Chương 7
Liên Chi về làm dâu nhà họ Vũ vào một ngày đẹp hạ tuần tháng chín. Thời tiết thuận lợi cho các cuộc hôn nhân vì lúa đã chín, sắp gặt. Mùa hè còn nán lại, mùa thu chưa bắt đầu.
Cả hai họ đều hân hoan chúc mừng sự kết hợp một lần nữa giữa hai nhà. Vợ chồng Lãng tỏ vẻ vui mừng đặc biệt. Mai có thai, bụng đã lớn, chị đã bắt đầu thấy đói bụng luôn, nhưng chứng đau tim đã bớt. Khi đón dâu, trông chị thật đẹp và đầy tràn hạnh phúc.
Để làm hài lòng con, hai bà mẹ đã quyết định không theo thói tục xưa, với một sự long trọng kéo dài như hồi đám cưới Lãng và Mai. Ba ngày lễ, như thế cũng đã quá lâu đối với Phan và Liên Chi là những người vốn thiếu kiên nhẫn. Họ ước ao một cuộc hôn lễ mau chóng, theo lối tân thời, một lời thề hứa trao duyên trước những người già cả, thế là đủ.
Mọi sự đã xảy ra như vậy, và để đền bù cho những người trong thành đã thất vọng vì chờ đợi yến tiệc mà không có, bà Vũ phải thuê một tửu quán trong ba ngày. Như thế tránh được sự bận rộn vì người đông, chật nhà.
Chiều hôm cưới, bà Vũ tuyên bố:
- Theo cách tân thời cũng có nhiều cái hay.
Một lần nữa, các người đàn ông tụ họp tại hoa viên ông Vũ và đàn bà ở hoa viên bà Vũ. Người ta dọn cho các bà nhiều thứ bánh mứt, và cho các ông nhiều thứ thịt nhắm rượu. Phan và Liên Chi đã rút lui về phòng riêng. May mắn, tháng trước có một người bà con chết, để trống hai phòng, nên bà Vũ đã cho sửa sang, quét dọn cho đôi tân hôn.
Bà Vũ nói: "Gì chứ đồ đạc chắc sẽ không hư hỏng và nền nhà sẽ không ghê tởm như sau đám cưới của anh Lãng".
Chiều hôm ấy bà cảm thấy sung sướng như mỗi lần một người trong nhà được xây dựng. Sự tự do của bà càng tăng thêm. Trong suốt một tuần lễ, Phan nghỉ học và thầy An-Rê cũng không đến nữa. Bà Vũ cũng không đả động gì. Thì giờ của xác thịt đã đến. Bà không còn lo sợ uy quyền của thầy nữa. Thầy đến hay không cũng không quan hệ. Bà đã cứu Phan cho gia đình.
Những chiếc đèn lồng chiếu sáng hoa viên, quyến rũ loài bướm ra khỏi bóng tối. nhiều con chỉ là những con vật xám nhỏ, đáng thương, những chùm lông măng đầy phấn. Nhưng thỉnh thoảng một chú bướm đêm lớn bay chập chờn với những chiếc cánh xanh, đen và vàng. Các bà reo lên và mãi cho đến khi bắt được chúng, găm chúng vào cửa với những chiếc găm, để có thể vừa ngồi ngắm vừa thưởng thức bánh ngọt.
Bà cụ Cố khoái chí vỗ tay, cụ thích cái trò vui ấy hơn hết.
Thu Minh đi vào hoa viên khi người ta bắt được con bướm. Bà Vũ trông thấy nàng ngay như mỗi khi nàng đến, và cũng như mọi lần, bà không ra hiệu gì cho nàng. Ngày lại ngày, người thiếu phụ đã giữ được địa vị trong nhà với một thái độ dè dặt, thinh lặng. Trước mặt bà Vũ không ai nói đến nàng, xấu cũng như tốt. Nhưng bà Vũ luôn luôn ý thức được sự có mặt của nàng. Đôi lúc đêm khuya thức giấc, bà Vũ tự hỏi… rồi bà gạt ngay ý nghĩ đó đi.
Bà thấy Thu Minh đi vào. Người thiếu phụ có vẻ gầy và hơi xanh, nhưng dáng điệu thanh nhã và đẹp hơn trước.
"Ta phải hỏi thăm nàng" - bà Vũ tự nhủ và thầm trách mình. "Sau hôn lễ, ta sẽ tìm nàng."
Rồi như mọi lần, bà xua đuổi hình ảnh Thu Minh ra khỏi tư tưởng. Người thiếu phụ im lặng rót trà nóng cho quan khách. Nàng đã im lặng tham gia cuộc lễ, chăm nom các bàn tiệc, săn sóc các đứa trẻ, và những công việc nhỏ nhặt tương tự mà không có vẻ lên mặt chút nào.
Thỉnh thoảng người ta gọi nàng:
- Bà hai ơi! Xin bà nghỉ đi.
Và bao giờ Thu Minh cũng một mực đáp:
- Không sao ạ. Tôi làm việc này một lát thôi ạ.
Nàng nhập bọn với các người đàn bà khác để xem con bướm mới. Con bướm mới màu vàng kem, giống màu da trái phật thủ. Hai cái vòi đen của nó run rẩy khi bị đâm xuyên qua mình. Đôi cánh rộng của nó đập mạnh, những chấm vàng đậm và lạt trên cánh hiện ra một lúc. Rồi con vật khốn nạn im lìm.
- Nó chết mau quá nhỉ! Thu Minh đột ngột nói.
Nghe thế, mọi người đều quay lại và nàng thụt lùi dường như chỉ chính nàng ngạc nhiên về điều ấy, đồng thời nàng mỉm cười nửa đau thương, nửa sợ hãi. Khi mọi người đã ngồi xuống lại, Thu Minh len lỏi sau lưng các bà khách, đến cạnh bà Vũ và đưa tay sờ cái chén bà đang cầm.
- Trà đã nguội. Để em pha thêm cho nóng.
- Cám ơn, bà Vũ ngồi yên đáp, trong lúc Thu Minh nghiêng mình rót nước cho đầy chén.
Từ người nàng xông ra mùi thơm của gỗ đàn hương. Bà Vũ ngắm khuôn mặt cùng dáng điệu khiêm tốn của nàng.
- Thưa chị cả, nàng nói rất nhỏ. Chiều nay em muốn nói chuyện với chị được không ạ.
- Được lắm chứ.
Bà không biết nói gỉ hơn, mà biết trả lời gì khác? Nhưng tất cả sự vui vẻ của bà đã biến mất. Một sự buồn phiền nào đã rũ bóng xuống bà, bà uống từng ngụm trà nhỏ và thinh lặng cho đến khi khách khứa ra về.
Ngoài Giang ra, chỉ còn một mình Thu Minh ở lại. Bà bảo:
- Giang, đi đi. Chốc nữa hãy trở lại.
Bà không muốn Thu Minh vào nhà. Khí trời ngoài hoa viên mát mẻ và yên lặng. Những đóa lan thắm nở muộn, phô sắc dưới ánh đèn. Hôm nay Mai mang các gương sen đầu mùa đến. Hạt sen trắng không hương và có vị ngọt dịu.
Sau khi quan khách đã ra về; bà Vũ ngồi xuống và đưa tay cầm một gương sen lớn. Thu Minh có vẻ tần ngần, ủ rủ.
- Mời dì ngồi. Tôi rất thích những hạt sen này. Chúng ta vừa nói chuyện, vừa thưởng thức.
- Cám ơn, em không thích ạ.
Thế thì tôi vừa ăn vừa nghe dì nói.
Đôi tay mảnh dẻ của bà Vũ xé rách cách gương sen. Tay bà xem ra yếu đuối, nhưng có sức mạnh. Gương sen bền chắc, nhiều thớ, tuy nhiên đã nhượng bộ trước sức ép của các ngón tay bà. Bà ấn rời một hạt trong đám hạt sát nhau. Răng của bà nhỏ, ngày nay vẫn tốt như lúc mới mọc, nhờ nó, bà cắn rách lớp vỏ xanh bọc cái nhân trắng.
Thu Minh:
- Chị để em bóc vỏ cho.
Bà không muốn tay Thu Minh đụng vào cái nhân bà bỏ vào miệng, nên bà nói:
- Thôi, cám ơn. Tôi bóc tài lắm.
Dường như Thu Minh cảm thấy có một thứ gì khác lạ trong câu nói, nên nàng không nói gì thêm.
Thu Minh nhìn bà Vũ trong lúc bà bóc vỏ hạt sen và nhai cái nhân trắng, rào rạo. Cả hai đều lặng thinh. Rồi đột nhiên như cơn đói đã dứt, bà Vũ ném xuống nền nhà chiếc gương sen rỗng và hỏi:
- Dì có mang à?
Bà dùng tiếng thông thường của người đàn bà hạ lưu.
- Tôi có hạnh phúc trong tôi. Thu Minh nhìn bà và nói. Nàng cố dùng lời lẽ để diễn đạt tư tưởng như một bà quý tộc khi có một quý tử sắp chào đời.
Bà Vũ không sửa câu nói của mình, cũng như những lời Thu Minh đã nói. Vẫn với một giọng rõ ràng và vắn tắt, bà nói:
- Mau quá nhỉ!
Thu Minh không đáp, nàng vẫn ngồi cúi đầu. Hai tay nàng rời nhau trên gối, lòng bàn tay mở ra, ngón tay bất động.
Bà Vũ tiếp, giọng sắc bén:
- Hẳn là ông ta thỏa mãn.
Thu Minh nhìn bà với đôi mắt to, chân thật.
- Ông ấy chưa biết gì cả.
- Sao lạ thế?
Bà cảm thấy giận Thu Minh và cảm thấy lạ vì sự giận dỗi của mình. Bà đã đem nàng về nhà với một ý định rõ rệt và cô ta đã làm tròn bổn phận. Tại sao lại trách cô ta? Nhưng sự giận dữ vẫn âm ỉ bên trong bà Vũ như một con rắn xanh nhỏ, đầu tiên nó quấn tròn lại phóng mình ra và gieo nọc trên chính lưỡi của nó.
- Các cô vợ lẽ thường vội vã báo tin ấy cho chồng, sao dì lại không làm như họ?
Đôi mắt Thu Minh đầy lệ. Dưới ánh sáng của cây đèn lồng vẽ hoa, bà thấy những ngấn lệ long lanh.
- Em muốn nói với chị, nàng nói rất nhỏ. Em tưởng điều đó sẽ làm chị vui lòng, nhưng chị lại tức giận… Em chỉ muốn tự tử đi cho rồi.
Câu nói tuyệt vọng ấy đã làm bà Vũ trở về với bà. Trong các nhà thế gia, những người vợ trẻ thường hay thắt cổ, nuốt nhẫn hay thuốc phiện sống; và bao giở người ta cũng xem đó là một sự xấu hổ cho gia đình.
- Dì nói vô lý. Tại sao lại muốn chết đi khi dì chỉ làm bổn phận của dì?
- Em tự nhủ, nếu chị sung sướng vì điều ấy thì em cũng có thể sung sướng. Và người thiếu phụ nói tiếp với một giọng sầu khổ. Em hy vọng sưởi ấm đôi tay ở nhà chị, nhưng bây giờ em biết sưởi ấm mình em nơi đâu!
Bà Vũ bắt đầu lo sợ, Thu Minh là một cô gái quê tầm thường nên tiếp nhận những dấu hiệu của sự thai nghén như một con vật là điều tự nhiên. Con bò cái không nghĩ đến bò đực, nhưng nghĩ đến bò con. Nếu có bao giờ bà Vũ đoái nghĩ đến đời sống của Thu Minh, là để tự bảo rằng cô bé ấy sẽ được đền đáp thỏa mãn vì có một đứa con.
- Bây giờ có việc gì? Cô không hài lòng chính mình cô sao? Cô có một đồ chơi, một đứa bé mỉm cười với cô, một vật nhỏ riêng của cô mà cô phải săn sóc. Nếu là một đứa con trai, thì địa vị cô trong nhà sẽ giá trị hơn. Nhưng nếu là con gái thì tôi hứa, không vì thế mà tôi quở trách cô. Trong nhà tôi, tôi xem con trai cũng như con gái. Và khi con gái tôi chết đi, lúc nó chưa biết nói, tôi cũng đã khóc như một đứa con trai vậy.
Thu Minh không trả lời. Nàng chỉ lắng nghe, buồn rầu nhìn bà Vũ.
Cô tự hủy mình cô là không phải cách. Hãy trở về, lên giường nằm và nếu ông có đến thì hãy bảo là có tin mừng.
Bà nói một cách tự nhiên để đem lại lòng can đảm cho người thiếu phụ, nhưng trong đáy lòng bà cảm thấy tuyết sương và giá lạnh từ các đỉnh núi rải xuống trên bà. Bà ao ước được ở một mình nên đứng dậy. Nhưng Thu Minh chạy tới nắm lấy áo bà, cầu khẩn:
- Xin bà cho em ở đây tối nay. Xin bà cho em ngủ ở đây như lúc em mới đến. Rồi bà sẽ thay em báo tin cho ông biết. Nhờ bà xin ông – xin ông để cho em được yên ổn…
Lần này bà Vũ khiếp sợ thật.
- Cô mất trí rồi, bà nghiêm khắc nói. Cô hãy nhớ lại cô là ai? Cô đến đây không cha không mẹ, cô là một đứa con rơi mà một mụ nhà quê đã lượm được ngoài đường. Cô góa bụa, mặc dầu chưa có chồng. Ngày nay cô là người thứ nhất sau tôi trong gia đình này, giàu nhất trong trong thành, một gia đình mà ai trong vùng này cũng muốn đưa con gái vào. Áo quần cô bằng lụa, hoa tai bằng ngọc, và nhẫn bằng vàng. Cô không thể nào trở lại đây với tôi được. Vì tôi không biết giải thích làm sao với mọi người trong nhà. Cô trở ngay về phòng, là chỗ ở của cô, vì người ta mua cô về để ở chỗ đó.
Thu Minh buông áo bà Vũ. Nàng đứng dậy và lùi từng bước ra cửa lớn. Đột nhiên sự rắn rỏi của bà Vũ nhượng bộ trước vẻ mặt thất vọng ấy.
Bà đổi giọng, nhẹ nhàng nói:
- Em ạ, hãy trở về đi. Đừng sợ. Đàn bà trẻ thường hay khiếp sợ, khi có đứa con đầu lòng thì chỉ muốn cự tuyệt. Chị không ngờ em sinh trưởng ở nhà quê mà cũng như vậy. Em hãy ngủ sớm đi, và nếu ông vào thì đừng dậy. Chị biết, nếu em không thuận thì ông sẽ để em ngủ yên. Về điểm ấy ông khá biết điều. Ai biết ông cho bằng chị? Sao lại sợ ông ta? Thôi em cứ yên tâm, mai chị sẽ tin cho ông biết. Chị cũng đành…
Dường như sự khoan hồng ấy đã làm cho Thu Minh can đảm lại, nàng lí nhí cám ơn và lẻn ra ngoài. Bà Vũ lần lượt tắt hết các đèn lồng, cho đến khi hoa viên đắm chìm trong bóng tối. Bà vào phòng, rất mệt. Giang vào sửa soạn cho bà đi ngủ mà không nói lời nào. Chị không bao giờ dám nói chuyện với chủ khi thấy vẻ mặt bà buồn bã và lạnh lùng như vậy.
Giang buông màn trùm lấy tấm thân lặng lẽ của bà Vũ, và sẽ trở về các gian nhà rộn ràng của gia nhân. Ở đó, đàn ông đàn bà và trẻ con đang ăn uống các thức ăn thừa của ngày lễ. Giang là người thích ăn ngon. Chị gắp thịt đầy chén, ngồi ở ngưỡng cửa, vừa nhai tỏm tẻm vừa lắng nghe những chuyện ba hoa của đám nô bộc. Chị ở trên tất cả bọn chúng, ngoại trừ Phê, anh tớ trai hầu ông chủ. Chính Phê cũng đang ngồi ăn. Cái mặt bự của hắn lóng lánh mồ hôi. Con gái hắn khoảng chừng ba tuổi, đang ngồi trên gối hắn. Mỗi lần hắn ngừng ăn để thở, con bé lại há miệng gào to. Hắn liền đặt chén sát vào miệng đứa trẻ, lấy đũa và cơm cho nó.
- Phê!
Trong ánh sáng lờ mờ, một người đàn bà cất tiếng gọi, và vừa cười, vừa bô bô nói:
- Phê, ông chủ tối nào cũng ngủ bên nhà bà hai chứ?
- Phải, sáng nào tôi cũng mang nước đến đó.
Cũng tiếng gọi ấy gọi Giang và bô bô nói:
- Còn bên nhà bà cả sao Giang?
Nhưng Giang không thèm trả lời. Chị và chén cơm đổ nước trong vò ra chén, súc miệng và nhổ toẹt về phía bóng tối đã phát ra tiếng nói trên.
Thấy thế, mọi người đều tản mát đi, ai cũng sợ chị Giang cả. Trong nhà này, chị ở gần ngai vàng quá.
Bà Vũ thức dậy lúc rạng đông. Một sức nặng đè lên mình bà, làm bà ngột thở và giãy dụa mãi. Suốt đêm, bà chập chờn không an giấc. Sống ở trung tâm gia đình, có những đêm bà ý thức về mọi người trong nhà như linh hồn ý thức về thể xác. Bây giờ các việc đã qua lại trở về trong trí bà. Bà nghĩ đến đêm tân hôn của Phan. Tất cả các đêm động phòng hoa chúc đều đáng lo âu. Hai đứa trẻ ấy có hợp nhau không? Sự việc đã xẩy ra lành hay dữ? Chỉ khi nào gặp chúng bà mới biết được. Nhưng bà không thể tìm gặp chúng sớm. Bà sẽ biết rõ khi cuộc sống đã trở về với nhịp điệu bình thường và khi gặp lúc thuận tiện.
Bà Vũ thở dài nhớ lại lời hứa với Thu Minh, điều đã làm nặng lòng bà và bà rất muốn thoái thác. Nhưng sao lại thoái thác? Chắc suốt đêm người thiếu phụ ấy đã bám víu vào lời hứa của bà như một nguồn hy vọng. Nhưng chuyện này chưa xong, một chuyện khác lại xảy đến. Vừa thấy chủ thức dậy, Giang liền bước vào thưa:
- Thưa bà, bà Cố bệnh rồi. Cố quả quyết là Cố đã nuốt một con gián trong bữa tiệc hôm qua, và bây giờ nó bò lúc nhúc trong ruột Cố. Cố cảm thấy nó lớn như một con chuột, nó nằm trên gan và cào trái tim Cố. Chắc không phải là gián. Chồng của con, mặc dầu có nhiều khuyết điểm, cũng không lẽ lại sơ suất đến thế!
- Trời ơi! Bà Vũ lẩm bẩm kêu.
Nhưng bà là người có trách nhiệm trước hết, nên bà cùng Giang vội vã sang hoa viên bà cụ Cố. Bà cụ đang nằm kê đầu trên gối. Cụ quay về phía con dâu, đôi đồng tử mờ đục trong hố mắt sâu.
Cụ nói với bà Vũ, giọng yếu đuối:
- Làm gì cho bà thì làm gấp đi! Bà sắp chết rồi đây!
Tình trạng này làm bà Vũ khiếp sợ. Hôm qua cụ vui như một cô bé ranh mãnh, khoe đã thắng cuộc chơi mạt chược và đã ăn rất khỏe. Bà Vũ hỏi người tớ gái:
- Sao không đến báo tôi sớm hơn?
- Thưa bà, mới chưa đầy một giờ mà Cố đã trở nên xanh nhợt như thế đấy. Chị ta nói để bào chữa cho mình.
- Cố có mửa không? Cố có đỡ không?
- Ba lần có thai, bà mửa cũng đã vừa rồi! Bà cụ thều thào. Bây giờ, bao nhiêu ruột gan bà đã xổ cả trong cái bô. Con ạ, con hãy làm cho bụng mẹ đầy lại. Trong bụng mẹ bây giờ chỉ độc có hơi và nước.
- Cố có ăn được không?
- Phải là cho bà đầy bụng với bất cứ thứ gì, bà cụ nói với một giọng yếu đuối nhưng cương quyết.
Nghe thế, bà Vũ trấn tĩnh lại. Bả bảo nấu cháo lòng, và chính tay bà nghiền một củ gừng tươi, rất cay, rồi trộn vào cháo đút cho cụ.
Một lần ngã bệnh, bà cụ trông rất thương tâm. Cái miệng già, tàn héo của cụ trở nên ngây thơ và yếu đuối như miệng một đứa trẻ. Bà Vũ nhìn cụ nuốt từng muỗng cháo một, miệng cụ không còn cái răng nào, hàng lợi màu hồng và sạch sẽ. Biết bao lời đã thốt ra bởi cái lưỡi màu hồng ấy, bây giờ nó khô và nhăn nheo làm sao!
Tính bà cụ Cố nóng nảy, khi nổi giận cụ lăng mạ tất cả mọi người. Chiếc lưỡi ấy là khí giới của cụ. Cụ ông sợ cụ. Nhưng chắc ông Vũ đã nghe bằng những lời lẽ khác, vì bao giờ ông cũng là tất cả của cụ. Ông đã học ở cụ nhiều bài ca hồi còn thơ ấu, và đã từng thấy nụ cười tươi của cái miệng ngày nay đã già nua ấy.
Bà cụ Cố nói sau một tiếng thở dài:
- Bà đã thấy đỡ hơn. Bà chỉ cần được ăn uống luôn luôn. Đến tuổi bà thể xác không còn sức dẻo dai nữa. Sự sống trở thành như ngọn lửa rơm, nó chỉ cháy khi người ta nuôi dưỡng.
- Mẹ hãy ngủ một chút cho khỏe.
Nghe nói thế, đôi mắt bà cụ mở ra với một vẻ linh hoạt mới.
- Sao con lại cứ bảo mẹ ngủ? Mẹ sắp ngủ thẳng rồi đây!
Người con dâu cảm động thấy hai hàng lệ trào ra phủ mờ đôi mắt bà mẹ chồng. Bà cụ khóc, thều thào:
- Con này, con có tin một đời sống sau đời sống này không?
Bà cụ đưa bàn tay giống như những cái vuốt nhọn cấu vào bàn tay bà Vũ. Những cái vuốt nóng bỏng vì cơn sốt. Đã đứng dậy, bà Vũ lại ngồi xuống. Suốt đời bà cụ chỉ là một cái máy khoái lạc. Nói tóm lại, cụ rất sung sướng gạt ra ngoài những gì cụ không hiểu. Giàu sang, ăn mặc sung sướng, có uy quyền trong cái gia đình to lớn này, cụ còn thiếu gì nữa. Nhưng chỉ sống vì xác thịt, cụ hoảng sợ khi thấy xác thịt ấy héo tàn. Và khi thể xác cụ hư nát, cụ sẽ đi đâu?
Bà Vũ lựa lời đáp:
- Con hy vọng có một đời sống khác với đời này.
Bà có thể phỉnh bà cụ như một đứa trẻ, nhưng không thể được: bà cụ không phải là một đứa trẻ, mà là một bà già sắp chết.
- Con có tin mẹ sẽ sống lại với một thể xác khác như lời các thầy sư thuyết pháp trong các chùa không?
Không bao giờ bà cụ Cố nói đến những điều ấy. Bà Vũ tự tìm một câu trả lời chính xác. Nhưng nào ai có thể trả lời hộ cho bà được? Cuối cùng bà nói:
- Thưa mẹ, con không biết, nhưng con tin sự sống không bao giờ mất.
Rồi bà làm thinh. Bà không muốn nói thêm rằng, bà tin tưởng những người nào chỉ sống vì thể xác, sẽ mất theo thể xác. Bà có thể tưởng tượng thấy An-Rê: sống mà không có thể xác bao bọc, nhưng bà cụ thì không.
Bà cụ ngủ thiếp đi, mặc dầu cụ muốn thức. Đôi mi mắt cụ sụp xuống, nhăn nheo như mi mắt một con chim già. Cụ thở rất dài hơn. Bàn tay gầy gò của cụ rời khỏi bàn tay dịu dàng của người con dâu.
Bà Vũ lui ra, khẽ nói với người tớ gái:
- Lần này cụ sẽ bình phục, nhưng đồ gì ngon thì giữ đừng để cụ thấy mà thèm.
Người tớ gái trả lời rất nhỏ để thanh minh:
- Tính Cố chướng lắm, con không muốn làm Cố nổi giận…
Bà Vũ nghiêm mặt nói:
- Mày phải vâng lời bà.
Khi đến hoa viên ông Vũ, bà tự nhủ, đôi khi hoạn nạn lại là điều hay, vì cơn bịnh của bà cụ Cố làm cho bà có cớ để đến tìm ông ngoài cái lý do thực. Bà đã sai Giang đi tin cho ông biết trước. Ở cửa hoa viên, bà gặp Giang đợi bà để thưa bà rõ, ông Vũ vừa mới về, ông mời bà ngồi trong lúc ông thay quần áo.
Bà đợi ông ở ngôi nhà quen thuộc này, nơi bà đã từng sống trong bao năm. Những khóm mẫu đơn mới trồng, mọc một cách tươi tốt. Mùa hoa đã mãn, những cánh hoa rụng xuống, những lá cây dày và sẩm hơn. Trong hồ, người ta đã trồng củ sen và những đóa hoa sen màu đỏ thắm nằm mở ra trên mặt nước. Giữa mỗi đóa hoa, vòng nhị già rung rinh, bao phủ một lớp phấn vàng. Hương hoa thơm ngát, bà Vũ lấy khăn tay phẩy trước mặt vì hương hoa quá nồng.
Bà Vũ đi ngang qua hoa viên và vào trong phòng chính. Đồ đạc vẫn y nguyên, nhưng người ta mới thêm một vài đồ vật, nhiều chậu hoa và quá nhiều tranh ảnh ngoại quốc đóng khung treo trên tường. Không vật nào được sạch sẽ như hồi bà còn ở đấy. Bà tức bực thấy bụi đóng dưới các ghế bành và trong các góc phòng. Bà đứng dậy và bước tới những cánh cửa chạm, lớn, nặng nề, những khung lưới mắc võng đã mở rộng, Bà nhìn sang phía bên kia.
Ông Vũ vừa đi vào, vừa cài cúc chiếc áo cụt bằng lụa xám. Ông vui vẻ hỏi bà:
- Mình thấy gì sau cánh cửa ấy phải không?
- Có. Thấy bụi. Tôi phải bảo anh quản lý mới được. Cần phải quét lại cả phòng.
Ông Vũ nhìn quanh như mới thấy căn phòng này lần đầu tiên vậy. Ông nói:
- Mình nói phải…
Và lát sau, ông lại tiếp:
- Căn phòng này cần đến mình.
Ông nói một cách vui vẻ với một nụ cười trêu chọc. Bà Vũ vẫn giữ vẻ nghiêm nghị và thinh lặng.
Cả hai ngồi xuống. Bà nhìn trộm chồng. Ông có vẻ béo tốt và những đường nhăn quanh miệng đã lấy lại vẻ vui tươi. Đó chính là điều bà mong ước, bà kiếm tìm. Vậy tại sao bà lại cảm thấy cái ước muốn độc ác là làm cho ông phải tổn thương?
- Mẹ đau rồi, bà đột ngột nói. Mình đã đến thăm mẹ chưa?
Ông không cười nữa.
- Bậy quá! Lẽ ra tôi đã đến thăm mẹ hồi sáng sớm nhưng cứ bận việc này việc khác, thành ra…
- Mẹ đau nặng.
- Mình không muốn nói là…
- Lần này thì chưa, nhưng ngày lâm chung cũng không còn xa nữa. Mẹ đã bắt đầu lo chuyện chết, mẹ hỏi tôi có tin một đời sống khác sau đời sống này hay không. Những câu hỏi như vậy chứng tỏ thể xác đã bắt đầu chết và linh hồn lo sợ.
- Mình trả lời thế nào? Ông Vũ hỏi, vẻ quan trọng.
- Tôi đã nói rằng tôi hy vọng có. Nhưng làm sao tôi có thể biết được?
Đột nhiên, ông nổi giận một cách vô cớ. Ông kêu lên:
- Ồ, mình độc ác quá? Sao mình lại tỏ sự hồ nghi của mình cho một bà lão!
Ông mở nút, vạch áo cụt ra để lộ cái cổ mập mạp. Ông rút quạt, quạt phành phạch.
- Nếu mẹ hỏi mình, mình sẽ trả lời sao?
- Tôi sẽ trấn an mẹ. Tôi sẽ bảo rằng dưới suối vàng chỉ có hạnh phúc. Tôi sẽ nói…
- À, thế thì mình nên thân đến nói với mẹ là tốt hơn cả.
Trong những lúc bà giận, bà không bao giờ lên giọng, nhưng cái giọng ấy tuôn ra lanh lảnh và có vẻ cay chua.
Ông Vũ bĩu môi.
- Được rồi, tôi sẽ nói với mẹ như thế.
Cả hai cùng thinh lặng, mỗi người cố tìm lại bình tĩnh của mình. Bà ngồi bất động, hai tay đặt trên gối, đầu nghiêng nghiêng trên chiếc cổ thanh tú. Ông ngồi một cách vững vàng, tay không ngừng phe phẩy cái quạt. Họ cùng ngạc nhiên vì vô cớ đã giận nhau.
Bà nói trước:
- Tôi có việc khác cần tin cho mình biết.
- Việc gì thế?
Bà vẫn giữ nguyên sự thật tầm thường:
- Chiều hôm qua Thu Minh đến tìm tôi để nhờ tôi tin cho mình biết cô ta đã có mang.
Một lần nữa, bà Vũ lại dùng tiếng bình dân. Bà không ngẩng nhìn chồng, và vẫn ngồi bất động duyên dáng.
Bà nghe tiếng chiếc quạt rơi, siết trên thân áo lụa. Ông Vũ lặng thinh rất lâu, đến nỗi bà phải ngước mắt nhìn chồng. Ông đăm đăm nhìn bà, mỉm cười với một nụ cười vừa diễu cợt vừa thẹn thùng, đồng thời đưa tay vuốt tóc với cái dáng điệu mà bà biết rất rõ, nó diễn tả một nỗi vui mừng pha lẫn ngượng ngùng và thỏa mãn.
Khi ông Vũ bắt gặp nét nhìn của vợ, ông bật cười.
- Hãy mắng nhiếc tôi đi, hãy nguyền rủa tôi đi! Tôi là một người vô liêm sỉ… Nhưng mẹ nó ạ, chỉ vì tôi vâng lời mình, không hơn không kém…
- Mình đừng có làm ra vẻ không bằng lòng. Mình biết rõ, mình hãnh diện lắm.
- Than ôi! Tôi quá mạnh.
Cả hai cùng cười như thói quen trong đời sống chung của họ, và nụ cười ấy làm họ gần lại với nhau. Nhưng nó cũng làm cho bà sáng mắt ra, là bà không yêu ông. Bà Mỹ Trinh có lý. Bà không yêu ông, không bao giờ yêu ông cả; vậy bây giờ làm sao bà có thể ghét được ông! Bà xem như chiếc xiềng cuối cùng vừa bung ra, tách rời khỏi hồn bà. Biết bao lần bà đã tự lượm những xiềng xích ấy lên để tự giam mình lại. Bây giờ thì hết rồi. Bà không cần chúng nữa. Bà hoàn toàn giải thoát khỏi ông.
- Mình hãy nghe tôi nói, bà tiếp khi hai người đã ngớt tiếng cười. Mình phải tốt với Thu Minh.
- Bao giờ tôi cũng tốt đối với mọi người.
- Tôi xin mình, hãy nghiêm trang một chút. Đó là đứa con đầu của cô ấy. Đừng phá rầy cô ta. Mình hãy để cho cô ta yên mỗi khi cô xây mặt vào tường.
Ông lắc đầu, liếm môi, nhìn bà nói có vẻ trêu chọc:
- Một vợ hầu có lẽ không đủ.
Nhưng ông không còn làm cho bà cực lòng, đau khổ nữa. Bà chỉ mỉm cười.
- Bây giờ mình có thể đến thăm mẹ. Mình hãy tin cho mẹ biết mình có con trai hơn là nói đến vấn đề linh hồn của bà.
°
° °
Nhưng cái tin con trai cụ mang đến không làm cho cụ vui mừng.
Bà Vũ dừng lại giữa đường để đùa với mấy đứa trẻ. Vừa về đến nhà, bà thấy Giang chạy đến.
- Thưa bà, chị kêu lên. Cố đau nặng thêm. Cố sợ hãi và gọi bà. Ông đang ngồi với Cố. Ông cho mời bà lại ngay.
Bà Vũ vội vã trở lại và đến bên đầu giường bà cụ nằm. Ông Vũ ngồi bên bà vuốt hai bàn tay hầu như đã chết dần của cụ.
Nhìn thấy vợ, ông liền than thở:
- Mẹ đã đến một khúc quanh nguy hiểm. Mẹ đã chọn con đường đi xuống.
Người ta thấy lóe ra một tia sáng trong đôi mắt lờ đờ của bà cụ Cố, nhưng cụ không thể thốt ra được tiếng nào. Cụ mở miệng, khuôn mặt cụ nhăn lại như sắp khóc. Nhưng không có một âm thanh nào, một giọt nước mắt nào hiện ra trong lúc cụ nhìn con dâu với một vẻ đáng thương.
Bà Vũ cảm thấy cụ khiếp sợ hơn bao giờ hết.
Bà nói với Giang đang đứng cạnh bà:
- Chị đi mang rượu lại đây. Phải làm cho Cố ấm lại. Cố phải cảm nhận được thể xác của Cố. Hãy lấy rượu Quảng- Đông, hâm sơ qua và bảo anh gác cổng đi mời thầy thuốc.
Bà cụ vẫn nhìn sững bà Vũ như van nài giúp đỡ, khuôn mặt cụ đông lại trong một vẻ thiểu não thảm thương.
Bà Vũ dịu dàng an ủi cụ:
- Giang sắp đem rượu nóng đến cho mẹ. Mẹ sẽ thấy dễ chịu hơn. Đừng sợ mẹ à! Không có gì phải sợ cả. Quanh mẹ mọi sự vẫn như thường. Bên ngoài, bọn trẻ đang nô đùa dưới ánh nắng, lũ nô tì vá may và chăm nom nhà cửa. Ở dưới bếp, người ta đang sửa soạn bữa cơm chiều. Sự sống vẫn tiếp tục và sẽ tiếp tục mãi mãi. Tổ tiên chúng ta đã xây cất dinh cơ này, chúng ta đã ở nhiều năm, và con cháu chúng ta vẫn còn tiếp tục ở. Sự sống tiếp diễn muôn đời mẹ ạ.
Giọng bà thánh thót, vuốt ve, đầy đặn và phong phú vang dội khắp gian phòng lặng lẽ. Nghe bà nói, dần dần nét mặt bà cụ Cố dịu lại, giãn ra, và vẻ thảm thương tan biến mất. Đôi môi cụ run rẩy và cụ bắt đầu thở. Suốt trong lúc mặt cụ cứng đờ như cái mặt nạ, thì hơi thở của cụ dường như bị ngừng lại.
Chị Giang mang rượu nóng đựng trong cái bình có vòi, chạy đến. Bà Vũ liền cầm lấy, ghé chiếc vòi sát đôi môi hé mở của bà cụ Cố, rót từng giọt vào miệng bà cụ. Bà cụ nuốt một ngụm, rồi hai, rồi ba. Một nỗi mừng mỏng manh hiện ra trong mắt cụ. Cụ lại nuốt, và thì thào:
- Mẹ có biết mùi rượu.
Rồi một cái giật mạnh kinh ngạc và giận dữ thoáng quá trong đôi mắt cụ. Chính trong lúc cụ cảm nhận được mùi rượu là lúc trái tim ương ngạnh của cụ ngừng đập. Cụ lại rùng mình làm rung chuyển toàn thân, rượu tràn ra khóe miệng làm hoen ố cái chăn đắp. Thế là bà cụ Cố từ trần.
- Ôi, mẹ ôi!
Ông Vũ hãi hùng rít lên. Bà Vũ hấp tấp trao bình rượu cho Giang. Bà rút cái khăn tay lụa ra, khom mình lau môi bà cụ Cố. Rồi nâng đầu cụ lên. Nhưng đầu cụ rũ ra, nên bà lại đặt xuống gối. Bà nói:
- Mẹ đã đi rồi!
- Ôi, mẹ ôi! Mẹ ôi!
Ông Vũ lại nức nở. Ông bật khóc lớn. Bà để ông khóc.
Có những điều cần phải làm gấp cho người chết. Một người già cả như bà cụ Cố, người ta không phải chờ cho hồn vía xuất ra khỏi xác. Họ phải trừ tà và giữ hồn vía cụ lại, vì sợ nó sẽ thoát ra, sẽ mang điều họa đến cho trong nhà. Đó là nhiệm vụ của các pháp sư. Nhưng thật ra, trong thâm tâm, bà Vũ không tin những pháp sư ấy cũng như những vị thần của họ.
Bà đứng yên, mắt nhìn xuống, còn ông Vũ thì vừa nức nở khóc vừa vuốt ve bàn tay mẹ không thôi. Bà Vũ ngạc nhiên cảm thấy mình ước ao đi tìm thầy An-Rê để phó thác cho thầy việc xua đuổi tà ma. Nhưng điều ấy có lẽ sẽ không làm cho trong nhà thỏa mãn. Nếu sau này có một đứa trẻ nào trong nhà ngã bệnh, dù đã một năm qua, thế nào cũng có lời trách móc vì đã không lo chu tất hồn phách của bà cụ Cố. Vì tôn trọng gia đình, bà phải tuân theo cổ tục.
Quay sang Giang, bà bảo:
- Chị đi mời thầy pháp và tiện thì mời các người lo việc tẩm liệm luôn thể.
- Con sẽ lo lắng mọi việc, Giang vừa đáp vừa đi ra.
- Thầy nó ạ, mình nên đi ra, chúng ta hãy rời khỏi mẹ một lát đi. Lũ nữ tì sắp tắm rửa và thay quần áo cho mẹ, các pháp sư sẽ trừ tà, rồi các người ướp xác sẽ làm nhiệm vụ của họ. Mình nên đi về.
Ông ngoan ngoãn đứng dậy và hai người cùng đi ra. Bà bước chậm rãi cạnh ông. Ông vẫn tiếp tuc than khóc và chùi nước mắt vào cánh tay áo. Bà thở dài và không khóc. Đã bao năm bà không nhỏ một giọt lệ nào, và trong lúc này hình như đôi mắt bà khô rốc.
Nhưng khi nghe bà thở ra, ông liền đưa tay nắm lấy tay bà; như thế, tay trong tay, cả hai đi về nhà ông. Họ ngồi ngoài hoa viên và bà để ông kể tất cả những kỷ niệm của ông về bà cụ; việc bà cụ cứu ông thoát những hình phạt của cụ ông như thế nào, khi ông học bài thì cụ lén vào phòng ông, mang rượu, bánh ngọt, hạt dẻ cho ông như thế nào; ngày nghỉ bà cụ dẫn ông đi xem hát, khi ông đau thì cụ rước bọn phường tuồng và lũ làm hề đến tận bên giường để làm cho ông vui; và nếu ông đau răng, bà cụ cho ông hút một hơi thuốc phiện với cái điếu của cụ.
Ông nói:
- Thật là một bà mẹ tốt. Một bà mẹ luôn luôn vui vẻ và thích làm cho tôi vui. Bà đã dạy cho tôi biết hưởng lạc thú ở đời.
Bà Vũ yên lặng nghe tất cả những chuyện ấy. Bà khuyên chồng ăn và uống, rồi dùng một chút rượu. Bà khinh những người say rượu, nhưng có nhiều khi rượu cũng có ích, làm dịu được những nỗi đau buồn. Vì thế, bà bảo lấy rượu hâm cho ông uống, và càng uống ông càng nói nhiều. Ông lặp đi lặp lại mãi một chuyện, cho đến khi gục đầu xuống.
Bấy giờ, bà đứng dậy và bước rất khẽ về căn phòng trước kia của bà. Bà đi vào, và sau bức màn giường bằng sa tanh, bà thấy Thu Minh nằm, bóng cái gáy và đường cong của một bờ vai thanh mảnh hiện trên nền tường trắng. Bà gọi rất khẽ:
- Thu Minh? Ngủ rồi à?
Thu Minh quay lại, và trong ánh nến chập chờn, mắt nàng chăm chú nhìn bà Vũ.
- Thu Minh, cô ngủ đêm nay cũng vô ích. Cố đã mất rồi, còn ông thì say li bì vì rượu và vì buồn. Thôi, dậy đi em!
Thu Minh vâng lời và lặng lẽ ra khỏi giường.
Nàng hỏi:
- Em phải đi đâu bây giờ?
Bà Vũ do dự:
- Tôi tưởng cô có thể đến phòng tôi. Tối nay tôi không ngủ. Tôi phải thức canh Cố.
- Ờ, chị cho em thức cùng chị, em không muốn ngủ.
- Nhưng cô còn trẻ, không nên thức suốt đêm, vì cô có thai.
- Xin chị cho em ở cạnh chị, nàng nói với một giọng van lơn.
Bà Vũ không thể từ chối, bà nói:
- Vậy thì đến đi.
Sau khi người ta đã đỡ ông Vũ lên giường, và chính tay bà đã buông màn xuống, bà Vũ lại đi xếp đặt công việc trong nhà đêm ấy, với tư cách là một bà chủ. Những ai đã thức cho đến lúc ấy thì đi ngủ, những lũ nô bộc và những người anh em họ lớn tuổi hơn hết, không được nghỉ chút nào. Người ta đã tắm và thay quần áo cho bà cụ Cố. Bà Vũ lo lắng để mọi việc được đúng theo nghi lễ, và Thu Minh bên cạnh bà không nói lời nào, nhưng luôn luôn sẵn sàng lấy giúp vật này vật khác. Thu Minh nhanh tay nhanh mắt, nàng đoán được điều người ta muốn trước khi nhờ. Tuy nhiên bà Vũ thấy rõ Thu Minh không một thoáng buồn, cái chết này đối với nàng như không có. Khuôn mặt nàng nghiêm nghị, nhưng không buồn bã và không làm ra vẻ khóc lóc như một vài người khác có thể làm.
"Trái tim nàng chưa ở trong nhà này" bà Vũ vừa nghĩ, vừa đưa mắt quan sát Thu Minh.
Như vậy, một thế hệ đã mãn và rời khỏi nhà. Bà Vũ trở nên cái đầu của dinh cơ này, nhưng bên ngoài, ông Vũ là gia trưởng.
Bà cụ Cố không được mai táng ngay. Khi người ta bàn hỏi các thầy địa, họ bảo đến trung thu mới có ngày tốt. Nên khi mọi nghi lễ đã hoàn tất, và bà cụ Cố nằm trong chiếc áo quan bằng gỗ đá, niêm phong lại, linh cữu được đưa vào quàn tại một ngôi chùa tĩnh mịch của gia đình, ngay trong khuôn viên nhà ở. Không có ai, ngay cả bọn trẻ con có cảm giác là bà cụ Cố ở xa. Nhiều lần, trong lúc nô đùa, bọn trẻ chạy đến chùa và nhìn vào trong, gọi rất khẽ:
- Bà ơi! Cố ơi! Cố có nghe chúng cháu nói không?
Rồi chúng lắng nghe. Đôi lúc không âm thanh nào lọt vào đến tai chúng. Nhưng nhiều khi gió thổi, chúng bảo nhau rằng chúng đã nghe bà cụ Cố trả lời từ trong linh cửu.
Một hôm nọ, bà Vũ hỏi một cô bé, con của một người anh em họ.
- Cố nói gì thế cháu?
Em bé làm ra vẻ nghiêm trang nói:
- Cố bảo: Các cháu ơi, hãy đi chơi, hãy sung sướng. Nhưng bà ạ, giọng Cố rất nhỏ và rất xa. Ở trong quan tài, Cố có bằng lòng không bà nhỉ?
Bà Vũ nói cho nó yên tâm:
- Cố rất bằng lòng. Bây giờ cháu phải vâng lời Cố, hãy đi chơi đi và hãy sung sướng.
Đám tang bà cụ Cố xong, sự im lặng lại rơi xuống bao phủ cả tòa nhà to lớn. Hình như với sự ra đi ấy, mỗi thế hệ, riêng cảm thấy mình được thăng cấp trong không gian. Với cái chết của bà cụ Cố, sự sống tiến về phía trước một bước, và mỗi người tưởng mình gần ngày chết hơn. Khi đoạn tang đầu đã mãn, ông Vũ bỏ quần áo sô gai ra, thì ông không còn hoàn toàn như cũ nữa. Khuôn mặt đầy đặn của ông xem ra già hơn, nghiêm nghị hơn. Thỉnh thoảng ông sang nhà bà, hầu cùng nhau bàn chuyện gia đình mà họ là hai cái đầu. Ông Vũ buồn phiền với ý nghĩ rằng ông đã không phải là một đứa con hiếu thảo như ý ông muốn. Khi họ nói chuyện về mùa màng, và những thuế má bất công do Chính phủ ban hành, và khi họ cân nhắc một vài món chi tiêu, điểm qua đàn con lũ cháu đã xong, ông Vũ liền nghĩ đến mẹ. Ông nói với bà:
- Bao giờ mình cũng có hiếu với mẹ. Nhưng tôi, hầu như luôn luôn tôi quên hẳn mẹ.
Để khích lệ chồng, bà Vũ liền trả lời:
- Sao một người đàn ông lại có thể quên mẹ mình được. Người đã cho mình sự sống, nên chỉ có việc thờ là nhớ đến người. Người đã ban cho mình thể xác, nên ăn uống, ngủ nghỉ, và dùng thể xác ấy bằng cách này bằng cách khác, là nhớ đến người. Tôi không đòi các con trai tôi phải chạy đến với tôi và kêu lên: Mẹ ở đây này! Mẹ ở kia kia!". Chúng vui sống, chúng lấy vợ, được hạnh phúc và sinh nhiều con trai, là tôi được lãnh phần thường đầy đủ. Trong chúng, có sự sống của tôi. Đối với mẹ cũng thế. Mẹ sống trong mình và trong các con của mình.
- Mình nghĩ như thế thật à?
Sau mỗi lần tiếp xúc với bà, bao giờ ông cũng cảm thấy được an ủi hơn.
Bà ở lại một mình, suy nghĩ về nhiểu việc. Bây giờ hơn bao giờ hết, đời sống của bà chia làm hai phần – phần bà sống trong nhà, và phần bà sống trong chính mình. Nhiều khi nặng về phần này. Đôi khi nặng về phần kia. Khi trong nhà yên tĩnh, bà ở một mình, hạnh phúc. Khi xảy ra những điều phiền não, bà hết sức lo tiêu trừ.
Vào giữa mùa thu, bà Vũ cảm thấy chớm hé một nỗi buồn phiền nhỏ. Nỗi buồn phiền ấy có cơ lớn dần, nếu bà không lo tiêu trừ như người ta phá một vết sâu ăn trên một cây non, Liên Chi và Phan bắt đầu cãi nhau. Một hôm, trong khi đi củ soát lại công việc trong nhà, bà đã biết được mối bất hòa của hai người. Mặc dầu Liên Chi đẹp và lịch thiệp, nhưng nàng đã để cửa nhà quá bừa bãi. Ban đầu, bà Vũ tránh không nói, vì Liên Chi là con của bạn bà. Bà biết bà Khương gia đình đông đúc, không thể giữ gìn nhà cửa trật tự và sạch sẽ hoàn toàn được, thì con gái của bà ta bừa bãi cũng không là gì.
Bà Vũ thích nói chuyện với Mai hơn là khiển trách Liên Chi, vì Mai cũng là con gái của bà Khương.
Một buổi sáng, bà gặp Mai đang chải tóc. Bầu trời sắc xám và êm dịu, cả nhà xem như còn yên ngủ. Bà Vũ không nói gì về việc nàng trang điểm muộn, bà tự bảo, nếu bà phê bình cô em, tất cũng có lợi cho cô chị.
Thấy bà mẹ chồng, nàng dâu vội thu tóc vào tay.
- Thưa mẹ, mẹ đến chơi. Con lấy làm xấu hổ vì chưa điểm trang. Để con bới sơ qua cũng được.
- Không hề gì. Con cứ việc thong thả.
Và bà ngồi xuống ghế trong lúc người ở gái chải tóc cho Mai. Tóc Tố Lan và Liên Chi cắt ngắn, chỉ có Mai giữ tóc theo lối xưa.
- Con còn phải đợi mấy ngày nữa nhỉ!
- Thưa mẹ, khoảng mười một ngày. Con hy vọng mẹ sẽ chỉ bảo giúp con. Mẹ biết, sinh đứa con đầu lòng con đau đớn làm sao!
Chị ở vui vẻ nói:
- Khi tôi sinh con, tôi đang giúp chồng cày ruộng ngoài đồng.
Gia đình họ Vũ biết chị ở này từ lâu, vì chị ta sống trên đất đai của họ. Mùa hè chị ta về nhà để lo việc gặt hái, còn mùa đông thì trở lại giúp việc cho chị Mai.
Vì chị góa bụa, người ta nâng đỡ chị, nhưng vì quá yêu đồng ruộng, nên chị không thể không trở lại đó hàng năm.
Bà Vũ nói:
- Sinh đứa con thứ hai con sẽ ít đau hơn. Nhưng người ta cho rằng, người đàn bà sống trong chốn phòng khuê, thường sinh con không dễ dàng như những người sống tự do ngoài đời.
- Thế Liên Chi sinh có dễ không?
- Ồ không đâu! Chị ở nhanh nhảu nói. Cô ấy thông thái quá!
Bà Vũ bật cười:
- Không phải thế đâu con ạ! Có lẽ bà cũng thông thái như Liên Chi, nhưng bà sinh rất dễ. Trong đời bà, bà gặp may rất nhiều.
- À, bà khác. Bà thuộc hạng người trời đã chọn, chị ở đáp.
Bỗng Mai nói:
- Liên Chi nói, nó không thích có con. Nó nói, nó hối tiếc vì đã lấy chú Phan.
Bà Vũ giật mình, ngước mắt lên.
- Mai, hãy giữ gìn lời nói cho có ý tứ.
- Nhưng thưa mẹ, thật thế đấy ạ.
Mai giậm chân, thét chị đầy tớ:
- Đồ ngu, chị nhổ tóc cho tôi đấy à?
Chị ở đáp:
- Đó là lỗi của em cô. Em cô đã làm tôi giật mình. Tôi chưa bao giờ nghe nói đàn bà mà không muốn có con, trừ mấy cô vợ lẽ sợ thân mình mất vẻ đẹp. Còn trong nhà này, ngay người vợ hầu của ông chủ cũng đã có mang.
Bà Vũ không chú ý gì đến câu chuyện giữa chị Mai và người đầy tớ. Bà nói:
- Mai ạ, mẹ đến nói chuyện em con với con, và hỏi con, mẹ phải làm gì, vì em con quá bừa bãi. Nhưng điều con cho mẹ biết lại quan trọng hơn cả việc để bụi đóng dưới gầm bàn. Mẹ phải lo ngay đến cái gia đình non trẻ này. Mẹ rất bận rộn vì cái chết của bà nội các con. Con hãy nói cho mẹ nghe những điều con biết.
- Chính Liên Chi đã nói những điều ấy với con…
Hai người không quan tâm gì đến sự hiện diện của chị ở. Trong nhà này, mọi người đều có thể nghe và thấy, chính bọn tôi tớ cũng có chỗ của chúng nơi đây.
- Con hãy kể cho mẹ nghe những điều em con đã nói.
- Nó bảo, nó ghét những nhà thế gia như nhà này. Nó hối tiếc vì đã làm dâu nhà này. Phan thuộc về gia đình chứ không thuộc về nó. Còn nó thì thuộc về gia đình chứ không thuộc về chú Phan, dầu nó không muốn như vậy. Nó muốn ở riêng để có nhà cửa riêng biệt.
Bà Vũ không hiểu.
- Muốn ở riêng à? Nhưng chúng lấy gì mà sống?
- Nó nói, nếu chú Phan biết Anh- văn khá hơn, thì có thể làm việc có tiền lương.
- Nó muốn chồng nó biết thêm Anh- văn sao?
- Dạ, để chú ấy làm ra tiền. Như thế, hai người mới có thể ở riêng được.
- Nhưng ở đây có ai quấy rầy chúng nó đâu?
Bà Vũ tức giận vì dưới mái nhà này có một gia đình như vậy.
- Cô ấy muốn nói đến những tập quán trong gia đình. Những ngày lễ, ngày tang, kỵ giỗ, bổn phận làm dâu, việc giao phó trẻ em cho đầy tớ, và tất cả những chuyện tương tự. Cô nói, chú Phan nghĩ đến gia đình trước vợ.
- Đó là bổn phận của cậu ấy. Và đó cũng là bổn phận của cô ta nữa. Vậy, phải chăng cô ta là một con đĩ, nên mới bảo không thuộc về trong nhà?
Mai thấy điều mình nói đã làm phật lòng bà Vũ, nên nàng làm thinh. Chị ở cũng không dám xen lời vào vì cảm thấy trường hợp quá nghiêm trọng. Chị bới tóc cho Mai xong, cài thêm hai chiếc trâm ngọc, rồi gỡ tóc rối ở lược quấn quanh ngón tay và đi ra.
Trong phòng còn lại một mình bà Vũ với Mai.
- Thế con cũng có những tư tưởng như vậy sao?
Mai bật cười, nàng nói cách thẳng thắn:
- Ồ, thưa mẹ, con nhát quá! Con thích đời sống trong nhà này. Tất cả đều sạch sẽ, tất cả đều trật tự mà con khỏi phải sờ tay đến. Con mừng rỡ khi con của con khóc, liền có người ở đến bồng thay, và con sung sướng từ sáng đến tối. Nhưng con chưa bao giờ đi học, nên không thích đọc sách, và nhà con đã nói cho con biết tất cả những điều cần biết, những điều mà nhà con cho là đủ, vậy tại sao con lại muốn gì hơn?
- Lãng có tốt với con không?
Đôi má mịn màng của Mai bừng đỏ.
- Chàng tốt với con trong hết mọi sự. Chưa bao giờ có một người tốt như thế. Xin cám ơn mẹ.
- Vậy Phan không tốt với Liên Chi sao?
Mai do dự.
- Khi hai người đánh lộn nhau thì làm sao nói được bàn tay nào đánh trước? Phần con, con tưởng đó là lỗi của Tố Lan. Thím ấy luôn luôn cặp kè với Liên Chi. Cả hai nói luyên thuyên về chuyện chồng con, rồi mỗi người lại thấy khuyến điểm của chồng người khác nơi chồng mình.
Bà Vũ nhớ lại tiếng than khóc của Tố Lan một đêm nọ, cách không bao lâu.
- Chính Tố Lan cũng không bằng lòng à?
Mai nhún vai, nàng do dự đáp:
- Liên Chi là em con, còn đối với Tố Lan thì con không muốn đả động đến.
- Con không yêu Tố Lan sao?
Bà Vũ tưởng như mình đang đi trong một con đường rối rít và tiến sâu vào cái lưới bí mật giấu ẩn trong nhà. Những người sẽ thừa kế bà và ông Vũ mà cãi vã nhau như vậy thì thực là một điều quái dị.
- Con không thích Tố Lan. Mai nói với một giọng bình thường không tỏ vẻ gì ghét bỏ.
Bà Vũ nghiêm khác nói:
- Vậy thì đàn bà bao giờ cũng phải cãi nhau à?
Mai lại nhún vai:
- Người ta có thể không thích một người mà không cần cãi vã với người ấy. Con không thích Tố Lan, vì thím ấy bao giờ cũng làm ra vẻ chỉ có mình là có lý, còn ngoài ra đều sai cả. Đối với chú Phan cũng thế; thưa mẹ, con lấy làm lạ là mẹ không bao giờ thấy điều ấy cả. Con đã bảo nhà con trình mẹ biết, nhưng nhà con nói là chàng không muốn làm cho mẹ phải buồn phiền. Chỉ có Cố biết. Cố đã vả Tố Lan.
- Cố đã vả Tố Lan à? Bà Vũ kêu lên ngạc nhiên. Sao không ai nói cho tôi biết cả?
- Chú Thế cấm thím ấy nói.
Mai cảm thấy thích thú về những mẩu chuyện ấy, nàng tiếp:
- Tố Lan thông thái quá! Thím ấy thông hơn Liên Chi, nên Liên Chi nghe theo. Bao giờ thím ấy cũng nói đến những chuyện mà người đàn bà không nên biết.
- Chuyện gì?
- Về Hiến pháp, về việc phục hưng quốc gia, về sự bất công của các Hiệp ước và về tất cả mọi vấn đề thuộc loại ấy.
- Mẹ xem con có vẻ thạo lắm, bà Vũ mỉm cười nói.
- Nhà con đấy, chứ không phải con.
- Con không muốn biết những điều Lãng biết sao?
- Còn nhiều chuyện khác nữa, chúng con có thể nói cùng nhau.
- Chuyện gì vậy?
Nhưng thay vì trả lời, Mai quay mặt đi, giấu một nụ cười làm lúm hai má đồng tiền của nàng.
Bà Vũ không hỏi gặng thêm. Một lát sau, bà đứng dậy và trở về nhà. Bà đã biết được sự rối loạn mới ấy trong nhà bà. Ngày hôm đó bà mệt đến lả người. Bà cảm thấy mình như một người chạy bộ, mặc dầu chưa ăn uống gì mà vẫn phải cố chạy cho mau. Bà thiếu sức để giúp những người trẻ trung này, những người mà sự sống phụ thuộc vào đời sống của bà. Sự khôn ngoan của cá nhân bà quá xưa cũ - Sự khôn ngoan bằng phẳng của một con đường đời thẳng tắp, từ khi sinh ra đến lúc chết. Bà nghĩ đến thầy An-Rê, con người có một sự khôn ngoan vượt quá các bức tường này. Bà sẽ cho gọi Phan đến và thúc giục chàng tiếp tục học lại. Vậy khi thầy An-Rê đến, bà sẽ nói cho thầy biết những mối lo âu đang làm xao động đám thanh niên ấy, mà bà là câu cột chống đỡ.
Bà sai Giang đi tìm Phan. Tình cờ chàng có mặt ở nhà, và vì không có việc gì phải làm nên chàng đến ngay. Vẻ mặt chàng làm bà không vừa ý. Nếu chàng chưa vợ, bà sẽ nghĩ một cách thực tình rằng, chàng có vẻ như một tay phóng đãng. Tuy có vẻ sung túc, nhưng chàng xem ra cau có, bất mãn.
- Phan, con! Bà dịu dàng nói. Từ ngày tổ mẫu con bỏ chúng ta đến giờ, mẹ quá bận rộn, đến nỗi mẹ không hỏi han gì đến đời sống của các con cả. Mẹ đã thấy các con, cả Liên Chi và con ở vị trí của chúng con trong gia đình, nhưng không bao giờ mẹ thấy một mình con. Này con, bây giờ con hãy nói chuyện với mẹ.
- Con không có chuyện gì để nói cả. Phan trả lời một cách thờ ơ.
- Cả Liên Chi và con nữa, bà nói một cách mơn trớn, vuốt ve,
- Mọi sự đều tử tế cả mẹ ạ.
Bà Vũ nhìn con không nói gì; chàng cao lớn và mảnh khảnh, tầm vóc cân đối. Tuy dáng người chàng thanh cảnh, nhưng không phải là không mạnh mẽ. Mặt chàng vuông, đôi môi dày dễ trở nên cau có.
Nhìn con, bà mỉm cười. Bỗng bà nói:
- Con giống ngày con còn nhỏ quá đi. Thật quái lạ, người đàn ông lớn lên thay đổi rất ít, còn người đàn bà thay đổi nhiều làm sao! Đôi khi mẹ nhìn mỗi người trong các con, hình như mẹ thấy chúng con hoàn toàn giống như lúc người ta đặt vào đôi tay mẹ lần đầu.
- Thưa mẹ, tại sao chúng ta sinh ra ở đời?
Chính bà cũng thường băn khoăn tự hỏi như vậy. Nhưng khi bà nghe câu hỏi ấy ở miệng con bà, thì bà cảm thấy sợ hãi.
- Không phải bổn phận của con người là sinh con đẻ cái sao?
- Chưa hẳn thế. Tại sao? Tại sao lại có mỗi người trong chúng ta ở trần gian này?
- Người ta đã tạo nên chúng ta, chúng ta có thể không sống được không?
- Nhưng nếu sinh ra con chỉ để con sinh ra một con người khác giống con, và chính con người ấy sẽ sinh ra một con người khác nữa giống như hai chúng con, thì có ích lợi gì đâu?
Phan không nhìn mẹ. Hai bàn tay thanh mảnh của chàng nhẹ nhàng chắp lại đằng trước.
- Mẹ ạ, chàng chậm rãi nói. Trong con có một cái bản ngã không liên quan gì với mẹ và cả đứa con mà con sẽ sinh ra sau này.
Bà Vũ cảm thấy sợ hãi. Bà đã từng có những cảm nghĩ ấy, và cũng đã từng đặt câu hỏi như thế, nhưng không thể tìm thấy chúng nơi các con bà,
- Than ôi! Mẹ đã là một người mẹ xấu đối với các con. Cha con không bao giờ có những tư tưởng ấy. Hẳn là mẹ đã rót thuốc độc cho con.
- Không, con luôn luôn nghĩ đến điều ấy.
- Sao con không bao giờ nói cho mẹ biết?
- Con tưởng nó sẽ qua đi. Ấy thế mà nó vẫn còn!
Bà trở nên vô cùng nghiêm nghị.
- Mẹ hy vọng rằng điều ấy không có nghĩa rằng con và Liên Chi bất hòa với nhau.
Phan cau mày.
- Con không biết Liên Chi muốn gì. Nàng là một con choi choi.
- Vợ chồng con cứ quấn quýt lấy nhau như thế là một chuyện xấu. Mẹ thấy Liên Chi không bao giờ đến ngồi với các người đàn bà khác, như chị Mai chẳng hạn. Liên Chi không bước chân ra khỏi gian nhà của con; như thế dĩ nhiên là nàng sẽ trở nên uể oải, mệt nhọc, nhàn rỗi, bứt rứt…
- Có lẽ thế, Phan nói cách buông trôi, dường như không quan tâm gì đến nhận xét ấy cả.
Bà Vũ vẫn nhìn chàng lo lắng.
- Phan ạ, chúng ta nên mời thấy An-Rê đến lại. Trước đây, khi con học với thầy, mẹ xem con có vẻ sung sướng.
Chàng đáp với vẻ vô tư lự:
- Điều ấy đối với con có lẽ không thể được.
- Này, mẹ sẽ đi mời thầy ấy đến, bà nói một cách cương quyết, và bà đã biết từ lâu rằng, trước sự vô tư lự thì phải tỏ ra cương quyết.
Phan không đáp.
- Phan ạ, bà nói tiếp. Nếu Liên Chi và con muốn rời bỏ nhà này, mẹ cũng không cản trở đâu. Mẹ cầu mong các con hạnh phúc. Con rất có quyền tự hỏi tại sao con chỉ là một cái khâu trong sợi dây xích của các thế hệ. Mẹ có nhiều con trai, nếu con muốn đi thì cứ nói rõ với mẹ.
Chàng vẫn uể oải đáp:
- Con muốn gì, con cũng không biết nữa!
- Vậy con không ưa Liên Chi sao? Không thể như thế được, trừ khi con quá khốn nạn. Nàng không có thai và con không thiết gì đến cả. Phan, như thế nghĩa là gì?
- Thưa mẹ, mẹ đừng có căn cứ vào việc như thế mà đoán xét chúng con.
Bà Vũ nhận thấy điều ấy quá rõ, bà nói:
- Mẹ không căn cứ duy chỉ trên điểm ấy mà đoán xét các con. Nhưng mẹ biết rằng, nếu đàn ông và đàn bà không kết hợp với nhau trước tiên về thể xác, thì họ sẽ không bao giờ có thể ăn khớp nhau trên mọi lãnh vực. Nếu hai xác thịt kết hợp với nhau, thì sẽ có một sự hòa hợp khác theo sau, và dẫu không có hòa hợp sau này đi nữa, hai vợ chồng vẫn có thể sống chung hòa thuận. Vì thể xác là nền tảng của ngôi nhà mà họ xây dựng. Linh hồn, lý trí và tất cả những cái khác là mái nhà, những vật trang điểm, những cái mà người ta thêm vào để cho ngôi nhà đẹp. Nhưng ngôi nhà sẽ không đứng vững, nếu không có nền móng.
Phan nhìn bà:
- Thế sao cha con lại cưới vợ hầu?
Bà Vũ muốn bỏ qua sự vô lễ ấy, bà nghiêm khắc nói:
- Con người ta có từng giai đoạn, giai đoạn này kế tiếp giai đoạn khác.
Phan cảm thấy mình đã vượt quá giới hạn làm con, chàng vuốt làn tóc ngắn và đưa hai bàn tay ôm ấy má. Chàng nói:
- Thôi, mẹ cứ mời thầy An-Rê đến đi.
Nghĩ một lát, chàng lại nói thêm:
- Người sẽ là thầy dạy độc nhất của con, con không đi học trường nhà nước nữa.
- Thế cũng được.