Chương 8
Thế là thầy An-Rê trở lại nhà họ Vũ. Thầy không nhắc nhở gì đến khoảng thời gian trôi qua kể từ hôm thầy nghỉ dạy và những gì đã xảy ra trong khoảng thời gian ấy. Buổi chiều, Phan đến nghe giảng bài và lui về. Sau giờ học, khi thầy An-Rê đi qua sân, bà Vũ dịu dàng gọi thầy. Bà vẫn ngồi ở chỗ mọi ngày, nơi mà chiều nào bà cũng đến ngồi khi trời thu chưa quá lạnh. Hôm ấy trời đã chớm lạnh, nhưng bà Vũ sợ mùa hè qua mất, nên bà muốn vớt vát thêm một hai buổi chiều nữa. Giang không muốn bà ngồi ngoài trời, nên chị đã nhóm sẵn trong phòng một lò than hồng để bà khỏi bị cảm hàn. Vừa thấy thầy An-Rê, bà Vũ nói:
- Chào thầy An-Rê.
- Chào bà, bà gọi tôi?
- Vâng – bà đứng dậy – Nếu thầy rảnh, xin thầy vui lòng cho tôi gặp một lát. Tôi muốn thưa chuyện với thầy về cậu Phan nhà tôi. Tôi không được hài lòng cậu ấy.
Thầy An-Rê gật đầu tỏ ý bằng lòng.
- Giang ơi, pha trà nóng mang đến đây và ở lại trông lò than một thể.
Bà Vũ nhớ thầy An-Rê là một giáo sĩ, nên bà muốn tránh cho thầy sự bất tiện phải ngồi một mình với một người đàn bà. Tuy nhiên, nếu có cảm thấy bất tiện chăng nữa, thầy cũng không để lộ ra nét mặt.
Khi bà Vũ chỉ ghế mời, thầy ngồi xuống ngay và chờ đợi, đôi mắt sâu đăm đăm nhìn bà Vũ. Nhưng bà biết tư tưởng thầy ở tận đâu đâu. Đôi mắt thầy có thể nhìn từ chín trời cao chiếu xuống bà.
Bà vào đề ngay:
- Tôi muốn hỏi thầy, tại sao Phan lại khổ sở?
- Vì anh ta nhàn rỗi quá! Thầy An-Rê trả lời cách đơn giản.
- Nhàn rỗi? Nhưng nó cũng đã có phần việc rồi. Tôi đã giao công việc hàng ngày cho các con trai và con dâu tôi. Năm nay thằng cả nhà tôi phải trông coi đất ruộng dưới sự điều khiển của tôi. Thằng hai lo việc mua bán, còn thằng ba thì phụ trách kho ngũ cốc ngoài phố. Từ hôm thôi học đến giờ, ngày nào nó cũng đến làm việc ở đấy.
- Như thế không cấm anh ta khỏi nhàn rỗi. Phan có một trí thông minh đặc biệt, ham hiểu biết. Anh học rất chóng thuộc. Bà đã nhờ tôi dạy Anh văn cho anh ta, nhưng với những điều anh ta đã biết về môn sinh ngữ ấy, bây giờ anh đã tạo được một cái vốn hiểu biết sâu hơn nữa. Tôi nhận thấy anh ta không quên gì cả. Những điều tôi dạy mấy tháng trước đã đâm rễ trong anh, do đó những chồi lộc nứt lên như những chồi lộc của một cây nho, đương tìm nơi bám lấy để đơn hoa kết quả. Phan sẽ luôn luôn nhàn rỗi chừng nào anh chưa tìm được gì để thu hút tâm hồn và trí tuệ của mình.
Bà Vũ lắng nghe tất cả. Bà nói:
- Thầy cố thuyết phục tôi? Thầy muốn tôi để thầy giảng đạo của thầy cho nó?
- Bà không biết đạo của tôi là đạo gì đâu!
- Tôi biết lắm chứ. Cô Hsia năng đọc thánh kinh của thầy cho tôi nghe, cô cắt nghĩa cho tôi cách cầu nguyện và tất cả những điều như thế.
Con người kỳ lạ ấy đáp:
- Đạo của tôi không phải là đạo của cô ấy, và đạo của cô ấy không phải là đạo của tôi.
- Xin thầy giải thích đạo của thầy cho tôi nghe.
- Tôi sẽ không giải thích đâu, vì không thể được. Cô Hsia có thể đọc thánh kinh cho bà và nói với bà cách cầu nguyện của cô ấy, nhưng đó không phải là cách thức của tôi.
- Vậy tôn giáo của thầy ở đâu?
- Trong cơm ăn và trong nước uống, trong lúc ngủ, lúc đi trong việc quét chùi nhà cửa, vun xới vườn tược, trong các thức ăn tôi cho những em bé lưu lạc mà tôi tìm đem về nhà, trong những bài học tôi dạy cho con trai bà, những đêm canh thức bên giường bệnh, và trong sự giúp đỡ những người hấp hối để họ được chết bình an.
Như bỗng nhớ lại,bà Vũ nói:
- Tôi muốn mời thầy đến khi bà nhạc tôi qua đời. Thật là lạ, tôi rất ước ao như thế, nhưng tôi sợ rằng, mặc dầu đã có thầy, gia đình vẫn còn đón mời các thầy chùa.
- Tôi không rẻ rúng các thầy chùa của bà, tôi không bao giờ xua đuổi những người có thể mang đến sự an ủi. Tất cả chúng ta ai cũng cần có sự an ủi.
- Thầy cũng thế à?
- Cố nhiên tôi cũng thế.
- Thầy quá cô độc! Thầy không có ai bà con thân thích cả!
- Tất cả đều là bà con của tôi. Không có sự khác biệt giữa dòng máu này với dòng máu khác.
- Máu của thầy giống máu của tôi sao?
- Giống chứ. Máu của mọi người đều do một chất tạo nên.
- Thế tại sao thầy là giáo sĩ?
Rồi cảm thấy câu hỏi có phần thiếu lịch sự, bà thêm.
- Xin thầy bỏ lỗi, tôi tò mò quá. Tôi biết không bao giờ nên hỏi một giáo sĩ tại sao vị ấy đi tu. Nhưng tôi cảm thấy thầy thánh thiện và thầy không cần có một thánh đường.
- Bà khỏi phải chữa lỗi. Chính tôi, thực tôi cũng không biết rõ tại sao tôi làm giáo sĩ, trừ ra vì tôi bắt đầu làm nhà thiên văn.
- Thầy biết rõ các vì sao? Bà kinh ngạc hỏi.
- Thưa bà, không ai biết được các vì sao. Nhưng tôi nghiên cứu chúng mọc, lặn, vận chuyển trên trời như thế nào…
- Thầy còn tiếp tục nữa không?
Bà lấy làm hổ thẹn vì đã tò mò đến những điều thuộc về người này, nhưng bà không thể nào nén lòng được.
- Thưa bà tôi vẫn tiếp tục mỗi khi xong mọi công việc trong ngày và vào những lúc trời quang đãng.
Cử chỉ của thầy rất thẳng thắn, rất bình tĩnh, đến nỗi sự bình tĩnh đã làm cho bà Vũ phải chú ý đến. Thầy trả lời các câu hỏi của bà vì bà đã hỏi, và vì thầy không có gì phải dấu diếm, nhưng với một vẻ dường như các việc ấy không có liên quan gì đến bà cả.
Bà Vũ bỗng nói:
- Thầy cô đơn quá! Suốt ngày thầy sống giữa những người nghèo khổ, còn ban đêm thì thức với các vì sao.
- Đúng thế, thầy An-Rê bình tĩnh đáp.
- Thầy không mong có một ngôi nhà, một người vợ và con cái sao?
- Thưa bà, xưa kia tôi có yêu một thiếu nữ. Chúng tôi sắp cưới nhau. Chính lúc đó là lúc tôi bước chân vào đời sống độc thân và tôi không yêu người thiếu nữ ấy nữa. Tôi không cần đến cô ta nữa.
Bà Vũ trịnh trọng nói:
- Theo tôi, như vậy là quá bất công đối với nàng!
- Quả có thế. Tôi cũng cảm thấy như vậy, nhưng tôi chỉ có thể nói sự thật với nàng. Và tôi đã làm giáo sĩ.
- Nhưng đức tin của thầy?
Thầy An-Rê quay về bà, với một cái nhìn sâu sắc.
- Đức tin tôi à? Đức tin tôi ở trong không gian và trong khoảng trống, trong mặt trời, trong mây và gió.
- Có một vị Chúa trong tất cả những chỗ ấy không?
- Có chứ, nhưng tôi không thấy mặt "Người".
- Vậy sao thầy có thể tin có "Người"?
- "Người" cũng có trong những vật đương ở quanh tôi.
Giọng của thầy trầm hùng và đơn giản. Thầy tiếp:
- Người ở trong không khí và trong nước, trong sự sống và trong sự chết, trong nhân loại.
- Nhưng còn các đứa trẻ mà thầy đã lượm được về nuôi thì sao. Nếu thầy thích sự cô đơn của thầy, và nếu thầy không cần đến ai cả, thì sao thầy lại còn nhận những đứa con lưu lạc ấy?
Thầy nhìn xuống hai bàn tay to lớn, chai cứng vì làm lụng vất vả.
- Hai tay này, chính nó cũng phải sống và hạnh phúc, thầy nói, dường như nói về những tạo vật biệt lập. Phải cho xác thịt làm việc nó mới để tâm hồn yên tĩnh.
B à Vũ càng nhìn thầy, bà càng tò mò muốn biết thêm. Bà nói:
- Có người nào giống thầy không?
- Không ai hoàn toàn giống ai cả. Nhưng thưa bà, con trai của bà, cậu Phan, tôi tin có thể trở nên như tôi. Có lẽ cậu sẽ trở nên như thế chăng?
- Tôi cấm ngặt điều ấy, bà Vũ nói với một giọng hách dịch.
- À!
Và thầy An-Rê mỉm cười. Đôi mắt thần cảm và mầu nhiệm của thầy nhìn bà sáng lên một lát, rồi thầy cáo biệt ra về,
Bà ngồi lại, nhìn ngắm chòm sao ở trên trời. Hai lần chị Giang bước ra có vẻ bực tức. Bà nói:
- Chị hãy để mặc tôi. Tôi cần suy nghĩ.
- Bà không thể vào giường nằm suy nghĩ hơn là ngồi ngoài đêm lạnh hay sao?
Thấy bà Vũ không đáp. Chị vội đi tìm một áo da lông đắp chân cho bà. Bà Vũ không nhúc nhích. Bà dựa lưng vào ghế bành mắt đăm đăm nhìn các vì sao. Bốn bức tường quanh sân cắt một mảnh trời vuông giống như mảnh hình vuông mà chúng đương giới hạn trên mặt đất, nhưng ở trên cao hay dưới thấp, tư tưởng của bà Vũ lặng xuống rất sâu và vươn lên rất cao.
Trong lòng đất, dưới ngôi nhà này, con người là những cái rễ đâm sâu xuống, những cái rễ vô hình mà hết thảy mọi người trong gia đình họ Vũ đã sống ở đấy, đã sinh ra và chết ở đấy, đều không biết. Các nền móng vẫn không lay chuyển. Tuy nhiên, trước chúng đã có những nền móng khác. Ông cụ Cố kể cho bà cụ nghe điều mà tổ phụ cụ đã nói với thân sinh cụ, và thân sinh cụ nói lại cho cụ biết rằng: khi xây dựng nhà họ Vũ, thợ đào móng xây nền không đặt đá trên đất, mà là trên những tàn tích cổ, trên những mảnh sành mảnh sứ và trên những gạch ngói vụn.
Ông cụ cũng đã từng nói với bà rằng: "Không có nhà nào có thể đụng thấu đáy trái đất được. Lần lượt tổ tiên chúng ta đã xây nhà trên của người khác và những người khác sẽ xây nhà trên của chúng ta."
Trong nghìn vạn năm sau, chỗ nhà họ Vũ bây giờ, người ta sẽ xây dựng lên những ngôi nhà khác và sẽ có những đôi mắt khác nhìn ngắm các vì sao.
Bà đoán biết thầy An-Rê cô độc đến mực nào, nhưng bà hiểu tại sao thầy lại tìm được hạnh phúc trong đó. Chính bà cùng run lên bên bờ sự cô đơn ấy trong lúc nhìn các vì sao.
Từ trong nhà, Giang kêu lên một tiếng đầy thất vọng:
- Bà ơi!
Nhưng bà Vũ không nghe tiếng kêu ấy.
Giang bỗng phát sợ. Chị rón rén đến nhìn khuôn mặt bà Vũ. Mặt bà thanh khiết, lạnh lẽo như đông lại. Đôi mắt đen to của bà vẫn nhìn ngắm trời cao. Giữa bóng tối lờ mờ ngoài sân, chỉ có tia sáng của ngọn bạch lạp từ thư phòng chiếu ra, mặt bà Vũ gần như trong suốt, màu trắng sữa.
- Chao ôi! Linh hồn bà bay mất rồi! Giang lẩm bẩm.
Rồi chị lại lấy tay vả vào miệng mình. Chị lùi bước khiếp sợ vì cảnh tượng ấy, và đi ngang qua sân không một tiếng động.
Bà Vũ mơ hồ nghe tiếng Giang, nhưng bà không quan tâm đến và không biết tại sao chị ta sợ hãi. Bà đã được giải thoát khỏi bốn bức tường này. Các bức tường ấy không đụng tới trời và cắt một mảnh vuông giữa các vì sao như bà đã tưởng. Và khi bà đã vượt cao khỏi chúng, bà sẽ thấy toàn thể vũ trụ trải ra trước mắt gồm bảy đại dương, các quốc gia và dân tộc mà bà chỉ biết qua sách vở, hai cực địa cầu với lớp băng tuyết không bao giờ tan, các vùng nhiệt đới với một cuộc sống tràn đầy mặt đất.
Bà tự bảo: "Từ trên các vì sao, chắc người ta thấy rõ mọi sự"
Đây là lần đầu tiên trong đời, bà ước ao ra khỏi bốn bức tường này, chu du khắp thế giới, thấy và biết mọi sự.
"Nhưng còn các vì sao nửa, bà tự hỏi. Làm cách nào để tới các vì sao?"
Bà nghĩ đến bà cụ Cố đã tan biến thành một linh hồn không sờ mó được, hay một nắm tro bụi đựng trong quan tài ít ra linh hồn cụ cũng ở vất vưởng trong nhà này.
Bà tự bảo: "Khi tôi được giải thoát, tôi sẽ rời bỏ nhà này. Tôi sẽ lên thẳng cho đến khi thấy các vì sao làm bằng chất gì".
Trong lúc mơ màng như vậy, bà Vũ không biết chị Giang đã đi qua sân và đang trở lại với ba người con trai của người. Cả ba đứng ngắm mẹ.
- Mẹ ơi! Lãng kêu trước tiên.
Chàng dịu giọng lại, vì chàng sợ hồn đã xuất khỏi xác Và nếu quả như thế thì phải chiêu hồn, làm cho nó say mê, đừng làm nó sợ hãi, kẻo nó không bao giờ trở lại nữa. Vì thể xác là cái lồng, linh hồn là con chim, một khi cửa lồng đã mở và con chim đã được tự do thì tại sao nó còn trở về? Phải dụ dỗ nó, phỉnh gạt nó.
- Mẹ yêu quý ơi! Lãng dịu dàng nói. Các con của mẹ đây này, các con đang chờ đợi mẹ đây.
Nhưng bà Vũ đang lúc xuất thần, bà không nghe một tiếng nào. Các con bà nhìn nhau khiếp sợ.
- Em đi gọi thầy đi, Lãng bảo Thế.
Thế vâng lời vội vã bước đi, còn các người khác làm thinh đứng đợi. Sợ linh hồn thoát xa hơn nữa. Ông Vũ chạy đến. Thu Minh chạy đến theo sau ông nhưng không ai thấy nàng.
- Đầu đuôi câu chuyện ra sao? Ông Vũ hỏi Giang.
- Vị Giáo sĩ ngoại quốc đã để bà lại như thế đấy.
Họ lại nhìn nhau sợ hãi.
- Mình ơi! Ông dịu dàng gọi bà.
Khuôn mặt bà Vũ trắng như giấy. Bà vẫn không đáp.
- Ái Liên! Ông kêu lên.
Ông không dám đụng đến bà. Đôi bàn tay bà rũ xuống như hai đóa hoa trắng và mềm.
Nhưng Thu Minh không nói gì. Nàng quỳ xuống chân bà, cởi đôi giày sa tanh bó chặt, cởi đôi tất lụa trắng và đưa tay xát hai chân trần của bà. Hai chân bà lạnh ngắt nên nàng ủ chúng vào ngực mình.
Ông Vũ nói với Thu Minh:
- Mình sẽ làm cho bà tỉnh lại quá mau chăng?
- Ồ không đâu, vì bà không sợ tôi.
Nàng ngước nhìn mọi người, người cha và ba người con trong mái nhà này nơi mà trời đã đưa đẩy nàng đến.
Ông Vũ nói cách trịnh trọng:
- Bà không sợ ai đâu.
- Bà không sợ tôi, vì không thương tôi, Thu Minh nói, rồi cúi nhìn hai bàn chân trần mà nàng đang cầm trong tay.
Lúc bấy giờ bà Vũ mới rời mắt khỏi các ngôi sao, quay lại, và thấy ba con trai. Bà nói:
- À, các con. Cả ba ở đây à? Các con muốn gì?
Thu Minh mang vội tất và giày cho bà. Bà Vũ nhìn thấy ông, nhưng dường như chẳng thấy Thu Minh.
- Sao mình lại ở đây? Bà hỏi ông với một giọng lạnh lùng và cách biệt.
Ai nấy đều hiểu rõ, hồn bà đã trở về một cách miễn cưỡng.
- Thưa mẹ, con chắc vợ con sắp có thêm một đứa con nữa, Lãng nói.
- Mẹ, con muốn dạy Tố Lan làm bánh mật…
Phan thì thầm:
- Mẹ ơi, hôm nay con đã nói láo với mẹ.
Từng người một, họ nhắc cho bà Vũ nhớ lại. Đến lượt ông Vũ nói:
- Mình ạ, trong nhà cần đến mình. Mình đừng quên đã đến lúc chia giống gieo mạ được rồi đấy.
Cuối cùng bà trở lại với họ, bà lẩm bẩm:
- Ôi, các người! Các người không bao giờ chấm dứt được các sự phiền não của mình sao?
- Không bao giờ… Lãng nói.
Tay bà Vũ sờ chiếc áo dạ lông đắp trên đầu gối bà; bà đứng dậy và để rơi chiếc áo. Bà từ các ngôi sao trở xuống và có mặt lại trong nhà. Bà nhìn quanh, như bị lóa mắt.
- Giang đâu rồi? Tôi thấy mệt… Tôi cần ngủ, mai sẽ hay, mai sẽ hay…
Các người đàn ông giãn ra để chị Giang đưa bà về phòng. Một mình trong bóng tối, Thu Minh lẻn ra ngoài. Nhưng các người đàn ông thì im lặng chờ đợi trong phòng khách bà Vũ. Họ nhìn nhau, lắng tai nghe ngóng cho đến khi Giang trở ra nói.
- Bây giờ bà đã yên lành vô sự - bà đã ngủ.
Bấy giờ họ mới ra về.
Khi ra khỏi khuôn viên bà Vũ, Lãng hỏi:
- Cha ơi! Cha giải thích được điều đó không? Từ trước đến nay, linh hồn mẹ con không bao giờ rời khỏi nhà, phải không nhỉ.
- Cha tự hỏi, không biết mẹ con gặp phải chuyện gì. Từ hôm lễ tứ tuần đến nay, mẹ con rất kỳ lạ.
Nhưng Phan lắc đầu:
- Không có ai trong nhà hiểu mẹ rõ bằng con, chàng nói. Con biết rõ những cảm nghĩ của mẹ. Mẹ biết, mẹ có cánh mà không bao giờ được phép bay. Ấy, mẹ nghĩ như thế đấy.
Ông Vũ, Lãng và Thế nhìn Phan như một người mất trí. Lát sau, mọi người chia tay và trịnh trọng chúc nhau an giấc.
Sáng hôm sau, bà Vũ thức dậy, rất khiếp sợ về điều đã xảy đến cho bà tối hôm qua. Trong đời bà, không có gì đối với bà có vẻ êm đẹp như những phút tự do tuyệt đối ấy, vì lúc bấy giờ linh hồn bà rồi khỏi thể xác. Bà cảm thấy rõ ràng sự tự do ấy có cơ trở nên một sự say mê cho linh hồn, một thứ men mà linh hồn không thể kháng cự lại như bợm nghiện đối với rượu. Vì trong lúc linh hồn phiêu lưu giữa các vì sao, thì chính bà xao lãng với tất cả mọi sự khác, trút bỏ hết tất cả những phiền muộn trong các dinh cơ này. Bà trút bỏ chúng và nói được là hoàn toàn xa lánh chúng như một bà vãi trốn tránh những đau đớn của sự sinh sản, hay một thầy tu trút bỏ gánh nặng của nợ râu mày. Sáng ấy, bà giận thầy Ân- Rê vì thầy đã nhượng bộ nó dễ dàng. Khi bà thức dậy, cái ý thức về điều lỗi hôm qua đè nặng lên bà, dường như bà đã chùng lên phó thác thân mình cho tình nhân.
Bà liền ngồi dậy, vẻ mặt nghiêm khắc. Bà xẵng giọng quở chị Giang chỉ vì những lỗi rất nhỏ nhặt. Bà chỉ đám bụi un lại sau một cái ghế bành lớn mà chị ít khi đụng đến, một mạng nhện giăng trên xà nhà đánh xi. Điểm tâm xong, bà tính sổ với anh đầu bếp và chỉ cho anh cách làm thức ăn trong những ngày sắp đến.
- Bây giờ đã gần mùa đông rồi, bà nói. Đừng có nấu canh dưa và các thức ăn mát như thế nữa. Phải nướng thịt heo, chiên thịt bò với đậu và thêm thịt vào các thức rau đậu.
Nghe thế, anh ta giương đôi mắt ti hí nhìn bà nói:
- Thưa bà, thế bà đã ăn ở đâu mà không thấy tôi đã bắt đầu làm những món ăn ấy? Đã bao năm nay có khi nào tôi đợi phải nhắc mới nhớ đến các mùa đâu!
Giọng nói cụt lủn của bà làm anh ngạc nhiên, vì người đầu bếp ấy chiếm hoàn toàn một chỗ chắc chắn trong nhà này. Anh tỏ ra hỗn xược khi anh muốn, vì anh có tính hay cáu như tất cả các người đầu bếp khác.
Nhưng bà Vũ không dịu giọng, bà quát:
- Cút đi! Đừng có kể cho tôi nghe những việc gì anh làm hay không làm.
Ngày hôm ấy bà không dành cho mình một chút nào cả. Khi người này ra, người khác lại vào. Bà đang bực mình vì việc anh bếp kỳ kèo, thì bà thấy ông Vũ đến. Ông không quên dậy sớm như thế.
- Mình cứ vào, bà nói. Tôi vừa tính sổ với anh bếp xong. Đôi khi tôi nghĩ, cần phải thay anh bếp này. Anh ta trở nên hỗn xược quá!
- Nhưng nó là người duy nhất biết cách nấu cua vừa ý tôi, ông Vũ nói cách lo lắng. Mình phải biết, tôi đã phải tìm khắp bảy tám tỉnh mới được nó đấy, và tôi đã phải cho nó lấy đứa ở của mình để cùm chân nó ở đây.
- Con Giang cũng hỗn xược nữa, bà Vũ nói.
Lối nói này không giống bà chút nào, đến nỗi ông Vũ ngẩn người ra. Ông ngồi xuống, rút ống điếu khỏi tay áo, nhét thuốc châm hút.
- Này, mình. Sáng nay mình không được khỏe, mắt mình mờ đi.
- Tôi khỏe lắm, bà trả lời, giọng nhát gừng.
Ông Vũ rít hai hơi thuốc, rồi đặt điếu thuốc xuống.
- Ái Liên này! Ông nói rất khẽ và trước tiên nhìn quanh để chắc không ai nghe được. Mình sống tách biệt khỏi tôi là một điều rất hại. Thực tế, vợ chồng ở riêng biệt nhau không có lợi cho sức khỏe, đó không phải chỉ là vấn đề nối dõi tông đường, mà còn là một vấn đề cân bằng sinh lý nữa. Này, mình xem, hiện mình như thế nào. Răng mình vẫn chưa long, tóc mình vẫn chưa bạc, thịt mình vẫn chắc, máu vẫn hăng. Vậy mình hãy quên rằng chúng ta…
- Thôi mình đừng nói nữa, bà bảo ông, rất cương quyết. Mình biết tôi không phải là người hay thay đổi. Tôi đã xếp đặt đời sống của tôi. Có phải mình cảm thấy không bằng lòng nên đến đây để nói những lời ấy với tôi?
- Dĩ nhiên là tôi sẽ rất sung sướng được chung sống lại với mình, vì tôi yêu mình hơn tất cả mọi người, yêu cho đến khi tôi nhắm mắt lìa đời… nhưng không phải vì tôi mà tôi nghĩ thế.
Bà nhấn mạnh:
- Đừng nghĩ đến tôi, vô ích.
Phút chốc, trong trí ông thoáng hiện ra một sự nghi ngờ tàn nhẫn rằng, vợ ông, vì một sự thay đổi kỳ dị của bản chất, đã để lại tinh thần say mê vị giáo sĩ ngoại quốc kia. Nhưng ông hổ thẹn không dám nói ý nghĩ ấy ra. Ông biết bà rất tao nhả trong tất cả mọi sự. Ngoài tính chất giáo sĩ ra, người ấy lại là một người ngoại quốc! Ngay ngày trước, hồi ông Vũ còn trẻ trung và hăng nồng, ông cũng đã từng cảm thấy phải kiên nhẫn để tắm gội, làm cho hơi thở và thân xác thơm tho trước khi đến với vợ. Nhưng các người ngoại quốc thì đều tanh hôi, tanh hôi đến tận xương tủy, vì da thịt của họ thô, mồ hôi nhiều và tóc rậm. Ông xua đuổi tư tưởng quái dị ấy đi, vì sợ với cái trực giác thần diệu của bà, bà có thể đoán ra và gây sự.
Bởi thế cho nên ông viện đến các phương sách độc nhất và chắc chắn sẽ làm cho bà chú ý đến ông. Ông lấy một giọng buồn rầu và phàn nàn về sức khỏe của mình. Ông nói:
- À, mình nói phải. Chính tôi cũng già đi. Tôi thường bị sôi ruột, ban đêm ngủ không yên giấc và sáng dậy thấy trong người mệt mỏi.
Nhưng bà vẫn tàn nhẫn:
- Bữa tối, mình hãy ăn ít đi một chút và hãy ngủ một mình trong vài đêm.
Ông bỏ lửng câu chuyện và ngồi lì, môi dưới trề ra. Bà giẫm chân lên trên nền đá hoa và thở dài. Rồi bà đứng dậy rót trà cho ông. Ông thấy những ngón tay thon nhỏ của vợ run run khi giở nắp bình, nhưng ông vẫn làm thinh. Ông uống trà và bà cũng nâng chén uống. Rồi ông đứng dậy và đi ra.
Ông đi chưa đến cửa thì bà gọi giật lại bằng một giọng trong trẻo và rõ ràng, chắc như tiếng bạc:
- Lần này nữa, mình lại bỏ quên cái điếu.
Ông quay lại, khuôn mặt đỏ bừng.
- À, phải rồi. Tôi bỏ quên.
Bà đứng ở ngưởng cửa, đưa tay chỉ cái điếu như một vật ghê tởm, còn ông thì trở lại với dáng điệu của một cậu bé bị ăn đòn. Ông cầm cái điếu, đi ngang qua trước mặt bà, hai môi cắn vào nhau và hai má đỏ bừng. Bà đưa mắt nhìn theo ông và đột nhiên cảm thấy trong lồng ngực mình đau nhói.
Nhưng bà chưa kịp hoảng sợ vì điều ấy thì cô Hsia đã hiện ra. Người đàn bà xanh xao đáng thương ấy rất tiều tụy; nhưng không biết làm gì hơn, bà mời cô vào ngồi chơi.
- Đã lâu lắm rồi tôi không gặp bà, cô Hsia nói với giọng nói đột ngột và đứt quãng.
Bà Vũ đã quen hiểu nghĩa những lời cô nói, mặc dầu không phân biệt được, vì cô Hsia không thể điều khiển nổi cái lưỡi cũng như hơi thở của cô. Tiếng nói cô dồn dập, trầm dịu đi khi đáng phải cao mạnh, và cao mạnh khi đáng phải trầm dịu. Giọng cô lên xuống không mảy may ăn khớp với các tiếng.
- Này cô, cô bị ốm phải không? Bà Vũ hỏi.
- Không, nhưng hôm đến đây lần cuối cùng, tôi có cảm tưởng như tôi là kẻ hay quấy rầy.
- Ồ! Sao lại có thể như thế được? Bà Vũ lễ pháp nói.
- Bà khả ái quá!
Cô đón nhận câu nói lễ phép của bà Vũ một cách vô tâm.
- Hôm nay tôi đến nói với bà một việc rất đặc biệt. Bà Vũ thân mến, xin lỗi bà, tôi đã vạch một dự định và nếu bà chấp thuận…
- Dự định gì thế?
- Bà biết vị giáo sĩ ấy không? Cô Hsia hỏi.
- Vị giáo sĩ dạy con trai tôi à?
- Vị giáo sĩ ấy có một ngôi nhà dành cho những đứa trẻ vô thừa nhận. Đã lâu tôi tự bảo, hẳn phải có một người đàn bà để xem sóc chúng đôi chút. Vị giáo sĩ chỉ có một bà già giúp việc. Nhưng thưa bà, phải dạy chúng học nữa. Bà có đồng ý như thế không? Nghĩa là tôi muốn bà nhận giới thiệu tôi làm giáo viên.
- Tại sao cô không thân đến xin việc ấy?
- Bà cũng hiểu chứ, tôi không đồng tôn giáo với ngài.
- Vậy người ngoại quốc có bao nhiêu tôn giáo nhỉ? Bà Vũ hỏi. Lâu lâu tôi lại nghe thêm một tôn giáo mới.
- Chỉ có một Thiên Chúa chân thật mà thôi, cô Hsia trả lời long trọng.
- Cô có tin Thiên Chúa ấy không?
Cô Hsia mở to đôi mắt xanh nhạt, giơ tay sửa lại một nụ tóc vàng trên má.
- Nếu không tin thì tôi bỏ nhà cửa quê hương đến ở trong cái nước kỳ lạ này làm gì?
- Nước chúng tôi kỳ lạ đến thế ư?
- Tôi thấy thế.
- Thiên Chúa của cô có bảo cô đến đây không?
- Có, Người có nói.
- Cô nghe tiếng Người nói à?
Cô Hsia đỏ mặt. Hai bàn tay dài và trắng của cô đặt lên ngực.
- Tôi đã cảm thấy giọng nói Người. Tôi đã nghe giọng nói của Người.
Bà Vũ ngắm cô:
- Nhưng song thân cô không bao giờ lo cho cô lấy chồng sao?
Hai bàn tay của cô Hsia để trên ngực khẽ co lại một tí.
- Ở xứ tôi, hôn nhân không phải do cha mẹ sắp xếp. Đàn ông và đàn bà tự kết bạn với nhau vì tình yêu.
- Có bao giờ cô yêu chưa? Bà Vũ hỏi cách bình tĩnh.
Đôi bàn tay cô Hsia rơi trên gối.
- Dĩ nhiên là có, cô trả lời đơn giản.
- Nhưng sao cô không kết hôn?
- Ở xứ tôi, cô Hsia đau đớn nói, người đàn ông phải ngỏ lời xin cưới người đàn bà.
Bà Vũ làm thinh. Bà có thể hỏi tiếp một cách dễ dàng, nhưng vì quá tốt bụng nên lại thôi. Bà biết không ai muốn xin cưới cô Hsia làm vợ.
Mặc dầu hai mắt cô ấy đầy lệ, Hsia bạo dạn ngước mắt lên.
- Về phần tôi, Thiên Chúa đã dành cho tôi những chương trình khác.
Giọng nói của cô có sắc vui.
Bà Vũ thân mật mỉm cười:
- Tôi không biết rõ cô sao?
Bà lấy cái điếu bạc nhỏ, châm hút hai hơi dài rồi đặt xuống. Bà nói:
- Ở đây, trong xứ tôi, chúng tôi không để những chuyện quan trọng như hôn nhân cho đàn ông, đàn bà hay là trời định. Hôn nhân cũng như việc ăn và ở, phải do những người khác sắp đặt, nếu không thì người này sẽ nhiều quá mà người khác lại không có đủ. Trong nhà tôi, tôi qui định phần ăn cho mọi người, ngay cả bọn nô tỳ cũng thế. Mỗi người đều được lãnh phần mình. Dĩ nhiên là có người thích món này hơn món kia. Nhưng nếu tôi để tự do chọn lựa, thì lũ trẻ chỉ ăn kẹo, ông nhà tôi chỉ ăn cua và các thức ăn béo. Có những tên nô bộc hư ăn, ăn quá nhiều không chừa lại chút gì khiến những đứa nhút nhát phải chịu đói. Tôi cấp cho mỗi tên nô bộc một phần ăn nhiều hay ít tùy nghi, mỗi người trong gia đình một phần ăn ngon hay dở chừng nào tùy tiện, để ai cũng được tôi săn sóc cấp dưỡng.
Cô Hsia gài mấy ngón tay vào nhau.
- Tôi không hiểu sao chúng ta lại đi nói những chuyện ấy. Tôi đến để nói với bà một chuyện, thật ra, tôi cũng quên mất là chuyện gì.
- Cô quên, vì thật ra nó không có trong trí cô, bà Vũ khoan hòa nói. Tôi xin trả lời cho cô rõ: không nên, cô Hsia ạ! Tôi nói với cô, hãy để thầy An-Rê yên tĩnh. Thầy là một núi đá to lớn, rất cao, và vì quá cao nên khó lên tới đỉnh. Cô không nên đụng chạm vào ngọn núi cheo leo ấy. Cô sẽ bị thương tổn, xác thịt cô sẽ bị rách nát và óc não cô sẽ bị tan ra như cháo, nhưng thầy, thầy lại không biết. Tôi khuyên cô, cô hãy chăm lo về Thiên Chúa của cô.
Cô Hsia xanh ngắt cả người, xanh đến cả đôi môi.
- Tôi không hiểu lời bà nói, cô ấp úng. Đôi lúc tôi tưởng bà là người rất xấu – bà có những tư tưởng ấy – bà mớm những tư tưởng ấy cho tôi – tôi không có những tư tưởng như thế.
- Cô đừng có xấu hổ vì những tư tưởng của cô, bà Vũ hòa nhã nói. Đó là những tư tưởng tốt, vì cô là người tốt. Nhưng cô quá đơn độc, cô rất ước ao được thoát khỏi sự cô độc. Nhưng cô phải cô độc như thế, vì đó là số mệnh của cô. Cuộc đời đã tỏ ra không phòng xa đối với những người như cô. Nước cô là một nước kỳ lạ và độc ác. Chính cha mẹ cô cũng không sự liệu gì cho cô khi mà cuộc sống đã chối từ điều đó. Cô Hsia ạ, tôi muốn sắp đặt hôn nhân cho cô, nhưng đây không có một người đàn ông nào giống như cô cả.
Cô Hsia lắng nghe. Đột nhiên cô khóc dầm dề, xung giận:
- Bà thật đáng ghét! Cô kêu lên. Bà… Bà… tôi không phải như thế… Các bà đều như thế cả… Các người đàn bà Tàu của bà… các bà chỉ nghĩ đến điều ghê tởm ấy.
Bà Vũ rất ngạc nhiên.
- Cô Hsia ạ, bà nói. Tôi nói về cuộc sống, về cuộc sống của người đàn ông và cuộc sống của người đàn bà – tôi thương hại cô, tôi sẽ giúp đỡ cô, nếu có thể được…
- Tôi không muốn bà giúp đỡ tôi, cô Hsia nức nở nói. Tôi chỉ muốn phục sự Thiên Chúa.
- Thật là tội nghiệp, bà Vũ lẩm bẩm. Này, vậy thì cô hãy đi phụng sự Thiên Chúa của cô.
Bà đứng dậy, thân ái cầm tay cô Hsia đưa ra tận cửa, giã từ, và nhất định không bao giờ gặp lại cô ấy nữa.
Bà bình tĩnh ngồi xuống, đôi mắt đầy cảm xúc xót thương. Bỗng chị Giang hổn hển:
- Thưa bà, Cậu cả… vợ cậu cả đang chuyển bụng.
- Thế à? Vậy, chị đi mời mẹ cô ấy đi. Tôi sẽ đến ngay.
Bà đứng dậy đi vào phòng, rửa tay rất cẩn thận và cởi áo cụt lụa để bận một cái áo cụt khác bằng xa tanh tinh sạch hơn. Rồi sau khi xức nước hoa vào tay và hai má, bà đi đến nhà Lãng.
Cái tin ấy đã làm cho bà Vũ hài lòng. Trong một nhà, không có gì cảm động cho bằng việc một đứa trẻ ra chào đời. Trong việc sinh con, bà Vũ không cảm thấy lạc thú riêng; nhưng sau mỗi lần sinh, bà cảm thấy mình được thanh khiết ra và đổi mới. Bà không lo sợ cho Mai chút nào. Mai còn trẻ, khỏe mạnh và sây con.
Cũng như mọi trường hợp sinh nở khác, hôm ấy là ngày của các bà. Tại nhà Lãng rất đông đàn bà, những đứa tớ gái, những chị bà con trong họ chạy lăng xăng. Chính lũ trẻ cũng vừa cười vừa tung tăng tìm cách giúp đỡ như xách nước, mang trà. Mặc dù cái dinh cơ này đã đông người ở, nhưng ai cũng vui mừng đón nhận một hài nhi mới ra đời. Và vì Mai là dâu trưởng nên trong kỳ sinh nở này địa vị của nàng được cao trong thêm.
Khi bà Vũ vào trong sân, một bà già trong họ nói:
- Được thêm một cậu quí tử nữa thì hay biết bao! Vì nếu cậu đầu có mệnh hệ nào thì vẫn còn cậu sau. Nhà có nhiều con trai thì không sợ gì cả.
Khi bà Vũ vào nhà, mọi người đều đứng dậy. Người ta đã dành cho bà chỗ tốt nhất, bà ngồi xuống. Giữa sự lặng thinh đột ngột ấy, bà nghe có tiếng thì thào chào đón bà. Tố Lan với tư cách là nàng dâu thứ, đứng dậy rót trà mời mẹ chồng. Chính nàng cũng làm thinh không nói gì.
- À, Tố Lan! Bà nói.
Bà liếc nhìn người thiếu phụ, nàng có vẻ xanh xao. Không bao giờ bà Vũ nhìn thấy Tố Lan mà không nhớ lại lần nàng khóc giữa đêm khuya, dạo trước. Rồi bà thấy Liên Chi ngồi cách đấy một chút. Nàng đang cắn hột dưa và thổi vỏ xuống đất. Bà dằn lòng không khiển trách nàng. Vài phút nữa bà Khương sẽ đến, tốt hơn là đừng làm Liên Chi bối rối. Liên Chi đứng dậy khi cảm thấy đôi mắt bà mẹ chồng đang nhìn mình. Bà Vũ nói:
- À, Liên Chi!
Rồi bà thăm hỏi đến việc sinh nở. Mụ đỡ trong phòng Mai chạy ra vì nghe bà Vũ đến. Bà Vũ hỏi mụ:
- Công việc ra sao đó?
- Thưa bà, mọi việc đều yên ổn cả, mụ đáp.
Đó là một người đàn bà hạ cấp, mập mạp, ba hoa và vui tính. Mụ ta đỡ đẻ cho bất cứ nhà nào. Nhưng mụ rất sung sướng được đỡ đẻ cho các nhà giàu, vì mụ sẽ được tiền thưởng. Nhất là đứa hài như ra đời yên hàn vô sự là con trai.
Mụ hớn hở nói:
- Chắc là trai, vì cái thai của mợ cả nằm rất cao.
Giọng Mai vang lên sang sảng với những tiếng kêu chéo véo, khiến mụ đỡ phải hối hả chạy vào phòng. Hơn nửa giờ sau, bà Khương tất tả chạy đến. Bà bận một bộ áo quần rộng lùng thùng, trông bà gần như không có hình dáng. Khi bà bước vào, mọi người không ai nói gì, vì tò mò và vì thương hại. Bà biết thế nên nói để chữa thẹn:
- Ồ, chào các chị. Các chị đã tề tụ ở đây cả kìa! Các chị lo lắng cho bọn tôi, thật là quý hóa!
Rồi bà nói với bà Vũ:
- Này chị Cả, cháu nó ra sao?
- Tôi đang đợi chị đến, chúng ta cùng vào.
Cả hai bà cùng vào trong phòng sinh. Mai đang nằm trên một cái giường hẹp, mồ hôi chảy dọc theo hai má nàng và thấm ướt cả đầu tóc dài. Họ tới đứng hai bên giường và cầm lấy tay nàng.
- Mẹ ơi!... Mai hổn hển nói. Con đau hơn lần trước nữa!
Bà Khương đáp:
- Không đâu con ạ, con sẽ sinh mau hơn nhiều.
- Con đừng nói chuyện. Bây giờ là lúc phải gắng sức.
Mai bám vào bàn tay mát mẻ thon nhỏ của bà Vũ và bàn tay mập mạp nóng hổi của bà Khương. Nàng ước ao dựa đầu vào ngực mẹ khóc, nhưng không dám, vì sợ thất lễ với mẹ chồng. Máu nóng xông lên một mùi hăng khắp phòng. Mụ đỡ loay hoay làm việc.
- A, cậu bé đã ra đời! Mụ kêu lên. Đã thấy đầu cậu rồi!
Mai run rẩy kêu la, và cấu chặt hai bàn tay mà nàng đang cầm. Cả hai bà đều giữ chặt lấy bàn tay nàng. Nàng nghiêng đầu cắn vào hai bàn tay mình trong tay mẹ. Bà Khương ôm lấy nàng và ghì sát vào lòng, bà âu yếm nói:
- Sao con lại cắn tay con!
Nhưng Mai cong người lại, và sự đau đớn đã làm cho thể xác uốn lên như một chiếc cầu vồng. Nàng há hốc miệng ra và kêu lên, tiếng rên to dần, cuối cùng chấm dứt bằng một tiếng thét. Bà Khương buông tay nàng, đẩy mụ đỡ ra và đưa hai tay cầm lấy hài nhi. Bà trịnh trọng nói:
- Ồ, lại trai nữa!
Đứa trẻ khóc thét lên. Bà Vũ mỉm cười với cái khuôn mặt bé nhỏ, nhăn nheo, xung giận của đứa trẻ. Bà âu yếm nựng cậu bé:
- Ồ, cháu giận, cháu giận vì phải sinh ra…
Rồi bà tiếp:
- Mai này, con hãy nghe nó nói. Nó trách tất cả chúng ta đấy.
Nhưng Mai không đáp. Nàng đã thoát khỏi các sự đau đớn, nàng nằm dài nhắm mắt như một đóa hoa rụng xuống sau cơn mưa.
Chiều hôm ấy bà Vũ và bà Khương ngồi với nhau. Trong nhà mọi sự đều xuôi thuận. Đứa bé mới sinh khỏe mạnh, mẹ nó đang ngủ. Hai bà đều thỏa mãn như nhau. Bà Vũ không nói gì về cái bụng phình to xấu xí của bà Khương, tránh cho bạn khỏi phải buồn khổ. Trong khi hai người đang chuyện vãn dông dài thì một bóng người ngã dài lướt ngang trước khung cửa mở. Đó là thầy An-Rê, thầy đến dạy Phan như thường nhật.
Bà Khương hỏi:
- Vị giáo sĩ ngoại quốc phải không?
Bà Vũ đáp:
- Thầy ấy vẫn đến đây dạy Phan học.
Chiều hôm trước, linh hồn người đàn ông ấy bao quát các bức tường cao, bà xem như là đã xa xôi lắm. Chiều nay, bà thấy mình bị ràng buộc bởi đứa hài nhi mới sinh. Thế là thêm một miệng ăn, một tâm hồn mà bà cảm thấy có bổn phận phải nuôi dưỡng, giáo huấn.
Bà Khương nói:
- Đối với một giáo sĩ cũng như một bà phước, thật tôi không hiểu họ cũng như không hiểu một tiếng ngoại quốc nào!
Bà Vũ mỉm cười:
- Ồ, chị thì… chị thì…
Bà Khương cười láu lỉnh, và vuốt ve cái bụng to tướng của mình. Bà nói:
- Khi chỉ có một mình, tôi rất hạnh phúc. Tôi sung sướng được có thêm một đứa con nữa.
Bà Vũ hết sức ngạc nhiên khi thấy trên khuôn mặt hồng hào của bạn, đã rất xa thời thanh xuân, có một sự thỏa lòng thần diệu, giống như sự thỏa lòng mà bà đã thấy phản chiếu trên khuôn mặt của thầy An-Rê chiều hôm trước. Tình bằng hữu giữa hai bà bao giờ cũng liên hệ đến cái tính chất phụ nữ của họ. Bà Vũ biết bạn mình không biết chữ. Đối với bà Khương, đọc sách là một việc mất thì giờ, khi người ta có thể dùng thì giờ ấy để sinh ra đời một đứa con.
Bà Vũ tươi cười âu yếm hỏi:
- Chị Mỹ Trinh à, chị thật là ham hố. Chị không muốn nhường việc sinh con lại cho những người trẻ sao? Thật giống như chị sinh cháu của chị vậy. Thế chị không bao giờ ngừng cả sao?
Bà Khương thở ra và giả vờ xấu hổ:
- Chao ôi! Được như vậy khoái biết bao!
Bà Vũ tò mò hỏi:
- Ngoài sự sống hàng ngày của chị, chị không bao giờ mong ước gì khác cả sao?
- Không bao giờ. Tôi chỉ mong cứ sinh con năm một như vậy mãi. Nếu hết sinh đẻ thì tôi còn có ích lợi gì?
Chiếc bóng mảnh dẻ và thanh lịch của Phan lướt ngang trước khung cửa. Bà Vũ nhìn ra và nói:
- Phan đi học.
Hai bà nhìn chiếc bóng nghiêng ấy xa dần.
- Liên Chi…
Hai bà cùng thốt ra tên ấy một lượt, rồi đều ngừng lại, và người này đợi cho người kia nói hết câu.
Bà Khương bảo bạn:
- Chị nói tiếp đi.
Bà Vũ nhấn mạnh:
- Không, chị là mẹ cô ấy kia mà!
- Không, tôi không muốn nói.
Một lát sau, bà Vũ nói.
- Thế thì tôi nói vậy. Chị Mỹ Trinh, Phan không được hạnh phúc với con gái chị. Thật là tai hại, vì chị không dạy con chị cách làm cho chồng được hạnh phúc.
- Sao, cậu Phan ấy à? Bà Khương kêu lên, làm bà Vũ ngạc nhiên. Cậu Phan không được hạnh phúc sao?
Và bà nói tiếp ra vẻ khinh thị:
- Chị Ái Liên! Tôi có thể nói thẳng với chị rằng, chính Liên Chi mới là người khổ sở.
Bà Vũ chậm rãi nói:
- Chị Mỹ Trinh. Chị suy nghĩ lại đi.
Bà Khương đáp:
- Vâng, chị tưởng chị đã hướng dẫn cậu Phan nên tử tế. Nhưng Liên Chi đã phải khổ sở vì cậu ấy. Trong đời sống vợ chồng phải có hai người. Người ta đâu có thể vỗ tay được với một bàn tay! Chị không dạy cho cậu Phan biết nhiệm vụ làm chồng.
- Tôi? Bà Vũ kêu lên.
- Đúng thế. Cậu Lãng giống cha. Cậu có những bản năng của người đàn ông nên con Mai nhà tôi được hoàn toàn thỏa mãn. Nhưng cậu Phan thì bắt chước chị.
Bà Vũ chua chát:
- Nghĩa là cậu ấy đòi hỏi một cái gì phi thường?
Bà Khương lắc đầu:
- Cậu ấy chỉ tìm những gì đâu đâu! Cậu ấy học xong, chị hãy kiếm cho cậu một việc làm ở chỗ khác để nhận chìm sự bất mãn của cậu ấy đi, chứ con Liên Chi nhà tôi có làm gì đâu!
Bà Vũ kêu lên:
- Mỹ Trinh! Chị đã làm nhục tôi.
Bà Khương đáp:
- Tốt hơn cả là con Liên Chi trở về nhà một ít lâu. Chị và cậu Phan cứ nghiên cứu sách vở và không cần nó đi, cho đến khi nào chị và cậu ấy nhận rõ giá trị của nó.
Bà Vũ nhận thấy mối tình mật thiết giữa hai người đang lung lay và sắp sụp đổ. Bà kêu lên:
- Chị Mỹ Trinh này, phải chăng chúng ta sắp cãi nhau?
Bà Khương hăng máu nói:
- Bao giờ tôi cũng là một người bạn tốt đối với chị, dầu khi tôi thấy chị có những tư tưởng vượt quá tư tưởng của một người đàn bà. Nhưng bao giờ tôi cũng hiểu, chị vì khôn ngoan và thông minh quá, nên khó mà giữ được hạnh phúc, tôi đã có lần nói với nhà tôi như thế.
- Hai ông bà có nói với nhau về chuyện tôi sao?
Giọng bà Vũ quá bình tĩnh.
- Vâng, bà Khương đáp. Chúng tôi nói về chị chỉ vì quý mến chị.
Vừa nói, bà vừa đứng dậy sửa chiếc áo rộng và nặng nề đi ra.
°
° °
Tối hôm ấy, đã khuya, khi bà Vũ vào giường nằm, chị Giang nói:
- Thưa bà, bà có biết bà Khương đã đem vợ cậu ba về nhà rồi không?
- Biết rồi, bà Vũ đáp.
Bà nhắm mắt như sắp ngủ, nhưng bà không ngủ nghỉ gì cả. Không bao giờ bà tưởng tượng bà Khương có thể đến đem con về, xem như Liên Chi còn thuộc quyền của bà ta. Bà Vũ nằm dài.
Tối hôm ấy bà không sao chợp mắt được, vì quá xung giận.
Nếu bà Vũ là người tiểu tâm, thì bà đã ngang nhiên chống lại bạn mà không chút hối hận. Nhưng trái lại, bà tự trách mình vì đã có phần sơ suất. Bà luôn luôn biết rằng, tình bạn của bà với bà Khương là một thứ tình bạn về nhà cửa ruộng vườn, con cái. Vậy sao bà không cứ để nguyên cái tình bạn tầm thường dựa trên vật chất danh giá ấy, mà lại đi mở ra những chân trời cao xa cho bạn bà sợ hãi? Mọi tạo vật đều hoảng sợ khi thấy mình bị kéo lên quá mức. Và sự sơ hở ấy chỉ khơi rộng thêm cái hố chia cách giữa Phan và Liên Chi. Vì, bắt một cô vợ trẻ rời bỏ nhà chồng về nhà cha mẹ đẻ, cố nhiên là một điều rất quan trọng. Bà Vũ cho gọi Phan, chàng đến với một khuôn mặt nhợt nhạt nhưng rất bình tĩnh.
Bà nói:
- Con ơi, mẹ cho gọi con đến để thú lỗi với con. Mẹ đã cãi nhau với mẹ của Liên Chi. Như hai người đàn bà khờ dại, người nào cũng bênh vực con mình, và bà ta đã đem con gái về nhà. Mẹ thấy cần phải nói với con điều ấy để con đừng đổ lỗi cho Liên Chi. Chúng ta phải yêu cầu Liên Chi trở lại nhà chúng ta.
Bà kinh hãi thấy Phan lắc đầu. Chàng nói:
- Thưa mẹ, việc đã xảy ra như thế nào xin mẹ hãy để yên thế ấy. Liên Chi và con không hợp nhau.
- Sao con lại có thể nói như thế được!
Bà Vũ nghe tim mình chạm vào làn áo xa tanh lót dày, vì tim bà đập quá mạnh. Ban sáng trời lạnh, nên bà đã mặc áo lót.
Bà nói:
- Bất cứ người đàn ông và đàn bà nào cũng có thể hòa thuận với nhau bằng lý trí. Hôn nhân là một việc chung của cả gia đình. Phan ạ, đó là kỷ luật. Người ta không nên chỉ nghĩ đến riêng mình.
Phan đáp:
- Thưa mẹ, con biết tiền nhân đã dạy mẹ như vậy, và chính mẹ cũng đã dạy chúng con như thế. Nếu con là con một, thì con cũng vì nghĩa vụ mà vâng theo. Nhưng còn có hai anh con. Xin mẹ để cho con được tự do.
Bà Vũ ngồi trong ghế bành, nghiêng mình về đàng trước, hai tay chắp lại.
- Phan ơi! Con hãy nói cho mẹ nghe, giữa con và Liên Chi đã xảy ra chuyện gì? Mẹ là mẹ con.
Phan cứng đầu:
- Không gì cả.
Bà Vũ kinh hoàng:
- Không gì cả sao? Con muốn nói chúng con ngủ chung một giường mà không xảy ra chuyện gì cả sao?
- Ồ, thưa mẹ. Tại sao mẹ cứ tưởng rằng giữa người đàn ông và đàn bà chỉ có thể xảy ra chuyện ấy mà thôi?
Bà Vũ nhấn mạnh:
- Nhưng đó là việc chính.
Phan cắn môi:
- Thế thì vâng, thưa mẹ đó là việc chính. Nhưng sau đó con còn ước mong một cái gì hơn nữa kia.
- Con ước mong gì?
Phan phác một cử chỉ, chàng nói:
- Một cuộc nói chuyện nào đó, một sự hiểu biết nhau, một tình bạn – nghĩa là một cái gì theo sau khúc nhạc mở đầu. Con muốn nói là sau khi người ta chấm dứt các sự chung đụng về xác thịt.
- Nhưng ở tuổi con, người ta sẽ không bao giờ chấm dứt sự chung đụng về xác thịt.
Bà bắt đầu nhận thấy mình không thể hiểu Phan. Bà đã xem tất cả mọi người đàn ông đều là những con người thuộc giống đực. Xưa kia bà đã phải bật cười về một câu chuyện ngoại quốc mà bà đã đọc. Một câu chuyện cổ Hy- Lạp kể một người đàn bà có chồng, say mê một người đàn ông khác chỉ vì người ấy có hơi thở trong sạch. Người đàn bà ấy không biết ai khác ngoài chồng mình, nên đã tưởng tượng hơi thở hôi hám là một đặc điểm của người đàn ông. Bà Vũ nhận thấy mình cũng khờ dại như người đàn bà ấy, vì đã đoán xét tất cả đàn ông như nhau. Chính bà đã sinh ra một người đàn ông khác hơn là một con người thuộc về giống đực. Điều đó làm bà ngạc nhiên đến nỗi bà ngồi ngắm nhìn con một lúc lâu.
Hình như Phan không biết vẻ nhìn chăm chú ấy. Chàng ngồi cúi xuống, hai vùi tay chống trên hai đầu gối rời nhau, hai bàn tay chắp lại buông thõng xuống.
Bà Vũ nói rất nhỏ:
- Mẹ cảm thấy mẹ không thể dạy bảo con gì. Mẹ nhận thấy mẹ đã cưỡng ép con người của con.
Phan ngẩng đầu lên và thấy mẹ rưng rưng nước mắt.
- Con quan niệm sự tự do của con như thế nào? Bà hỏi. Con hãy nói cho mẹ nghe rồi mẹ sẽ chiều ý con.
- Con muốn đi, đi ra khỏi nhà này.
Câu nói ấy đả xé nát trái tim bà Vũ. Nhưng bà chỉ nói:
- Con muốn đi đâu? Nếu thầy An-Rê không bao giờ vào đây thì con có nghĩ đến điều ấy không?
Bà hỏi con như thế và lòng đầy hối hận.
Chàng đáp:
- Con cũng sẽ nghĩ đến, nhưng con không biết sẽ phải giải quyết ra sao. Thầy An-Rê đã chỉ đường cho con.
Bà không trả lời, yên lặng suy nghĩ.
Rồi cuối cùng bà thở ra và nói:
- Được lắm con ạ! Con hãy đi và được tự do.