhỏ xôn xao bàn tán. Nhân viên vừa gọi Vũ Mạnh khều riêng anh ra, báo cáo nhanh tóm tắt tình hình:

— Con trai Y Bốc, mười tuổi, bị lên cơn mộng du. Nó leo lên nóc nhà, trượt chân ngã xuống đất bể đầu chết. Mọi người cho rằng nó bị mụ phù thuỷ thôi miên từ xa, rồi ra lệnh cho nó gieo mình vào khoảng không. Hiện đã có mấy nhóm cầm theo vũ khí tới lều của Y Bông.

Lúc này, thêm nhiều nhóm nhỏ nữa đang tiến về phía lều của Y Bông. Không hỏi gì thêm, Vũ Mạnh vội dẫn các nhân viên của mình đi theo những nhóm người đang âm mưu manh động kia. Khoảng hơn chục người đã tới lều trước và đang liệng đá tới tấp. Cảnh sát phải kiên quyết giải tán họ. Vũ Mạnh gõ cửa lều vẫn đang đóng im ỉm. Cửa khoá, không nghe tiếng đáp trả, anh quyết định phá cửa.

Trong lều chỉ có con chó mực nằm rên ư ử trong một góc, tuyệt không thấy dấu vết của chủ nhân.

Anh lục soát túp lều để tìm dấu tích. Những gì anh tìm thấy không mang lại kết quả mong muốn: Hai bộ quần áo cũ rích, đồ dùng tắm giặt… Có cả chiếc xắc tay trong để ba tờ giấy 20.000 đồng và hai tờ 5.000 đồng. Nếu Y Bông bỏ trốn, hẳn bà phải mang theo tiền; trừ phi bà hoảng hốt bỏ chạy bất ngờ do quá sợ. Nhưng, trong trường hợp này, làm cách nào bà có thời gian khoá trái cửa?

Vũ Mạnh quay trở lại nhà Y Bốc. Tin tức về “mụ phù thuỷ biến mất” đã nhanh chóng lan rộng và gây nhiều nhận xét:

— Mụ đã đi theo lũ quỉ. Vậy là tốt cho mụ lắm đó!

— Đỡ mất công chúng ta ra tay.

— Thà rằng như vậy, mọi người khỏi lo lắng gì nữa.

Bỏ ngoài tai mọi nhận xét, Vũ Mạnh đến thẳng nhà Khuôn Ray, người mà anh biết đã đứng trong bóng tối giật dây mọi chuyện. Đứng trước mặt anh là một ông già ngoài 60 tuổi với mái tóc bạc trắng, vẻ mặt hiền lành. Tuy nhiên anh tấn công trực diện ngay theo kiểu đánh phủ đầu:

— Sao, ông hài lòng chưa? Chính ông đã gieo kinh hoàng cho bà con trong buôn. Chính ông chịu trách nhiệm gián tiếp về cái chết của thằng nhỏ!

Khuôn Ray bào chữa:

— Nhưng đó là sự thật. Tôi đã để ý theo dõi sự việc. Đúng y như trong sách đã từng viết…

— Câm miệng! Sách mê tín dị đoan. Những điều ông làm là hoàn toàn bất hợp pháp. Nhưng trong lúc này, điều tôi quan tâm trước hết là việc bà Y Bông bị mất tích, và ông phải trả lời hiện bà ấy đang ở đâu?

Ông già đưa tay quệt trán:

— Nếu bà ta muốn theo lũ quỉ…

— Ông còn nói nhảm một tiếng nữa, tôi sẽ bắt giữ ông về tội không nghe lệnh của người đại diện cho pháp luật. Ông ở đâu lúc con Y Bốc chết?

— Thì ngủ… ở nhà tôi, như tất cả mọi người khác. Rồi tôi thức giấc khi nghe tiếng thét của Y Bốc và chạy đến nhà anh ta…

- Ông có đến nhà bà Y Bông hay không?

— Không.

— Ông có nghe mọi người trong buôn bàn tán họ sẽ trả thù mụ phù thuỷ, họ sẽ giết chết Y Bông hay không?

— Có chớ. Nhưng tôi không đồng ý. Tôi đọc trong sách thấy viết không nên giết chết bọn phù thuỷ. Làm vậy hết sức nguy hiểm. Cần phải chống lại bọn chúng bằng các thứ vũ khí khác.

Vũ Mạnh nhìn ông già. Có vẻ ông ta thật sự không hiểu hết trách nhiệm của mình trong toàn bộ câu chuyện vừa xảy ra. Có thể ông ta chỉ là một con mọt sách đồng thời mê tín dị đoan.

Nhưng còn bà Y Bông, nạn nhân phải hứng chịu sự trả thù của buôn Lak? Phải chăng bà đã chạy trốn? Nhưng trốn đi đâu? Một cơn gió bấc chợt lùa về khiến Vũ Mạnh rùng mình. Bà ta trốn ở đâu giữa tiết trời cuối năm trở lạnh như vầy?

* * *

Thời gian lặng lẽ trôi qua và cuộc điều tra của Vũ Mạnh vẫn dậm chân tại chỗ: Không thể tìm ra dấu vết của bà Y Bông. Mặt khác, yên bình đã trở lại trong buôn Lak. Tin rằng cùng với sự biến mất của “mụ phù thuỷ”, mọi xui xẻo cuối năm cũng biến theo luôn, cư dân trở lại nếp sống bình lặng vốn có. Mặc dù đứa bé chết thảm, mọi người dường như quên hẳn sự cố đau lòng đó.

Đương nhiên đó không phải là quan điểm của Vũ Mạnh. Cáo thị tìm Y Bông đã được thông báo trong toàn vùng, nhưng không mang lại kết quả, và thời gian càng trôi đi càng dẫn đến những giả thuyết đáng tiếc nhất. Lớn tuổi, không tiền bạc, một mình một thân trốn chui trốn nhủi giữa trời đông lạnh giá, liệu Y Bông có qua được năm mới sắp tới?

28 Tết âm lịch. Bốn ngày đã trôi qua kể từ khi “mụ phù thuỷ” mất tích, Vũ Mạnh chợt nghĩ ra một điều. Tại sao mình lại không sớm nghĩ ra nhỉ? Dẫn theo hai nhân viên, anh quày quả trở lại túp lều của Y Bông.

Con chó mực! Con chó mà với dân trong buôn Lak là môt động vật của hoả ngục, có thể trở thành con vật cứu chủ! Vũ Mạnh quăng mẩu bánh mì, chờ nó ngấu nghiến ăn xong, anh đưa bộ quần áo của Y Bông cho nó ngửi, tròng một sợi dây dài vào cổ nó. Anh không phải chờ lâu: Con chó ngửi xong, nhảy cẫng lên, “hộc” một tiếng, lao ra khỏi cửa. Anh phải dùng hết sức giữ sợi dây để khỏi mất dấu con chó mực.

Vũ Mạnh và hai nhân viên theo con chó đi vòng quanh buôn, hướng đến khu đào mỏ vàng cách nay mấy năm nay đã bỏ hoang. Nơi đây đầy dãy những hầm, hố, giếng sâu. Một nơi lý tưởng để thủ tiêu mạng sống, chôn xác chết.

Và đúng vậy, con chó vừa hít ngửi, vừa kéo Vũ Mạnh tiến vào khu mỏ hoang. Con chó dừng lại trước một miệng giếng thông hơi rộng, cất tiếng sủa. Mặc dù biết chui vào miệng giếng đất đỏ gần như dốc đứng này là rất nguy hiểm, Vũ Mạnh vẫn quyết định liều thử một phen. Anh rút chiếc đèn pin và lần theo những bậc thang đào trong thành giếng làm điểm tựa, lớn tiếng gọi:

— Bà Y Bông! Bà Y Bông! Bà có ở dưới không? Tôi là bạn… Mọi chuyện đều tốt cả. Không còn nguy hiểm gì nữa đâu!

Và, dù chẳng mấy hy vọng, anh nghe có tiếng trả lời. Không, không phải tiếng trả lời mà tiếng rên, tiếng than. Phải, bà Y Bông ở đây, cố thu mình trong một hốc bên thành giếng, vừa vì sợ, vừa vì lạnh. Anh hỏi:

— Chuyện gì xảy ra với bà vậy?

Y Bông lấy hết sức, đáp:

— Tôi nghe tiếng người la hét đòi giết chết tôi… Tôi quá sợ nên bỏ nhà, cứ thế chạy thẳng ra đây.

— Nhưng bà còn kịp khoá cửa mà?

— Phải, để mọi người tin rằng tôi còn ở trong nhà. Nếu không, hẳn họ đã hè nhau rượt đuổi và bắt được tôi rồi.

* * *

Qua Tết, khi đã bình phục, bà Y Bông được Vũ Mạnh đề nghị Uỷ ban nhân dân trợ cấp ít tiền, đưa bà về lại quê bà ở huyện Giàng tỉnh kế bên, vì nghe nói ở bên đó bà còn người cháu họ. Tất nhiên bà mang theo cả con chó mực. Hy vọng tại đó bà có thể cho quạ ăn thoải mái.

Có những cách đối xử mà, với hiểu biết hạn hẹp của một số người, có thể gây nguy hiểm dẫn tới cái chết.

Phóng tác từ một truyện có thật