Chương 9
Non một tháng sau, khi tuyết bụi bắt đầu rơi, Phan lên đường. Trong nhà ai nấy đều ra đứng ở cổng để tiễn chân chàng. Con đường chạy ngang qua trước cổng ấy, đưa đến tận sông, và ngoài bà Vũ ra chỉ đàn ông mới theo chàng đến tận bến. Người ta mang hành lý cho chàng, đỡ chàng bước lên chiếc ca nô bập bềnh trên sóng nước. Chiếc ca nô ấy sẽ chở chàng đến một chiếc xà lúp. Chiếc xà lúp sẽ mang chàng đến một chiếc tàu đậu ở sông rộng. Rồi chiếc tàu sẽ đưa chàng ra bể, ở đó, một chiếc hải thuyền lớn đang đợi chàng. Trên mặt đất, tuyết phủ trắng xóa, bầu trời nặng nề màu xám nhạt. Người ta đẩy xuồng máy rời khỏi bờ. Những nụ tuyết tan dưới mái chèo các thủy thủ, những tiếng gọi chào tiễn biệt vang lên, bà Vũ không nói một tiếng nào. Bà đứng yên chiếc bóng nhỏ, rất thẳng, thu gọn trong cái áo khoác lông và lặng nhìn con rời xa bờ sông quê cũ.
Bà lo sợ và buồn rầu, nhưng tự nhủ lòng: ‘Nó được tự do".
Rồi thu mình trong áo khoác, bà trở về nhà.
Phan ra đi, thầy An-Rê phải nghỉ dạy. Nhưng bà Vũ xin thầy cứ tiếp tục đến dạy cho Liên Chi thay Phan.
Bà nói với thầy, giọng rất bình tĩnh:
- Khi con trai tôi trở về, tôi muốn vợ nó cũng biết một ít những điều nó sẽ học.
Câu chuyện Phan và Liên Chi tái hợp như sau.
Một hôm nọ, bà Vũ tới nhà bà Khương, dịu dàng nói chuyện với Liên Chi trước mặt mẹ nàng.
Bà cho Liên Chi biết Phan sắp đi xa và khuyên nàng trở về. Như vậy, để nàng có thể có thai trước khi chàng lên đường.
Bà nói:
- Mẹ yêu cầu con điều đó không chỉ vì lợi ích cho gia đình, mà còn là sự lợi ích của riêng con. Mẹ sợ con ở nhà một mình mà không có con, quả có nhiều điều bất tiện.
Trong lúc nói chuyện, bà quan sát Liên Chi – một khuôn mặt xinh đẹp, ích kỷ, bà tự bảo, những người mẹ tốt bao giờ cũng có những đứa con ích kỷ. Chị Mỹ Trinh quá tốt, chị quá nuông con. Chúng xem nhà và mẹ chúng như trời và đất.
Bà nói tiếp:
- Khi chồng đi xa, đàn bà ở nhà không có con là điều không hay.
Bà Khương hết lòng phụ họa theo. Từ khi cãi vả với bạn, bà hối hận đã vì Liên Chi mà sinh ra giận dữ. Vì, nếu bà Khương do một con xúc động mà đem con về nhà, thì sau vài ngày bà không thể không nhận thấy con bà là một cô bé ương ngạnh. Liên Chi là đàn bà có chồng về nhà cha mẹ, nhưng nàng đã cư xử như một cô gái con nhà giàu chưa chồng. Nàng dậy trưa, đi vơ vẩn ngoài hoa viên, khăn tay rơi xuống đất nàng cũng không thèm lượm, mà sai con ở. Bà Khương cũng đã la rầy Liên Chi. Bà thầm nghĩ: Phan phàn nàn là phải. Khi bà biết chàng rể sắp đi xa, bà thiết tha mong con bà trở lại với chồng.
Bà thường nói:
- Cô thuộc về gia đình họ Vũ. Cô không còn thuộc về gia đình này nữa.
Bà Vũ thầm nghĩ: Làm sao để uốn nắn con bé ranh này nên người vợ tốt! Điều này không chỉ vì lợi ích cho gia đình mà còn vì hạnh phúc của riêng ta nữa.
Chính lúc bà nghĩ như vậy thì bà nhớ đến thầy An-Rê. Ngồi đây mà bà hình dung được thầy, một người to lớn, kiên nhẫn, da nâu. Nhưng liệu thầy có dạy một thiếu phụ được không?
Bà Khương bảo con:
- Cô phải về với chồng cô ngay trong đêm nay.
Rồi bà đuổi Liên Chi đi, cũng với cái vẻ hăng hái như khi bà định đem nàng về. Liên Chi ra đi không nói một lời. Nàng không dại gì mà không thấy rõ sự thay đổi của mẹ mình. Cô trở lại gia đình họ Vũ không phải là không đau khổ. Phan bận rộn sắp sửa đồ đạc ra đi. Nhưng biết mình sắp được tự do, chàng tỏ ra vui vẻ và vô tư lự. Vì sắp được ra đi nên có Liên Chi hay không, không quan hệ.
Nàng nói:
- Em trở về với anh, anh ạ!
Chàng không tỏ vẻ vui mừng, nàng cũng không hỏi chàng có vui chăng. Nàng ngoan ngoãn khác thường, giúp chàng xếp áo quần và lau sách vở. Ban đêm hai người ngủ chung. Chàng ẵm nàng vào lòng, nàng đã thuận theo, vì bổn phận đối với gia đình một phần, nhưng cũng vì họ là những người trẻ trung, hăng nồng. Sáng lại, họ chia tay nhau, luôn luôn thinh lặng. Vì giữ khuôn phép, nàng tránh không theo chàng ra quá sân.
Chàng đã nói với nàng:
- Anh đi em nhé! Hẹn ngày tái ngộ.
Nàng đứng dựa vào khung cửa, nhìn chàng ra đi, nói:
- Xin trời phù hộ anh đi đường được bình yên.
Nàng cảm thấy lòng mình xao xuyến một cách lạ, nhưng nàng chưa sẵn sàng tìm hiểu những lỗi lầm của mình.
"Buồn ngủ quá!" Nàng ngáp dài tự bảo, không buồn che cái miệng hồng. Nàng trở về giường, cuộn tròn trong chăn lụa và ngủ như một con nhộng bé nhỏ.
Ngay sau khi Phan ra đi, bà Vũ đánh thức nàng dậy. Bà nói:
- Này Liên Chi! Ngủ vừa thôi. Cô phải dậy và bắt đầu việc học tập.
Liên Chi ấp úng:
- Con học tập sao?
- Buổi sáng cô học nấu ăn và thêu thùa với dì Cả. Một giờ trước bữa cơm trưa, cô đến phòng tôi để học cổ văn. Buổi chiều, thầy An-Rê dạy sinh ngũ. Tối, cô giúp các chị vú cho lũ trẻ đi ngủ. Cô cần phải biết chăm sóc trẻ nhỏ.
Liên Chi thò đầu ra khỏi chăn, mắt mở to vì kinh ngạc, đầu tóc rối bù. Nàng hỏi:
- Ngay bây giờ sao?
- Ừ, ngay bây giờ. Bà Vũ nói cách cương quyết.
Tay cầm một cái roi tre, bà đánh xuống đất, nói:
- Cô hãy dậy rửa mặt, bới tóc rồi đến gặp tôi.
Bà Vũ trở về nhà riêng, vẻ mặt nghiêm khắc. Bà tự bảo: "Ta làm như vậy vì Phan. Xong việc, ta sẽ lại nghĩ đến tự do của riêng ta".
Vốn chưa tin Liên Chi, chiều hôm đó phải ngồi lại với nàng khi thầy An-Rê đến. Bà không để Liên Chi sống nhàn rỗi, vả lại, trong lúc con bà vắng mặt, vì tôn trọng lệ tục, bà phải hiện diện trong các giờ học của con dâu bà. Bà biết thầy An-Rê là một người chân chính, nhưng ngoài bà ra nào ai có thể hiểu thấu được.
Thế là mỗi ngày, bà Vũ ngồi ở cái ghế bành lớn nhất trong thư phòng, hai tay cầm cái gậy đầu rồng, di sản của bà cụ Cố. Bà lắng nghe tất cả những điều thầy An-Rê dạy Liên Chi. Nhưng trong lúc cô ta theo dõi một cách khó khăn, miễn cưỡng những đoạn khó hiểu đó, thì tinh thần bà Vũ vươn lên và chu du trên ngàn nẻo đường quanh co đầy mới lạ.
Chính nhờ thế mà bà biết đất và nước hợp thành một quả cầu lớn, quay lộn giữa các vì sao. Bà hiểu đường đi của mặt trời, mặt trăng, sự chuyển dịch của mây và gió. Nhưng tất cả những điều ấy không còn quan trọng khi người ta học đến ngôn ngữ của loài người. Bà thích học những tiếng như sống, chết, nước, đói, ngu, ghen ghét, không khí, thực phẩm, ngôi nhà, đóa hoa, cây cỏ, chim muông. Bà học tất cả các tiếng mà thầy An-Rê biết. Những tiếng ấy là tiếng của nhân loại. Bà học tất cả, lấy cớ để giúp đỡ Liên Chi.
Và bà càng biết thêm, thì những thắc mắc đã ám ảnh bà suốt đời trở nên ý nghĩa. Ngày xưa, bà tìm hiểu tại sao bà phải sống trong một vòng liên tiếp những sự sinh đẻ, chết chóc và rồi lại sinh đẻ nữa. Trong bốn bức tường này, người đàn ông sinh dựng, người đàn bà mang thai, để tránh cho nhà họ Vũ khỏi sụp đổ. Bà thường tự hỏi: một giòng họ biết mất thì có gì là quan trọng? Nhưng bà không muốn tìm câu giải đáp cho những thắc mắc đó. Trong những năm thất vọng ấy, bà sinh nhiều cọp quá, và một lần bị sẩy thai, nhất là trong những năm bà chỉ nghĩ đến lễ tứ tuần. Một hôm cũng trong khoảng thời gian ấy, cô Hsia đến thăm bà. Cô hỏi:
- Thưa bà, tôi có thể đọc Thánh- kinh cho bà nghe không ạ?
Bà Vũ mệt gần hết hơi, vì bà biết mình lại có thai nữa, nhưng vì lịch sự, bà không muốn từ chối. Bà đáp:
- Xin cô cứ đọc.
Cô Hsia lấy quyển Thánh- kinh, đọc những lời sau đây:
- "Con người có giá trị gì mà Thiên Chúa nhớ tới nó và lo lắng cho con của nó đến thế! Sự sống của con người ví như ngọn cỏ…"
Bà Vũ kêu lên:
- Cô hãy im đi!
Bà đã tỏ ra gắt gỏng, khiến cô Hsia nhìn bà, sửng sốt.
- Đó là những lời để an ủi một linh hồn khốn khổ sao? Tiếng nói của Thiên Chúa đấy à? Cô Hsia ạ, nếu tôi nghe theo lời ấy thì tôi sẽ đi thắt cổ! Cô đừng đọc sách của cô cho tôi nghe nữa, tôi sẽ chết mất…
Nhưng những lời ấy vẫn lưu lại trong trí bà. Bà đã suy nghĩ và vẫn còn nhớ mãi. Đúng thế, thể xác của con người giống như loài cỏ. Khi con bà chết lúc vừa lọt lòng, bà ẵm cái xác bất động ấy trong tay, thì câu nói đó lại trở về trong trí bà. Bây giờ, nghe những tiếng nói của nhân loại đương cùng kêu lên một tiếng, luôn luôn cùng tiếng ấy bằng những ngôn ngữ khác nhau, bà cảm thấy kinh ngạc lạ lùng.
Bà hỏi thầy An-Rê:
- Tất cả mọi người đều kêu lên một tiếng Thiên chúa sao?
- Tất cả mọi người, thầy nghiêm nghị đáp và sang sảng đọc: Thiên Chúa – Thiên Chúa – Thiên Chúa – Thiên Chúa bằng hai mươi thứ tiếng – tất cả các thứ tiếng của nhân loại.
Bà có vẻ nghĩ ngợi. Những tiếng kia còn vang lại trong tâm hồn bà…
Bà nói:
- Trên khắp mặt đất, mọi người đều kêu lên cùng đấng Trời Già ấy!
Nhưng đêm ấy, bà không sao ngủ được. Bà im lặng để Giang tắm cho mình, rồi lên nằm trên các giường cao bằng gỗ bá. Dưới màn, bà thả hồn suy tưởng đến tất cả những điều bà đã đọc. Trước mắt bà, thầy An-Rê là một học giả uyên bác, một nhà khoa học.
Trong bóng tối, bà suy nghĩ nhiều vấn đề bà còn thắc mắc. Đôi khi nhiều quá, trí nhớ bà không kham, bà liền ngồi dậy, thắp nến, lấy cây bút bằng lông lạc đà, ghi trên giấy những hàng chữ nhỏ. Chiều hôm sau, khi thấy An-Rê đến, bà lấy tờ giấy đã ghi, đọc lại theo thứ tự và chăm chỉ nghe từng câu giải đáp của thầy.
Thầy trả lời một cách đơn sơ, vì thầy rất thông thái. Thầy không cần nói bên lề sự việc như những kẻ tầm thường. Trái lại, thầy biết gói ghém tinh hoa của sự vật trong một ít chữ như những tín đồ Lão- Tử thời xưa. Thầy bứt lá, hái quả, dập vỏ ngoài vỏ trong, bỏ ruột, lấy hạt, chẻ nó ra và chỉ còn lại cái nhân tinh ròng.
Trí khôn bà Vũ lúc ấy rất sâu sắc, bén nhọn, đến nỗi có thể xuyên qua cái nhân ấy và bà hiểu tất cả. Liên Chi ngồi trố mắt nhìn hai người trao đổi vắn tắt với nhau, và xem ra tất cả những điều ấy vượt quá tầm hiểu biết của nàng. Trí khôn của nàng còn yên ngủ trong tuổi thơ dại của nàng.
Bà Vũ làm thầy An-Rê ngạc nhiên. Một hôm thầy nói với bà rằng:
- Suốt đời bà chỉ sống quanh quẩn trong nhà, thế mà lâu nay tôi đã nói chuyện với bà như nói với một nhà bác học, bạn đồng môn của tôi. Bà đoán biết tất cả những điều tôi muốn nói.
Bà đáp:
- Thầy đã giải thích cho tôi biết, có một chiếc gương thần, biến vật nhỏ ra lớn. Thầy đã nói với tôi, một hạt bụi hiểu có gì trong hạt bụi ấy, người ta cũng biết được sa mạc kia. Cái nhà này là một hạt bụi, và nhờ đó, tôi hiểu tất cả. Sự sống toàn vẹn đóng khung trong bốn bức tường này.
Lúc ấy, bà thấy vẻ bất bình thoáng hiện trong khuôn mặt của Liên Chi. Nàng nói:
- Thưa mẹ, mẹ bảo chúng con là bụi đất cả sao?
- Không con ạ, mẹ bảo chúng con là sự sống.
Ngang qua trên mái đầu xuân trẻ của Liên Chi, đôi mắt bà Vũ gặp ánh mắt thầy An-Rê. Bà nói:
- Xin thầy hãy dạy dỗ cô bé này.
Liên Chi trề môi:
- Thưa mẹ, con không phải là con nít.
Bà Vũ mỉm cười. Chiều hôm ấy, khi thầy An-Rê thu dọn sách vở, bà khiêm tốn thưa rằng:
- Thưa thầy, xin thầy nhận tôi làm học trò của thầy.
Thầy An-Rê long trọng nói:
- Thế thì vinh hạnh cho tôi lắm.
- Vậy thì, có lẽ thầy sẽ dạy cho tôi một giờ sau khi thầy đã dạy Liên Chi.
Thầy An-Rê gật đầu bằng lòng. Từ đấy, mỗi chiều, thầy dành một giờ để trả lời những câu bà Vũ hỏi. Mặc dầu đã lớn tuổi, bà vẫn giữ gìn nền nếp gia phong, bà bảo Giang ngồi ở cái ghế cạnh cửa trong lúc bà nói chuyện với thầy An-Rê.
Một buổi sáng kia, Giang nói với bà:
- Thưa bà, con buộc lòng phải thưa với bà một việc, nếu bà có giận thì đuổi con đi.
Bà Vũ đặt sách xuống, nhưng ngón cái lồng vào giữa các trang giấy, sẵn sàng tiếp tục đọc khi câu chuyện đã xong.
Bà nói:
- Từ bao năm nay chị đã nói với tôi tất cả những gì chị nghĩ, nay cũng thế, sao tôi lại giận chị?
- Điều con sắp nói sẽ không làm đẹp lòng bà. Nhưng con thấy độ rày mọi sự trong nhà đều lộn xộn. Chị vú nuôi con mợ cả khan sữa, đứa bé gầy teo. Đêm nào hai vợ chồng cậu Thế cũng cãi nhau. Con ở gái của mợ Thế nói rằng mợ ấy không có dấu gì có thai cả. Còn bà hai và ông chủ nhà ta thì… thật, thưa bà, con không muốn xét nghĩ gì, nhưng con thấy một bà chủ nhà như bà mà lách mình vào sách vở như thế thì không hay. Tổ tiên chúng ta đã bảo, đàn bà không nên biết chữ, thật không phải là hoàn toàn sai.
Giang nói một mạch như chị đã thuộc lòng. Bà Vũ lắng nghe như thường lệ, miệng mỉm cười. Nhưng ngón tay cái của bà đã rời khỏi trang giấy, gấp sách lại và để xuống bàn. Bà nói:
- Cám ơn chị.
Bà đứng dậy bước vào phòng, Trời buổi sáng lành lạnh; bà khoác một cái áo choàng bằng da lông thú trước khi ra đi. Ngoài hoa viên, các khóm lan đã úa tàn vì tuyết giá, lá cây cắm xuống đất mềm. Nhưng những hạt tre Ấn độ đã ngả sang màu đỏ và nặng trĩu trên cành. Giang theo bà Vũ, chị thấy một con sáo đậu trên một tảng đá, chị chạy lại đuổi đi. Chị thấy bà chủ nhẫn nhục trước những câu nói đầy trách móc mà chính chị cũng cho là hỗn xược, nên chị giả vờ nói chuyện huyên thuyên để tìm cách làm cho nhẹ lỗi. Nhưng bà Vũ nghe mà không đáp. Khi đi ngang qua khuôn viên bà cụ Cố, bà Vũ chợt có ý nghĩ, nên cho Lãng đưa gia đình đến ở đây để được gần bà. Như thế bà tiện chăm sóc các cháu hơn. Bấy giờ bà sẽ cho Tố Lan và Thế dọn về nơi gian nhà cũ của Lãng. Nếu được ở một chỗ rộng rãi hơn, chắc việc nhà của Thế cũng có cơ yên ổn hơn.
Hôm nay đẹp trời. Bà Vũ đi dưới ánh nắng vàng tươi, với một niềm khoan khoái mà chính bà cũng không hiểu. Trong nhà có nhiều nỗi lo âu, nhưng bà tự cảm thấy mình có đủ khả năng để xông pha, và thậm chí có thể chiến thắng chúng, vì bà không còn thuộc về trần gian này nữa. Trong khi tách lìa khỏi ông Vũ về xác thịt, bà đã cắt đứt tất cả những dây trói buộc mình.
Bà suy ngẫm về cái dây bí mật rất bền dai ấy, nó trói buộc thể xác này với thể xác khác. Và khi đã cắt đứt thì không những nó chỉ giải thoát xác thịt mà giải thoát cả linh hồn nữa. Nhưng linh hồn của bà, của riêng bà, đang đi theo những con đường mở rộng ra trước mắt, trên khắp mặt đất. Bà đã đi vào khuôn viên nhà Lãng với chính cái tâm trạng ấy. Tuy bà sống cách biệt, nhưng hay cứu giúp như một bà tiên.
Một đứa trẻ đang khóc, làm chối tai bà Vũ. Bà liền quên tất cả và hối hả bước vào nhà Lãng. Vợ Lãng đang ngồi, chị vú cùng đang ngồi ôm lấy đứa bé đói sữa và áp miệng nó vào cái vú rỗng của mình. Nước mắt chảy ròng ròng trên hai má nhợt nhạt của chị. Đứa bé mút vú, rồi quay đầu khóc thét lên một cách giận dữ vì không có sữa.
Bà Vũ nói:
- Tại sao thế? Sao sữa bị cạn đi thế?
Người thiếu phụ đặt đứa bé lên trên gối Mai, trong lúc chị đang khóc.
Bà quay sang hỏi Mai:
- Con đã cho chị ấy ăn cháo cua và trứng luộc chưa?
Mai đáp:
- Thưa mẹ, con đã thử đủ cách. Ban đầu con tưởng là không có gì, có lẽ chị ta bị cảm, hay ăn không tiêu, nên chúng con đã khuấy bột gạo cho thằng bé ăn. Con làm như vậy đã hai ngày nay và bây giờ nó đói. Thịt nó xọp đi cả.
Một người vú khác bước vào, nói:
- Con cũng đã cho nó bú nhưng sữa con già quá, nên nó nôn ra cả.
Rồi chị ta tiếp, giọng có vẻ tự mãn:
- Thưa bà, con không bao giờ mất sữa cả, nhưng gặp như thế này thì biết làm sao bây giờ!
Biết chị là người khoe khoang và bao giờ cũng tìm cách xin tiền, bà Vũ nói:
- Thôi chị đi chỗ khác đi!
Người vú trẻ vẫn khóc, bà Vũ ngồi bên cạnh, hai tay tì lên đầu rồng cái gậy, nhìn chị nói:
- Chị tắc sữa vì chị buồn. Chị có buồn chuyện gì à?
Người thiếu phụ không đáp. Đầu chị ta cúi xuống, và mỗi lần nước mắt trào ra quá nhiều, chị đưa tay áo lên chùi.
- Thật là lạ! Nước mắt thì chị có, mà sao lại không có sữa cho con tôi? Mai đay nghiến.
Bà Vũ bảo nàng:
- Mợ làm thinh đi nào!
Rồi bà quay sang chị vú:
- Này chị vú, chị hãy nói đi!
Được khích lệ, người thiếu phụ ấp úng:
- Thưa, vì tôi không được thấy con tôi. Không biết bây giờ nó ra sao, tôi đến đây đã một tháng rồi. Tuần sau con bé giáp năm mà tôi không biết nó có khỏe mạnh không!
Nghe nói, Mai nổi xung lên, nàng trề môi, trợn mắt thét lớn:
- Sao chị lại nghĩ đến con chị để cho sữa cạn đi?
Bà Vũ lại nói:
- Mợ hãy làm thinh. Mợ phải cho chị ấy đem con đến đây.
Mai kêu lên:
- Để chị ta nuôi chung nó với con của con sao?
Bà Vũ nói:
- Để cứu con của mợ.
Người vú trẻ sụp quỳ xuống trước bà Vũ. Chị ta thổn thức nói.
- Ôi thưa bà! Bà hiền đức như thế mà người ta đã nói bà độc ác!
- Ai nói thế?
- Ông quản lý - ở nhà quê – ông bảo con không được trái lời bà. Không ai dám trái ý bà. Thưa bà, con không muốn đến đây. Con có một gian nhà nhỏ, chồng con cày cấy đất ruộng của bà, chúng con có một đứa con – thực ra, nó chỉ là con gái – nhưng đó là đứa con đầu lòng của chúng con. Con rất hãnh diện về nó, con có rất nhiều sữa… ông quản lý bảo nếu con không chịu đến, ông ta sẽ đuổi chồng con ra khỏi đám đất mà chúng con đã thuê.
Bà Vũ nói:
- Tôi không bảo anh ta làm thế. Tôi chỉ bảo là tìm cho tôi một người vú.
- Đến làng, ông ta lấy danh nghĩa bà để bắt nạt chúng con. Khắp các nông trại, vì ông ấy mà chúng con tất cả đều sợ hãi.
Bà Vũ cảm thấy bối rối khi nghe những lời ấy, nhưng trước mặt chị vú, bà không muốn để lộ sự rối rắm của mình. Trong một gia đình to lớn, người điều khiển không nên để cho thuộc hạ lộng quyền. Bà cúi xuống dịu dàng nói với chị vú:
- Ngày hôm nay tôi sẽ bảo người ta đưa con chị đến đây. Đứa bé sẽ ngủ gần chị, nhưng không cùng một phòng với cháu tôi.
Người vú trẻ thưa:
- Thưa bà, bà đã cứu sống con.
Nói xong, chị sụp lạy bà Vũ, đầu chạm đất.
Nhưng đứa bé lại khóc, chị vú vội đứng dậy ẵm lấy nó. Nước mắt đã khô trên má chị, và chị áp vú vào miệng đứa bé. Thằng bé ngoạm vào núm vú và sữa chảy ra.
Mai kêu lên:
- Ồ, chị đã cắm sữa chị lại! Chị không cho nó xuống.
Người thiếu nữ nhìn nàng sợ hãi.
- Thưa mợ, không phải là tôi có ý giữ sữa lại. Tôi không biết sữa biến đi đâu và tại sao nó lại có. Nhưng khi bà chủ bảo cho mang con của tôi đến đây thì tôi cảm thấy mát lòng mát dạ, và sữa liền chảy xuống.
Mai vẫn còn tức giận:
- Đồ quê mùa dại dột!
Bà Vũ đứng dậy:
- Vì sự sống của con mợ tùy thuộc vào chị ấy, thì tốt hơn là mợ đừng có giận chị ta nữa.
Rồi quay sang chị vú bà tiếp:
- Còn chị, khi nào con chị đến thì chị không được quên nhiệm vụ của chị đối với cháu tôi.
Người thiếu phụ khiêm tốn nhìn bà Vũ, khẽ nói:
- Thưa bà, con đâu dám quên. Bao giờ con cũng cho cậu con bú trước.
Nhìn sắc thái của người đàn bà ấy và nghe giọng nói của chị ta, bà Vũ dừng lại. Dưới sự bình tĩnh ấy, bà cảm thấy có một cái gì bướng bỉnh, ngang ngạnh. Nhưng bà không hỏi lời nào. Bà không bao giờ cố tìm tòi để đoán biết những sự phiền não của những người không thuộc gia đình bà, vì bà sợ buồn lây. Bởi thế, bà nói với Mai:
- Mẹ cho hai vợ chồng con cái phòng của tổ mẫu đấy. Mẹ sẽ ở gần các cháu mẹ hơn.
Hình như việc ấy không làm Mai vui thích bao nhiêu, nên bà Vũ càng phải cương quyết với ý định của mình hơn.
- Mẹ sẽ cho lũ nô bộc đến giúp vợ chồng chúng con dọn đến đấy trong ngày hôm nay.
Rồi không để nàng kịp trả lời, bà liền đi sang nhà Thế.
Vào giờ này chắc Thế đã đi làm việc vắng, chàng bận coi sóc cửa hàng bán ngũ cốc của gia đình. Nhưng chàng vẫn còn ở nhà. Bà Vũ nom thấy chàng ở ngoài sân, đang súc miệng như vừa ăn xong.
Bà đi vào, Thế vội nhỏ nước và đặt cái chén xuống, thưa:
- Thưa mẹ, Mẹ đến sớm quá!
Bà Vũ nói:
- Mẹ đi thăm một vòng. Mẹ vào đây để cho con biết quyết định của mẹ. Mẹ sẽ cho con gian nhà anh Lãng, vì anh chị ấy sẽ dọn đến ngôi nhà của tổ mẫu, để mẹ được gần với các cháu mẹ hơn. Mẹ sẽ nói với Tố Lan.
Nghe đến tên ấy, bà Vũ thoáng thấy một bóng lạnh lùng phớt qua trên gương mặt của Thế. Bà thẳng thắn nói như thói quen mỗi khi bà cảm thấy công việc không xuôi thuận:
- Người ta mách với mẹ rằng Tố Lan khóc ban đêm.
Chàng xẵng giọng hỏi:
- Ai mách mẹ thế?
Bà Vũ đáp:
- Lũ nô bộc. Thực là xấu hổ khi các sự buồn phiền trong gia đình trở nên một đầu đề cho chúng chuyện trò.
- Thưa mẹ, mẹ có lý. Lẽ ra thì con không nên lấy nàng.
Bà Vũ hỏi:
- Hai đứa con hết yêu nhau rồi sao?
Thế không muốn trả lời có hay không. Chàng đi bách bộ trong mảnh sân nhỏ.
- Chúng con không thể nói với nhau chuyện gì mà không trở thành một cuộc cãi lộn.
Bà Vũ nói:
- Tại sao mợ ấy không có thai? Vợ chồng ăn ở với nhau mà không con thì cứ cãi lộn hoài.
Thế nhún vai:
- Con làm sao biết được? Nhà con không có thai. Đó không phải lỗi con.
- Cứ cãi vã như vậy hoài thì không thể nào có thai được. Trái tim xao động làm khô thủy dịch trong người, làm hư huyết. Giữa đàn ông và đàn bà, không nên kềm chế sự lưu thông của các sinh lực.
Bà nhìn người con trai đẹp đẽ của mình và tiếp:
- Một người vợ không sinh con là một tạo vật trái với thiên nhiên, là phản lại trời đất; lúc ấy họ không còn kể gì đến người đàn ông nữa. Con phải kiên nhẫn đối với vợ con cho đến khi nó có thai. Sau đó, con sẽ thấy nó hoàn toàn đổi khác.
Thế ngạo nghễ hỏi.
- Vậy thì, Tố Lan không kể gì đến con cả sao!
- Nó yêu con quá, và vì thế mà nó ghét con. Nó đau khổ vì tình yêu của nó không có kết quả. Nó không có gì để tự vệ. Nó không có nơi nương ẩn. Nó không có chỗ nào che giấu nổi con, để nó được nguyên vẹn là của nó.
Bà Vũ cảm thấy lời nói của mình đã làm Thế tổn thương. Bà tiếp:
- Vậy con phải đi du lịch một chuyến, bất cứ đâu. Rồi khi trở về, con hãy đối xử dịu dàng với vợ con, đừng kiêu căng, đừng đả động gì đến việc nó lớn tuổi hơn con và nó đi nước trước để lấy con.
- Sao mẹ biết Tố Lan đã đi nước trước?
Thế ngừng lại và nhìn sững mẹ mình. Rồi chàng vừa tiếp vừa cười nhạt:
- Chuyện gì mẹ cũng biết cả!
Bà Vũ đáp:
- Mẹ có con mắt.
Bà dựa chiếc cằm tròn lên hai tay đặt trên đầu rồng cái gậy.
- Tố Lan sợ con và ghét các nỗi lo âu của mình. Nó yêu con và e sợ tình yêu của con. Phải đấy, con nên đi vắng một thời gian và để vợ con lại cho mẹ. Giữa vợ và chồng, phải có một trật tự tự nhiên. Tố Lan và con đã thoát ra ngoài cái trật tự ấy. Con xem chị Mai đấy, với chị ấy, mọi sự y như trời đã định sẵn, vì thế sự hòa hợp đã ngự trị trong nhà anh chị Cả. Hai người không yêu nhau thái quá, nhưng họ cùng nhau gầy dựng thế hệ mới.
Thế nóng nảy:
- Chị Mai thuộc hạng xưa. Chị ấy hơi khờ dại. Tố Lan, ít ra cũng thông minh.
Bà Vũ kiên nhẫn đáp:
- Một người đàn bà khờ dại hay không là chuyện không cần. Đó là vấn đề tương hợp. Trong hôn nhân vợ chồng phải ăn nhịp với nhau. Vì thế, mẹ đã cưới chị Mai cho anh Lãng. Anh thông minh hơn chị, nhưng chị ấy cũng đủ thông minh để hiểu những lời anh ấy nói. Còn Tố Lan và con vì quá ngang nhau, nên xô xát nhau.
Thế nói:
- Mẹ khôn ngoan hơn cha con.
Chàng nhìn mẹ với một nét nhìn long lanh và rất sâu sắc làm bà phải bối rối. Bà vội đáp:
- Sự khôn ngoan của mẹ, à! Mẹ đã tạo ra. Mẹ có đủ khôn ngoan để ngăn cản bất cứ một bất trắc nhỏ nào giữa cha con và mẹ. Vì thế, mẹ đã đem Thu Minh về cho cha con để ông được hạnh phúc lúc về già.
- Còn chính mẹ thì sao?
Thế dò ý mẹ một cách gắt gao.
Bà Vũ bình tĩnh:
- Mẹ cũng thế, mẹ luôn luôn được hạnh phúc.
Tố Lan bước ra. Nàng không thể giả vờ không nghe gì về cuộc đàm thoại giữa hai người ngoài sân, ngay trước cửa sổ phòng nàng. Nàng đã lắng nghe tất cả, nhưng vì lịch sự nàng không để lộ ra.
Bà Vũ nói với nàng:
- Mẹ vừa bảo anh Thế đấy con ạ. Nếu hai con thích thì hãy dọn đến ở ngôi nhà của anh Lãng. Chỗ ấy rộng hơn đây nhiều. Mẹ để anh Cả dọn sang ngôi nhà cạnh nhà mẹ, để mẹ có thể săn sóc mấy đứa cháu kỹ lưỡng hơn.
Tố Lan nói:
- Chúng con xin cám ơn mẹ.
Nhưng giọng nói cũng như sắc diện của nàng không tỏ vẻ gì là biết ơn cả. Tố Lan ăn mặc lôi thôi. Nàng mặc một cái áo dài xấu xí, sọc vuông màu xám và xanh, nên trông nàng có vẻ già hơn tuổi.
Khi Thế đi rồi, bà Vũ thầm nghĩ: "Ta sẽ dạy Tố Lan biết săn sóc đến sắc đẹp của nó".
Bà vẫn ngồi, ngắm nàng dâu và nghĩ ngợi. Thế nhìn mẹ chỉ trích vợ:
- Tôi ghét cái áo ấy tệ!
Nàng hất làn tóc ngắn ra sau, và nói cách hỗn xược:
- Thì mua cho tôi một cái khác đi.
Bà Vũ liền đứng dậy. Bà không muốn ngồi nghe hai người cãi vã nhau để phải đứng ra giảng hòa. Nhưng bà không để lộ ra vẻ bất mãn của mình. Bà nói với nàng dâu:
- Cậu Thế sẽ đi xa trong một thời gian. Tôi đã cho phép cậu ấy rồi. Mợ hãy bình tĩnh cho đến khi cậu ấy ra đi. Ngày mai mợ lo dọn đồ đến nhà mới.
Tố Lan nói:
- Nếu anh Thế đi, con cũng đi.
Nàng đứng rất thẳng trong cái áo xấu xí, hai bàn tay nắm lại, buông thõng hai bên. Bà Vũ cũng đứng thẳng như nàng, tì tay trên đầu gậy. Bà nói chậm rãi rõ ràng:
- Mợ đừng đi. Mợ hãy ở lại đây với tôi. Mợ cần học nhiều chuyện, tôi sẽ dạy thêm cho.
Một lần nữa, bà không để cho con dâu bà có thì giờ đáp lại. Bà quay đi thẳng.
"Ôi dào! Dâu với con! Bà tự nghĩ. Thật là rầy rà, lẽ ra ta phải đem những cô gái nhỏ về nhà, dạy dỗ uốn nắn chúng thành vợ các con trai ta. Khi ta đem những người đàn bà khác dòng họ về nhà để sinh dựng con cháu, thì ta lại reo rắc sự bất hòa".
Bà trông mong buổi chiều và sự bình an chóng đến. Giờ phút mà bà được thầy An-Rê hướng dẫn để bà quên thể xác, chỉ còn linh hồn nguyên vẹn thoát đi phiêu diêu khắp thế giới.
Tố Lan nhìn chồng với đôi mắt bất bình và đau đớn. Nàng lẩm bẩm:
- Anh muốn đi, bỏ tôi ở lại một mình…
Chàng dịu dàng đáp:
- Đó là ý kiến của mẹ.
Chàng đang bôi dầu lên mái tóc. Tố Lan nhìn hai bàn tay tái nhợt của chàng, xung giận vì chúng đã nắm được trái tim mình.
Nàng cau có:
- Tôi cũng sẽ trốn đi cho thoát nợ.
Chàng phì cười:
- Không đi với tôi chứ - Không, tôi sẽ không dám trở về nhà đâu đấy.
- Anh sợ mẹ anh quá!
- Đúng thế.
Thế nhượng bộ vợ dễ dàng như vậy là cố tâm làm cho nàng bị tưng hửng.
Nàng nói:
- Nếu con trai tôi mà sợ tôi, thì tôi muốn đừng sinh ra nó còn hơn.
Thế bình tĩnh đáp:
- Kìa, em có con đâu?
Nàng cảm thấy cõi lòng mình tan nát trước câu trách móc đầy khinh bỉ ấy. Mặc dầu nàng đã cố gắng, nhưng nàng không thể nào thoát khỏi được uy thế của chàng.
Nàng xích lại gần chồng và thầm thì:
- Anh Thế! Anh ghét em thực sao?
Chàng nhìn xuống, nói cách trách móc:
- Tại sao bao giờ em cũng muốn cấu xé anh, thay vì để cho anh yên ổn?
Nàng kêu lên:
- Em? Để cho anh yên ổn?
- Ừ, để anh yên – chỉ có thế.
Nàng nói cách say sưa:
- Để yên, để cho anh quên em đi à?
- Anh biết, chính vì thế mà em muốn làm anh xung giận, em muốn anh phải bận trí về em, ít ra bằng cách ấy.
Thế lôi ra một sự thật mà nàng dấu cả chính mình nàng. Thật vậy, sau khi lấy nhau, chàng không còn nghĩ đến nàng ngày đêm nữa. Chàng trở nên thờ ơ và nàng cố ý làm chàng xung giận để chàng chú ý đến mình. Nàng muốn được đau khổ vì chàng. Phải chịu đau khổ, tất cả, còn hơn không có gì.
Nàng đau đớn thấy chàng quay nhìn chỗ khác.
"Ta phải tìm cứu cánh của ta ngoài chàng, nàng tự bảo. Ta phải tìm cách thoát khỏi vòng tình ái. Thật quá khó khăn!"
Có điều lạ lùng là chính lúc nàng mong ước tự giải thoát khỏi chồng, thì nàng nghĩ ngay đến bà Vũ. Rồi như một cái máy, nàng chạy qua các sân và dừng lại khi thấy bà nhạc nàng trong thư phòng, đang hút cái điếu nhỏ.
Nàng kêu lên:
- Thưa mẹ, xin mẹ cho con cũng được tự do.
Bà Vũ nghe tiếng kêu ấy dường như tiếng đồng vọng của lòng mình. Bà đặt cái điếu xuống bàn và nhìn nàng dâu. Bà nói:
- Con hãy bình tĩnh. Con ngồi xuống và vén mấy sợi tóc rủ xuống mắt kia lên. Mẹ sẽ suy nghĩ vấn đề con yêu cầu, nhưng trước hết, mẹ nói ngay là đừng nên mặc cái áo này nữa. Con cần phải mặc những màu tươi luôn. Như thế làn da nâu của con mới nổi. Nào, sao con lại muốn ra đi? Để được tự do à?
Tố Lan nói:
- Con muốn bỏ nhà này – bỏ anh Thế.
Bà Vũ ra dấu bảo nàng ngồi xuống, nhưng nàng không ngồi. Nàng cứ đứng, không nghe gì đến lời nói của mẹ chồng. Hai người nhìn nhau.
Bà Vũ nói:
- Mẹ đã nói với con rằng, Thế đi là con được giải thoát.
Tố Lan kêu lên:
- Con muốn được giải thoát luôn hẳn. Lẽ ra thì con không nên lấy anh ấy. Con ghê tởm những tình cảm của con đối với anh. Con bị nô lệ chúng. Anh thích con một cách khác với cách mà con mong ước.
Bà Vũ hỏi:
- Như vậy con có đáng trách không?
Tố Lan vẫn khăng khăng:
- Xin mẹ để cho con đi.
Bà Vũ ép mình làm ra vẻ âu yếm.
- Con đi đâu? Đối với người đàn bà, ngoài nhà chồng ra con có gì nữa? Nếu mẹ để con ra đi, liệu con có được tự do không? Đàn bà không có chồng tất bị mọi người khinh rẻ. Người đàn bà chỉ có thể được giải thoát bởi chồng và con.
Tố Lan nhìn bà, sợ hãi.
- Vậy, xin mẹ nói cho con biết, con có thể tự giải thoát bằng cách nào?
Bà Vũ cảm thấy một tình thương bao la bừng dậy trong lòng.
Bà dịu dàng:
- Con ạ! Mẹ không thể nói được, vì mẹ không biết!
- Thế mẹ không bao giờ yêu ai cả sao?
Bà Vũ nhìn xuống đất, không đáp. Bà nghĩ, có lẽ Thế đã đoán xét sai người thiếu phụ này. Nhưng chàng đã hiểu nàng ra sao? Chàng bằng lòng về cái tính của mình, và nếu Tố Lan chưa cho vậy là đủ thì đâu phải lỗi của chàng. Bà Vũ nhận thấy bà đã không để mình quá yêu ông Vũ là một điều đúng biết bao. Hồi bà còn trẻ, có một dạo bà suýt mắc phải sự nguy hiểm ấy. Nhưng sự thanh nhã của bà đã gìn giữ bà, còn Tố Lan thì thiếu tế nhị.
Cuối cùng, bà nói:
- Nếu con có con, con sẽ được giải thoát khỏi chồng con. Ít ra, các con sẽ có một tình yêu chung. Đứa bé cần rất nhiều tình thương, buộc lòng con phải ban phát tình thương cho nó. Hay nếu không có con, thì con có thể tiếp tục việc học hành, học hội họa, hay những việc tương tự như thế. Con ạ, con phải phân chia con ra. Con đã để tất cả sinh lực của con đổ dồn vào một con sông hẹp và sâu. Bây giờ con hãy đào kênh, khơi ngòi, và để tình yêu của con chảy tản ra chỗ này chỗ kia mỗi nơi một ít.
Tố Lan chua chát nói:
- Đó là những công việc bó buộc.
Bà Vũ dịu dàng:
- Nếu cần thì phải làm, nhưng đó là con đường độc nhất đưa đến bình an. Nếu không, chắc con sẽ chết. Thế sẽ sinh ra ghét con, mẹ chắc như thế.Trong giờ phút này đây nó đang run sợ đứng bên bờ sự thù ghét ấy. Vì vậy, mẹ đã bảo nó đi xa một thời gian.
Tố Lan liếm đôi môi nhợt nhạt của mình. Nàng lẩm bẩm:
- Đàn ông đều như vậy cả sao?
Với một giọng trong như tiếng bạc, bà Vũ nói:
- Đàn ông giống nhau như cá mè một lũ. Lúc người đàn bà tìm được chân lý ấy, chính là lúc họ cảm thấy mình tự do.
- Vậy tại sao con chỉ yêu anh Thế?
Bà Vũ đáp:
- Vì anh ấy có duyên. Giọng nói luôn luôn dịu dàng, nét mày và đường môi khả ái, đôi vai có phong độ, hai tay…
Tố Lan sửng sốt hỏi:
- Sao mẹ biết những điều ấy?
Bà Vũ lại mỉm cười:
- Trời đã gài từng đống bẫy để duy trì nhân loại.
Bà không thể nào giận được người thiếu phụ này, vì nàng chỉ là một con người đáng thương bị sa bẫy. Thấy nàng quá yêu Thế, bà đã tha thứ cho nàng vì thương xót.
Bà Vũ đưa hai bàn tay nhỏ nhắn nắm lấy tay Tố Lan và vuốt ve. Bà khuyên dỗ:
- Đừng có thất vọng con ạ! Mẹ không muốn thấy ai trong nhà mẹ khốn khổ cả. Như con đã biết, suốt đời mẹ, mẹ chỉ tìm hạnh phúc cho hết thảy chúng con. Này con, con muốn gì để được sung sướng ở đây!
Trước khuôn mặt khả ái đầy quyến rũ của bà Vũ, trước giọng nói ngọt ngào và êm dịu ấy, Tố Lan chỉ có việc nhượng bộ. Nàng ríu ríu xích lại gần cho đến khi thấy mình ở giữa hai gối bà Vũ như một trẻ thơ.
Bà dịu dàng nói:
- Con hãy để chồng con đi. Khi nó ra đi, con đừng khóc. Hãy giúp nó thu xếp hành trang và dầu cho lòng con có tơi bời đi nữa, con cũng phải vui vẻ hẹn ngày tái ngộ. Ban đêm hãy ngủ cho ngon, đừng thức giấc. Nó có thao thức cũng mặc - nhưng con thì đừng.
Tố Lan ngây thơ hỏi:
- Nhưng nếu con ngủ không được vì không có anh ấy thì sao?
Bà Vũ bật cười lớn vì sự thật thà của nàng dâu. Bà đáp:
- Nếu thế thì con hãy trỗi dậy, ra sân và đi dạo một vòng. Lúc ấy khí trời ban đêm sẽ thấm lạnh, và khi con đã cảm thấy lạnh rồi thì chiếc giường ấm sẽ làm cho con dễ ngủ, dẫu con nằm ngủ một mình.
Mắt trong mắt, hai người lặng nhìn nhau. Thấu hiểu nỗi lòng của người thiếu phụ, bà Vũ cảm thấy một niềm yêu thương trìu mến bừng dậy trong lòng.
Bà Vũ nói:
- Con sẽ được tự do, khi chúng con gặp nhau lại. Con có thể tự do giữa bốn bức tường này như bất cứ nơi nào trên trái đất. Dù con có đi phiêu lưu thật xa, rất xa, con cũng không thể nào tự do được, nếu con cứ để chồng con ám ảnh hoài. Con hãy tìm cho ra vị trí của con trong dòng đời. Con hãy để sóng đời tuôn chảy trong con, tươi mát và dũng mãnh. Con đừng đưa tay ngăn cản nó lại, sợ nó làm vỡ bờ đê và thoát khỏi con. Con hãy để chồng con ra đi và con cũng sẽ được tự do.
Tố Lan lẩm bẩm:
- Con không thể sống mà không yêu.
Bà Vũ bình tĩnh nói:
- Thế thì chiều nay thắt cổ mà tự tử đi! Vì mẹ quả quyết với con rằng chồng con chỉ yêu con, nếu con để nó được tự do. Tình yêu chỉ tồn tại trong tự do.
- Con có thể làm nô lệ cho chàng, nếu chàng yêu con.
Bà Vũ kêu lên:
- Con không phải là một người nô lệ. Con đã cố dùng ái tình để chế ngự nó, và nó cảm thấy như vậy nên đã lảng tránh. Chồng con phải giải thoát khỏi con, vì con quá yêu nó. Ồ, con dại dột làm sao! Mẹ biết làm thế nào cho con hạnh phúc được!
Tố Lan sụp quì xuống:
- Thưa mẹ, con đã hiểu.
Nàng tấm tức:
- Con biết ý mẹ muốn nói gì nên con sợ quá.
Nhưng bà Vũ không để cho nàng khóc. Bà vừa nói vừa đứng dậy đỡ Tố Lan:
- Con hãy đứng dậy, con đứng dậy đi! (Rồi bà nghiêm khắc tiếp). Nếu con sợ thì mặc con, mẹ không dính líu gì đến nữa. Con đừng bao giờ đến gặp mẹ nữa. Mẹ không có thì giờ để nói chuyện với con. Phải đấy, mẹ để cho con rời khỏi nhà này là ổn nhất.
Tố Lan ngước nhìn con người thanh cao, kiều diễm, tế nhị và bất khuất ấy, nàng cảm thấy nỗi lòng lo âu và cay đắng của mình dịu lại. Trước mặt nàng, bà Vũ cô độc và bình tĩnh, xem ra bà là người độc nhất được sung sướng mà nàng chưa từng biết bao giờ. Mẹ ruột nàng hay giận dữ, các chị nàng thì luôn cãi cọ và lanh chanh như tất cả phụ nữ Thượng- hải. Nhưng bà Vũ thì bình lặng và sâu thẳm như hồ nước ở khúc quanh một dòng suối trên núi.
Nàng khiêm tốn nói:
- Thưa mẹ, con sẽ vâng lời mẹ.
Sau khi nàng ra về, bà Vũ ngạc nhiên nghĩ đến việc bà vừa đẩy hai đứa con trai ra đi, vì hai nàng dâu mà bà không ưa thích, và bà đã tiếp nhận hai gánh nặng ấy.
Bà kêu lên:
- Thế mà tôi là người khát mong được tự do!
Và kinh ngạc vì sự mâu thuẫn nội tại ấy, bà để mặc Giang soạn sửa cho bà đi ngủ.
Sáng hôm sau, khi đã tỏ cho thầy An-Rê biết việc Thế ra đi, bà Vũ nói:
- Thật tôi không thể hiểu được.
Thầy An-Rê mỉm cười hỏi:
- Bà có cần giải thích không?
Bà Vũ thường quan sát nụ cười ấy. Nó khởi phát từ đôi lông mày và trong bộ râu rậm như một làn ánh sáng ló ra giữa một gồi cây. Tầm vóc to lớn của thầy trước kia đã làm bà kinh khủng, bây giờ bà đã quen rồi.
Thầy tò mò hỏi:
- Bà nghĩ gì thế?
- Thầy thường nói rằng, hết thảy chúng ta trên trần gian này đều thuộc con một nhà. Thế thì tại sao người thầy lại cao lớn đến như thế?
Thầy An-Rê hỏi, giọng rụt rè:
- Bà thấy ở người tôi có cái gì kỳ lạ?
Bà Vũ dịu dàng:
- Thầy cao lớn quá và nhiều râu quá!
Thầy An-Rê nói:
- Bà có nói, bà không thể hiểu được chính mình, thì có lẽ bà có thể giải thích cho tôi biết là gì.
Những làn ánh sáng trong gồi cây lại bừng chói lên. Bà thấy những chiếc răng trắng ngời trong bóng tối của bộ râu và nét cười lấp lánh trong đôi mắt đen.
- Tôi có đọc một quyển sách nói rằng sỡ dĩ người ngoại quốc nhiều lông là vì họ gần loài vật hơn.
Thầy đáp:
- Có lẽ.
Rồi thầy bật cười vang:
…Trong bóng đêm sâu thẳm, vị giáo sĩ đã đội ơn Thiên chúa vì đã không cho người gặp bà Vũ hồi bà còn là con gái.
Giáo sĩ đã thầm thì:
"Chúa ôi! Có lẽ bấy giờ con sẽ không bảo đảm được linh hồn con!"
Nhưng bây giờ, thầy An-Rê đã làm chủ được thân xác mình, nên người đàn bà này chỉ làm cho thầy vui vui, thế thôi.
Thầy nói với bà:
- Nếu thế, phải chăng Thiên chúa đã dựng tôi trước, rồi khi dựng nên bà. Người đã sửa đổi khuôn mẫu cho hoàn hảo chăng?
Bà cười theo thầy, và tiếng cười trầm hùng của thầy hòa lẫn cùng tiếng cười trong trẻo của bà. Ngoài vườn, Giang đang ngồi chỉ bảo một con ở gái giặt áo quần. Con ở gái ngẩng đầu lên, Giang bắt gặp đôi mắt ngạc nhiên của nó.
Chị quát:
- Đừng xát xà phòng lên lụa, đồ ngốc! Nhìn gì? Phải để mắt vào công việc chứ!
Nhưng chị tự hỏi, sao vị giáo sĩ với chiếc áo chùng thâm ấy lại có thể làm cho bà Vũ, chủ của chị, cười một cách thoải mái như thế nhỉ? Chị không tìm cách giấu nỗi ngạc nhiên của chính mình, mặc dầu trong nhà có nhiều chuyện buồn phiền, bà Vũ vẫn ngày một thêm kiều diễm. Bà có vẻ tươi vui thỏa mãn. Bà chỉ sốt ruột vì việc bổn phận của một bà chủ nhà, nhưng bà tự buộc mình phải lo tròn những việc ấy với một kỷ luật khắt khe. Giang theo dõi cả những thay đổi hết sức nhỏ nhặt của bà Vũ, nên chị đã nhận thấy bà không còn quan tâm gì đến việc nhà.
Không bao giờ Giang dám nghi ngờ có một sự liên lạc xấu xa giữa vị giáo sĩ và bà Vũ. Bà rất nghiêm ngặt về vấn đề ấy. Bà bình tĩnh hơn, sáng suốt hơn, tinh tế hơn và chừng mực hơn - tuy nhiên bà vui vẻ hơn. Giang quan sát bà rất kỹ mỗi khi thầy An-Rê cho người đến cáo lỗi vì không tới dạy được. Những lúc ấy bà Vũ vẫn thản nhiên. Bà ngồi một mình trong thư phòng; dáng tươi vui như có mặt thầy An-Rê ở đấy. Làm sao cắt nghĩa được điều đó!
Đứa ở gái cười khẩy:
- Gia đình họ Vũ mà cũng như thế nhỉ! Thím có nghe chuyện ấy không!
Giang giận dữ hỏi:
- Chuyện gì? Tao không thèm nghe lũ mèo ngao!
- Tôi tưởng thím biết chứ. Trong lúc bà chủ ngồi nghe một giáo sĩ giảng sách, thì ông chủ đi chơi thanh lâu.
Giang dõng dạc nói:
- Không có đâu.
Ngồi trên chiếc ghế tre. Giang khom mình tát đứa ở gái, in một vết tay đỏ trên má nó. Mắt nó chớp chớp rồi nó đưa má kia ra và nói:
- Thím vả má này nữa đi. Rõ ràng là ông ấy đi đôi với ông già Khương mà - hai người đi với nhau. Câu chuyện ông chủ chẳng biết rồi sẽ đi đến đâu?
Giang quả quyết là không nghe nói gì, nhưng kỳ thực đôi lúc chị cũng có bắt chợt những tiếng thì thầm nọ kia, mặc dầu khi chị vào, bọn đầy tớ nín thinh vì e sợ.
"Chính lão Khương già ấy đã rủ rê ông chủ", chị nghĩ ngợi.
Và chị buồn rầu ngẫm nghĩ: đàn ông! Không bảo đảm được. Ngay cả chồng chị cũng thế.
Trong gian phòng rộng rãi, tĩnh mịch, bà Vũ đã quên hẳn cửa nhà gia thế. Bà nhìn khuôn mặt thầy An-Rê, còn thầy thì cảm kích bởi nét nhìn ấy nên đã hết lòng dạy dỗ bà. Đó là một tâm hồn trong suốt, khôn ngoan, và rất tươi trẻ. Bà đã sống trong tòa nhà này và đã học hỏi với kinh nghiệm của bản thân. Bà thông minh và chín chắn làm sao! Tinh thần bà giống như cái cốc pha lê vừa ra khỏi tay nhà nghệ sĩ, chỉ đợi được rót đầy.
Bởi thế, thầy An-Rê làm sao lại có thể cầm mình mà không dạy cho bà biết tất cả những kiến thức của thầy; trong chiếc bình pha lê tuyệt đẹp ấy, thầy rót tất cả nền học vấn mà từ trước đến nay thầy chỉ giữ riêng cho mình, vì không tìm ra người muốn được cùng thầy chia sẻ. Thầy giảng cho bà Vũ nghe lịch sử thế giới, sự hưng vong của các dân tộc, việc xuất hiện của các quốc gia mới. Thầy giảng về việc khám phá ra điện và chất ra- đi- um; thầy giải thích về các luồng sóng điện mang tiếng nói và âm nhạc đi ngang qua không khí, từ đầu này đến đầu kia trái đất.
Hôm ấy bà đã hỏi thầy:
- Thầy có cái máy thu các tiếng nói và âm nhạc ấy không?
- Tôi có một cái. Chính tôi đã làm ra.
Bà sốt sắng hỏi:
- Thầy có thể mang đến đây không?
Thầy do dự:
- Tiếc quá! Nó bị nhiều sợi dây buộc vào tường. Bà không thể…? Bà có thể đến xem nó tại ngôi nhà nghèo nàn của tôi không?
Bà nghĩ ngợi. Làm sao bà có thể vào nhà một người ngoại quốc được? Mặc dầu có người đi theo bà? Đột nhiên bà cảm thấy sợ hãi. Bà vừa đáp vừa quay đầu đi:
- Có lẽ.
Thầy An-Rê nói:
- Bà đừng thắc mắc vì chuyện đó. Nơi người tốt không có gì có thể làm cho bà thắc mắc cả. Con người cũ của tôi đã chết, Thiên chúa đã giết nó rồi.
Thầy nói những lời lạ lùng ấy rồi đi ra, và khi thầy đi khuất, bà Vũ cảm thấy tinh thần mình được thêm vững mạnh như tất cả mọi lần khác.Thầy để lại trong trí bà rất nhiều điều. Bà ngồi suy nghĩ, khẽ mỉm cười. Bà hút chiếc điếu nhỏ và tinh thần phiêu diêu khắp thế giới mà thầy vừa mở rộng ra trước mắt bà.
"Không biết có khi nào ta ra khỏi thành này không nhỉ? Bà nghĩ ngợi, và ta vượt đại dương trên những chiếc tàu biển ấy, hay bay trên trời bằng đôi cánh của phi cơ?"
Đây là lần đầu tiên bà đau xót về sự vắn vỏi của kiếp người. Đã bốn mươi tuổi rồi sao? Bà đã sống qua ngần ấy năm mà không hề ra khỏi cửa!
"Ta đã biết gì về xứ sở của ta? Và ngay cả cái thành phố này nữa!"
Nỗi ngạc nhiên về vũ trụ xâm chiếm lấy bà Vũ.
Hằng ngày, bà tươi cười, đi đây đi đó giữa mọi người trong nhà. Đến bữa ăn họ tề tựu lại và bà ngồi giữa, nhìn tất cả mọi người mà không thấy ai.
Một hôm, Giang đột nhiên cắt ngang sự yên tĩnh của bà, khi chị lau nữ trang cho chủ. Bấy giờ đương giữa mùa đông, bà Vũ đặt trên bàn một chiếc bình cắm huệ. Ngang qua khung cửa hình mắt võng, mặt trời chiếu ánh sáng trên hoa huệ và đồ trang sức.
Bà nói với chị:
- Giang, chị xem hoa và nữ trang giống nhau ghê chưa! Nào là bạch ngọc, bích ngọc, và khóm hoa ấy thì màu vàng, màu trắng, màu xanh.
Giang cầm một chiếc vòng trong tay, chị nhìn bà, thưa:
- Thưa bà, thật là lạ! Bà thấy những điều ấy nhanh như thế mà lại không thấy những việc đã xảy ra trong nhà này.
Cảm thấy mình có lỗi, bà hỏi:
- Việc gì thế?
Bà liền nghĩ đến hai nàng dâu.
Giang nói:
- Ông chủ…
Bà Vũ hấp tấp:
- Ông chủ sao?
Giang vắn tắt đáp:
- Đi chơi thanh lâu.
- Không có đâu.
- Có bà ạ. Cũng không lấy gì làm quá đáng, biết bao người đã đến chơi bời ở đấy, nhưng ông có thể mang về nhà những chuyện không hay.
Bà Vũ bảo:
- Chị đi mời cô hai lại đây.
Giang đứng dậy, đi ra, vẻ quan trọng. Bà Vũ, cầm mấy món nữ trang, ngắm nghía. Số nữ trang này đã nhắc nhở bà nhớ đến ông Vũ, trừ mấy chiếc vòng mẹ bà cho bà nhân dịp lễ thành hôn. Đôi hoa tai ngọc, ông đã biếu bà trong buổi sáng sau đêm tân hôn. Những chiếc nhẫn ngọc bích mua từ Thượng hải, trước kia bà chưa từng thấy bao giờ. Con chim bằng kim cương này ông đã mua ở Hồng Kông, mà kim cương thì rất lạ đối với bà. Những viên hồng ngọc này mua tại một tỉnh xa lạ, và những chiếc trâm bằng ngọc thạch ông đã mua ở Vân nam. Cũng có những món đồ ít quí giá do bà mua của những người bán châu bảo, nhưng bà rất ưa thích. Bà không bao giờ sắm nhiều nữ trang cho mình. Hai chiếc trâm có đính những con bướm bằng bạc đậu và ngọc bích, làm bà nhớ lại hôm các bà khách đuổi bướm, bắt găm lên cánh cửa. Bà cầm lấy một cái trâm và trở qua trở lại. Đó là thứ bạc đậu Quảng- đông, rất mịn, run rẩy vì quá mảnh. Các vòi bướm bằng bạc, nhỏ như sợi tóc, có đính những hạt bích ngọc không lớn hơn đầu mũi kim, rung rinh dường như con bướm còn sống.
Thu Minh bước vào. Nàng bước đi nặng nề vì có thai và khuôn mặt nàng cũng đổi khác. Đôi mắt to ra làn môi có vẻ đỏ hơn.
Bà Vũ trao cho nàng mấy cái trâm hình bướm.
Bà nói:
- Tôi biếu cô đấy. Tôi không dùng nữa.
Thu Minh đưa tay cầm lấy cái trâm ngắm nghía mà không nói gì.
Lát sau, nàng nói:
- Những vật này quá đẹp đối với em. Làm sao em mang được!
Bà Vũ nói:
- Thì cô cứ giữ lấy.
Bà lấy ngón tay trăn trở số nữ trang trong hộp. Bà muốn cho Thu Minh tất cả những gì ông Vũ đã tặng bà, nhưng không thể được. Bà thấy hai chiếc hoa bằng hồng ngọc và trân châu chạm trổ không được tinh xảo lắm, nên bà nói:
- Cả hai cái này nữa. Cô lấy đi. Tai cô mà mang chúng thì vừa lắm đấy. Chắc ông có cho cô nữ trang chứ?
- Dạ không ạ. Nhưng, em không muốn.
Bà Vũ cầm lấy cái điếu nhỏ, nhồi thuốc, rít hai hơi dài và đặt xuống. Một chút tro vương ra bàn, Thu Minh với tay phủi đi.
Bà Vũ nói:
- À, này! Có phải ông đi chơi thanh lâu không?
Mặt Thu Minh ửng đỏ. Nàng trả lời cách giản dị:
- Thưa, người ta bảo thế đấy, nhưng ông không nói gì với em cả.
- Thế cô không biết điều ấy sao? Ông có yêu cô nhiều không?
Thu Minh cúi mặt.
- Dù sao, đối với em, ông yêu như thế cũng đã quá lắm rồi. Nhưng em không thể yêu ông.
Nàng nói một cách buồn bã, nhưng quả quyết.
Bà Vũ lắng nghe và ngạc nhiên cảm thấy xót thương chồng.
- Cô với tôi, chúng ta đã làm hại ông. Tôi thì vì tuổi già của tôi, mà cô thì vì tuổi trẻ của cô. Cô có cố yêu ông không?
Thu Minh ngước đôi mắt đen, rất đoan chính. Nàng đáp cách đơn sơ:
- Ồ, có chứ, em đã thử, đó chính là bổn phận của em kia mà.
- Phải, đó chính là bổn phận của cô.
- Em biết thế.
Rồi vẫn với một giọng buồn buồn, nàng khiêm tốn nói:
- Em vâng lời ông trong mọi sự. Ít ra em đã thành công trong điểm ấy.
- Ông có biết cô không yêu ông không?
- Ông biết, vì ông có hỏi và em đã trả lời sự thật.
- Chao ôi! Cô đừng nói chứ. Nếu đàn bà ai cũng nói sự thật với đàn ông cả thì sẽ ra làm sao?
Thu Minh nói:
- Em dại dột quá!
- Vì vậy nên ông đi chơi thanh lâu phải không?
Bà Vũ nghĩ ngợi rồi thở dài.
- Rốt cuộc lại, giữa đàn ông và đàn bà không bao giờ hết được những điều phiền não! Khi nào cô ở cữ?
Thu Minh đáp:
- Thưa, tháng sau.
Bà Vũ đột ngột hỏi:
- Cô có sung sướng không?
Thu Minh vẫn làm thinh, dáng người không thay đổi, hai bàn tay nàng chắp lại trên gối, mắt cúi xuống, vai buông xuôi. Khi nghe chuyện, nàng siết hai bàn tay lại và ngước nhìn lên.
- Điều ấy sẽ mang lại cho em được một chút gì đó trong đời này.
Và nàng lại cúi nhìn xuống đất.
Bà Vũ thấy không còn gì phải hỏi thêm nữa. Bà nói:
- Thôi cô hãy ra về. Tôi sẽ nói chuyện với ông và tôi sẽ xem lòng trí ông để cả ở đâu.
Thu Minh đứng dậy cúi chào bà Vũ rồi đi ra. Lát sau, nàng trở lại và ngửa bàn tay ra. Mấy món nữ trang óng ánh trong lòng bàn tay nàng. Nàng nói:
- Em quên cám ơn chị.
- Khỏi phải cám ơn. Cô nhận tức là cám ơn tôi rồi đấy.
Thu Minh nói:
- Thưa Đại- nương em xin thành thực cám ơn chị.
Và nàng lại ra về.
Ngày hôm ấy, bà Vũ xin cáo thầy An-Rê. Một lát sau, trước giờ cơm tối, bà sai Giang đến báo cho ông Vũ biết bà sẽ đến thăm. Nghe thế, ông vội vã đến ngay. Ông nhã nhặn nói:
- Để tôi đến đây cũng được, mẹ nó ạ.
Bà Vũ ngạc nhiên thấy ông gầy đi, xanh hơn, và bà tự trách mình. Bà đứng dậy đón ông, và cả hai cùng ngồi xuống. Càng nhìn ông, bà Vũ càng lo lắng. Ông có vẻ không được khỏe. Mắt ông bao giờ cũng rất tươi sáng, linh hoạt, bây giờ thì lờ đờ, mất vẻ tinh anh. Bà hỏi:
- Mình đau phải không?
- Có đau ốm gì đâu.
- Nhưng, mình không được khỏe à?
- Ồ, khỏe lắm.
- Còn cô hai ra sao?
Ông giơ hai tay lên:
- Cô ta hết sức cố gắng.
- Nhưng cô ta không được như ý mình muốn phải không?
Ông Vũ có vẻ bối rối:
- Mẹ chúng nó ạ, tôi đoan quyết với mình rằng, điều đó thực rất khó cho một người vợ trẻ. Mình cũng biết, tôi đã già rồi.
Bà Vũ nhất định hỏi cho vỡ lẽ:
- Thế mà tôi nghe nói mình đi chơi thanh lâu!
Ông nhún vai, và trả lời không chút e thẹn:
- Tôi đi một đôi khi với bác Khương. Trả tiền cho gái, không cần đợi nó phải yêu, thật là dễ dàng, khỏi phải bày vẽ gì cả. Cái khó là phải giả vờ. Ái Liên ạ, với mình thì không cần, vì tôi yêu mình lắm. Nhưng nàng hầu này, tôi không thể yêu mà càng không thể không yêu được (ông giả vờ vuốt tóc, rồi tiếp). Đi chơi thanh lâu là khỏe hơn cả.
- Nhưng qua tháng sau, con mình sẽ ra đời.
- Phải, tôi biết.
Ông lại vuốt đầu, ngần ngừ nói:
- Lạ quá! Tôi có cảm tưởng nó không phải là con tôi! Dầu sao, mình và tôi, chúng ta cũng đã có bốn trai rồi.
Một lát sau, bà Vũ nói:
- Vậy thì Thu Minh không ích lợi gì cho nhà này cả sao?
Ông Vũ lại vuốt tóc. ?