← Quay lại trang sách

Xưng tội trước bình minh

Tiếng chuông kêu cửa vang dội.

Bàn tay gầy guộc của linh mục Don Antonio, nhà thờ xứ Galezzano sờ soạng tìm công-tắc. Ngài dụi mắt, thở ra, nhìn đồng hồ: Mới 5 giờ 10 phút. Lễ đầu chỉ bắt đầu lúc 5g30. Ngài làm dấu thánh giá, khoác áo choàng, xỏ giầy, lau qua mặt, vuốt mái tóc bạc, chậm rãi bước ra khỏi phòng ngủ, nhẹ tay khép cửa để không làm Giulia, người quản gia, thức giấc.

Nhà thờ chỉ cách chỗ ngài nghỉ 50 bước chân, nằm hơi lùi trên con đường vắng và tối. Mặc dù chỉ cách La Mã hai dặm, ngôi làng Galezzano dân cư thưa thớt, khuất sau ngọn đồi. Linh mục Antonio ngạc nhiên khi mở cổng thấy một chiếc xe hơi lớn, đen bóng, đậu sát mé tường. Một giọng nói thận trọng từ xe hơi vang lên khi ngài tiến tới gần:

— Thưa tôi muốn gặp linh mục.

Linh mục lùi lại một bước khi xe mở cửa: Người đàn ông cao lớn, ăn mặc tề chỉnh, mặt bịt kín mít. Ngài tính la lên, nhưng người lạ bước ra hai tay không. Với giọng dịu dàng, ông ta trấn an:

— Đừng sợ. Tôi không hề có ý xấu. Tôi chỉ muốn xưng tội, ngay lập tức.

— Nhưng tại sao… mặt nạ?

— Quy định cho phép người xưng tội ngăn cách với linh mục qua cửa sắt để không bị thấy mặt. Mặt nạ để linh mục không thể nhận ra con.

Linh mục Antonio do dự trong vài giây. Vào giờ vắng vẻ này, cửa vừa đóng, kẻ lạ mặt có thể đập ngài bất tỉnh, quơ hết đồ lễ, lặng lẽ leo lên xe hơi chuồn mất… Chợt ngài nghe tiếng nấc nhẹ, và hỏi:

— Con khóc?

— Con vừa mất một người mà con rất yêu thương.

— Con chờ cha làm xong lễ đầu được không? Chúng ta phải tốn khá nhiều thời gian đấy.

— Chưa ai biết người ấy chết. Và con chỉ muốn xưng tội với cha. Nhiệm ý chọn người để xưng tội cũng là quy định.

“Bộ ông ta biết mình hay sao?” Antonio thầm nghĩ. Giọng dịu dàng, nhưng quả quyết và rõ ràng nghe quen quen. Ngài quyết định:

— Thôi được. Vô đi. Phòng xưng tội phía bên trái.

* * *

— Giờ con hãy nói. Ta nghe con.

Có tiếng thở dài phía bên kia cửa sắt:

— Thưa cha, con buộc tội mình đã có ý định giết một người, rất lớn tuổi, mà con từng phục vụ.

— Tuổi tác không thành vấn đề. Nhưng con chỉ có ý định thôi sao? Không có hành động nào khác chớ?

— Có. Ông ấy bệnh, bệnh rất nặng. Con đưa ông ấy chén thuốc độc.

— Và ông ấy chết?

— Vâng. Nhưng con không rõ ông ấy có uống chén thuốc đó hay không.

— Nếu vậy tại sao ông ấy chết?

— Do chứng huyết tắc, theo bác sĩ.

— Và con thật sự không rõ ông ấy có uống chén thuốc hay không?

— Không. Con sẽ không bao giờ biết. Con thấy chén hết thuốc. Bác sĩ nói ổng đã đổ thuốc vô bồn rửa chén. Ổng cần chén để pha gấp cho người bệnh thứ thuốc mới.

— Vậy còn gì nữa không?

— Con không rõ bác sĩ có nói thật hay không, thưa cha, kể cả chứng huyết tắc.

— Nghĩa là có thể bác sĩ thấy chén thuốc độc đã được uống hết và nói khác đi? Tại sao?

— Do thương hại con, để con tin rằng con không giết chết ông ấy.

— Bác sĩ biết đó là thuốc độc?

— Con nghĩ vậy.

— Lạ thật… Nếu con muốn biết cha nghĩ sao, cha nghĩ người bệnh đã uống thuốc của con. Vì nếu không, bác sĩ chỉ việc để nguyên chén thuốc đừng đổ đi.

— Con cũng nghĩ thế, thưa cha. Nhưng, cũng rất có thể bác sĩ nói thật, vì chén thuốc còn nguyên có thể gây scandal.

— Dù cách nào, viên bác sĩ cũng là đồng loã với con.

— Xin lỗi, thưa cha, còn có cách giải thích thứ ba: tất cả chỉ là giả thuyết của riêng con. Bác sĩ có thể không hề nghi ngờ chút nào… Vả chăng, điều này có quan trọng gì không, thưa cha?

— Không, con ạ. Con có lý. Trước Chúa, tội ác đã phạm; ý tưởng là đủ. Hãy gác qua một bên chứng huyết tắc, dù có hay không. Cảnh sát sẽ lo việc này. Nhân đây… có ai tỏ ra nghi ngờ vụ đầu độc không?

— Không. Không một ai.

— Cha nhắc con tuyệt đối không bị buộc phải xưng tội nếu không ai gặp nguy cơ chịu tội thay cho con.

— Con xin thề, không hề có bất cứ nghi ngờ nào.

— Như vậy cha có thể đánh giá sự nghiêm trọng của tội ác mà những dấu vết còn để lại trong tâm hồn con. Con đã giết, hoặc muốn giết, một người, bị bệnh, vốn là ông chủ của con?

— Vâng.

— Vậy con ghét ông ta, vì sao?

— Con không ghét ông ta.

— Tại sao con lại muốn giết ông ta?

— Bởi vì cần phải làm vậy. Tuyệt đối cần, thưa cha. Hãy tin con. Đó là bổn phận của con.

Don Antonio bất giác lùi lại một bước, nghĩ “Đây là một người điên! Hẳn ông ta vừa phạm một tội chính trị, rất ghê gớm. Nhưng không, những kẻ cuồng tín không nói tốt về kẻ thù của mình.” Linh mục trấn tĩnh lại, thận trọng:

— Cha tin con. Nhưng tại sao ông chủ của con lại phải chết?

— Để mang lại điều tốt lành và bình an cho nhiều người.

Và người lạ mặt kể toàn bộ câu chuyện:

“Đã 11 năm nay, con là thơ ký cho một nhân vật cao cấp của một tu viện. Trước đó hơn 10 năm, con từng làm công việc này cho người tiền nhiệm của ông ta đã quá cố… Ông ta rất tốt, mọi người đều tín nhiệm nơi ông. Nhưng rồi cách nay hơn một năm, ông lâm bệnh. Trên cử bác sĩ tới, bác sĩ khuyên ông cần nghỉ ngơi, do ông làm việc quá sức. Nhưng ông không chịu nghỉ mà cứ rán sức… rồi ông mất ngủ, đổi tính, hay cáu gắt, khác hẳn trước, thậm chí có biểu hiện bị bệnh tâm thần. Tuy thỉnh thoảng giữa các cơn khủng hoảng, ông vẫn minh mẫn, dễ thương và chúng con đều kính mến ông, nhưng những khoảnh khắc này ngày càng hiếm. Con chăm sóc ông tận tình, vẫn như hồi nào tới giờ, bác sĩ thấy vậy nói riêng với con: ‘Hoặc ngài sẽ chết từ từ, từng chút, rất chậm và càng về sau, ngài càng phải chịu những cơn đau khủng khiếp; hoặc chết đột ngột, nhưng không bao giờ có thể bình phục. Cầu Chúa sớm gọi ngài!’. Và bác sĩ đưa con một lọ thuốc, dặn: ‘Đây là một thứ thuốc trị bệnh ngài, nhưng nhớ đừng quá 10 giọt, có thể gây chết người đấy.’ Vậy là con pha nguyên một muỗng cà-phê… Xong con định đến nhà nguyện, nhưng con quá mệt sau hai ngày không ngủ, con gục xuống, thiếp đi và chỉ tỉnh dậy khi nghe gọi và có tiếng bác sĩ ‘Mọi việc đã kết thúc.’ Con ngây ngô hỏi: ‘Ông ấy có uống chén thuốc không?’ Bác sĩ đáp: ‘Không, tôi đã đổ chén thuốc vào bồn rửa chén, do không thấy ly để pha thuốc…’ Con không nghe rõ tên thuốc vì đầu óc còn đang mụ mẫm. Bác sĩ lay vai con, cho con uống hớp rượu, ra lệnh cho con về phòng nghỉ một lát. Nhưng con lấy xe hơi chạy tới đây”.

Linh mục Antonio nghe xong, nói để ông suy nghĩ trong giây lát. Có tiếng xôn xao phía ngoài. Hẳn trời đã rạng sáng và mọi người đang chờ ngài làm lễ đầu. Ngài ôm đầu khoảng vài phút, rồi từ tốn:

— Đêm qua con đã phạm tội hai lần. Lần đầu là tội giết người. Trước Chúa, việc người ấy có uống thuốc độc hay không là không quan trọng. Người phán đoán qua ý định, chớ không phải qua kết quả. Lần thứ nhì con phạm tội do kiêu ngạo. Chỉ Chúa mới làm chủ cái chết. Khi con người kiêu ngạo cho mình quyền giết người, dù nhân danh pháp luật, công bằng hay tự vệ, vẫn là phạm thánh.

Người sau song sắt thì thầm:

— Con điên mất rồi. Mong cha giải tội cho con.

— Con hãy đọc kinh hối lỗi, rồi đi ra theo cửa sau. Đến cửa con nhớ lột mặt nạ ra để không bị ai chú ý.

* * *

Chờ nghe tiếng xe hơi chạy xa dần, linh mục Antonio mới mở cổng. Giulia chạy vội tới, vẻ xúc động:

— Thưa cha, vừa có tin buồn gây chấn động, cha đã biết chưa?

— Vậy sao?

— Đức Giáo hoàng vừa từ trần, khi hôm, do chứng huyết tắc.

Phóng tác từ “Cofession à l’aube” của Jean Bommart