← Quay lại trang sách

Chương 10

Ông Vũ đi chơi thanh lâu, nơi mà vợ ông chẳng muốn ông đến chút nào. Ban đầu, ông miễn cưỡng đi theo ông Khương, dần dà hóa quen, đến nỗi bây giờ ông nghĩ đến các cuộc vui chơi ở đó một cách thích thú.

Ông không hiểu Thu Minh, nàng không khôn ngoan bằng bà Vũ là người mà ông bền lòng sùng kính như một thầy chùa đối với Phật bà Quan Âm. Thu Minh không phải thần nữ, cũng không phải là đàn bà. Khi ông xem nàng là thần nữ thì nàng sửng sốt, còn khi ông cư xử với nàng như một người đàn bà thì nàng lại lấy làm xấu xa. Vì thế ông ngượng ngùng và không dám mạo hiểm xa hơn. Cơ sự đã đến mức ông không biết xử trí với nàng ra sao, nên ông để nàng yên tĩnh.

Kinh nghiệm ấy làm ông càng tăng thêm lòng sùng kính bà Vũ; bây giờ ông mới nhận thấy, bà có thể tỏ ra mình khi thì như thần nữ, khi thì đàn bà, nhưng không bao giờ cả hai xuất hiện một lúc. Nhưng vì bây giờ bà nhất quyết làm thần nữ mà không trở lại đàn bà nữa, nên ông phải tìm một người đàn bà ở chỗ khác.

Ông đã tìm ra người đàn bà ấy nơi một cô gái nhỏ nhắn, tròn trĩnh và vui vẻ tại Mẫu- đơn đình. Ngôi nhà đã cổ, bề ngoài là một trà thất, nhưng cũng là một nơi chứa bạc và gái. Gái ở đó bao giờ cũng sạch sẽ, trẻ trung và vui vẻ. Ông Khương, khách chơi đã lâu năm quản quyết rằng bọn gái ở đấy có nhiều đặc điểm. Hơn nữa, đòi hỏi lắm cũng vô ích. Nếu chỉ muốn vừa ăn uống vừa ngắm gái, thì ngồi đó rất dễ dàng. Nếu thích có một cô để chuyện trò thân mật như một người bạn thì người ta cũng liệu xếp đặt cho. Còn muốn vượt quá giới hạn ấy thì cần phải có mánh lới. Vì bao giờ cũng có sẵn một số khách chơi chờ đợi. Ông Vũ, với tư cách là gia trưởng một gia đình giàu sang, nên dễ được xếp vào hàng đầu.

Với dáng điệu của một khách chơi quen thuộc, ông bước vào một gian phòng bài trí mỹ lệ và được mọi người đón tiếp niềm nở. Chủ nhà lớn tiếng bảo người phụ việc:

- Nói với cô Lài có ông Vũ đến.

Ông Vũ khoan thai tiến vào phía trong, tới một gian phòng. Người ta pha trà cho ông rồi dọn rượu và một tô xúp có nổi lều bều mấy lát bánh. Ông đang ăn thì cô Lài bước vào.

Nàng đang xức dầu thơm lên mái tóc thì được gọi, và nàng đến với hai cuốn tóc trên mé tai. Nàng tên Lài, dùng dầu thơm hoa lài và thường cài một vài đóa hoa lài vào búi tóc nên việc ấy đã thành một đặc điểm riêng của nàng. Mặt nàng đánh phấn trắng, đôi môi đỏ choét, hai mắt tròn rất đen. Nàng tròn trĩnh, miệng luôn luôn cười nụ. Nàng chạy đến, đưa má cọ vào má ông Vũ.

Ông Vũ làm ra vẻ dửng dưng. Nàng trề môi và giả vờ khóc.

- Em đói quá!

Ông cầm lấy cái muỗng sành, múc xúp trong bát và trịnh trọng đút cho nàng ăn. Mỗi lần ông Vũ đưa muỗng lên thì nàng cúi xuống húp như một đứa trẻ. Cả hai người ăn hết bát súp, đoạn ông Vũ lui ghế ra khỏi bàn và Lài lên ngồi trên gối ông. Ông Vũ hỏi:

- Hôm nay em làm gì?

Nàng ngắm móng tay hồng:

- Ồ! Em đợi mình. Em chỉ có mỗi một việc ấy.

Ông Vũ nói:

- Tôi không thể đến luôn đây được. Tôi còn phải lo công việc. Tôi là một người kinh doanh. Tôi có cửa hàng, có việc giao dịch mua bán và có đất ruộng phải trông coi. Không có tôi thì không xong việc gì cả.

Lài nói:

- Mình làm việc quá nhiều. Nhưng hình như các con trai của mình có thể giúp đỡ được mình kia mà.

- Ồ, con trai của tôi, chúng chỉ nghĩ đến bản thân và gia đình chúng. Hai đứa đã đi rồi. Thằng con đầu nó làm hết sức, nhưng tôi không thể giao phó cho nó tất cả được.

Ông tận hưởng cái khoái cảm của một tấm thân nhỏ thó tròn trặn áp vào mình. Ông thích hương tóc của Lài. Hơi thở của nàng cũng thơm. Ông nhớ lại câu hỏi của bà Vũ: "Ông muốn đưa nàng về nhà không?" Thú thật, ông muốn lắm, nhưng ông không thể nào đưa một gái thanh lâu về trong nhà tổ phụ. Hình bóng của thân sinh ông ngăn cấm ông làm điều ấy.

Dường như Lài theo dõi tư tưởng của ông, nàng đưa tay quàng qua cổ và ghì sát vào người ông. Nàng nói:

- Em muốn về ở với mình. Em sẽ rất tử tế. Em sẽ không làm cho các bà lớn trong nhà phải buồn phiền. Em cứ ở như thế này mãi để đợi mình.

Ông vội vã nói:

- Ồ, không. Tôi không muốn đem em về. Tôi thích đến gặp em ở đây. Nếu đem em về thì em sẽ là người trong nhà và tôi không biết đi tìm lạc thú nơi đâu. Người đàn ông phải là đàn ông thật sự ở một nơi nào đó.

Nàng đợi ông nói điều ấy. Nàng có một mụ già tên là Liên, chỉ vẽ nàng cách bảo vệ quyền lợi của mình - mụ ta hồi còn thanh xuân cũng là một kỹ nữ. Mụ ấy bảo nàng:

- Nếu được làm hầu thì tốt, bằng không thì xin một cái nhà riêng.

Nàng nói với ông Vũ:

- Ông Vũ, ông không thể mua cho em một ngôi nhà nhỏ sao? Trừ ông ra, em sẽ không tiếp ai cả. Em đợi ông suốt ngày. Như vậy, ông có thể sống tự do mỗi khi ông thích.

Ông Vũ đã nghĩ đến điều ấy. Chỉ nghĩ đến việc người ta kêu tên ông ra mỗi khi ông đến thanh lâu này cũng đủ làm cho ông khó chịu. Dù sao ông cũng là gia trưởng nhà họ Vũ, một người trọng vọng nhất trong hàng quí tộc ở thành này.

Nhưng bà giữ sổ sách gia đình, ông biết làm thế nào để lấy được một số tiền đủ mua nhà cho Lài! Ông âu yếm nói:

- Đóa hoa lài nhỏ bé của tôi ơi! Bà nhà tôi là một người rất đặc biệt. Chính bà ấy giữ sổ sách. Tôi muốn mua cho em một cái nhà lắm, nhưng biết nói với bà ấy làm sao bây giờ!

- Ông không thể bán một vài sào đất mà bà ấy không thể biết sao?

Nàng đứng dậy và nhìn ông với đôi mắt van nài. Nàng có một giọng nói nhỏ nhẻ, ngây thơ, rót vào trái tim ông. Ông bối rối nói:

- Tôi không phỉnh gạt bà ấy bao giờ.

Lài ngạc nhiên hỏi:

- Thế bà có biết chuyện em không!

- Gần như biết.

- Gần như biết là nghĩa gì!

- Nghĩa là, biết sơ sơ vậy.

- Sao bà có thể biết sơ sơ được! Biết hay không biết chứ!

- Thì cứ cho là bà ấy biết đi, thế là chắc chắn hơn cả.

Lài lại mưu toan một lần nữa. Nàng úp mặt vào vai ông Vũ, và thì thầm:

- Em sợ có thai, vì thế em mới xin mình một cái nhà. Em không muốn có con ở đây.

Ông Vũ lo sợ. Ông nâng Lài khỏi gối, đặt đứng trước ông, hai tay nàng bưng lấy mặt. Ông nghiêm khắc nói:

- Xem kìa! Có những người khác trước tôi à! Em còn nhỏ như vậy mà đã mất trinh sao?

Nàng cất tay khỏi mặt, làn phấn vẫn y nguyên.

- Em xin thề là không có ai kể từ ngày ông đến. Em có thai đã ba tháng, mà ông thì đến trước nữa.

Nàng quay mặt đi và đưa tay áo chùi mắt. Rồi với một giọng non nớt và buồn bã, nàng nói:

- Không can gì đâu. Đó là số phận của em. Hạng gái như em - rất có thể có thai, nhất là khi chúng em thành thực yêu một người, mặc dầu chúng em không muốn có thai chút nào. Em đã lỡ lầm.

Nếu nàng khẩn khoản, nài xin, thì có lẽ ông đã đứng dậy ra về và không bao giờ trở lại. Nhưng vốn nhân từ, ông nói:

- Bây giờ, dầu cô có lỗi hay không, cô cũng biết cách tống khứ nó đi. Đây tôi giúp cô.

Ông đút tay vào ví, nhưng cô không chịu nhận tiền.

Nàng đẩy tay ông Vũ, nói:

- Không, em van ông. Em sẽ giữ lấy nó. Em muốn có con.

Ông Vũ khẩn khoản:

- Không nên.

Lúc bấy giờ có tiếng ồn ào ở phòng ngoài. Người chủ lớn tiếng gọi:

- Ông Vũ! Ông Vũ!

Cánh cửa vụt mở, ông Vũ thấy Phê, người tớ trai của ông hiện ra. Anh ta kêu lên:

- Thưa ông! Thưa ông, cả nhà đang tìm ông. Bà hai thắt cổ tự tử nơi cây lựu già.

Ông Vũ kêu lên:

- Trời ơi!

Ông đứng dậy và hấp tấp ra về, Lài đứng giữa phòng nhìn theo, cau mày xung giận.

Ông Vũ nghe thiên hạ bàn tán dọc đường. Người ta đã mời các pháp sư đến: họ khua chiêng chiêu hồn phiêu lạc. Cổng mở không có người gác, ông Vũ chạy vào sân Mẫu đơn. Các pháp sư có mặt cả ở đấy. Cả nhà tề tựu để than khóc và gọi tên Thu Minh. Ông Vũ bảo họ xê ra và ông thấy nàng nằm sóng sượt trên mặt sân lát đá. Bà Vũ quì một bên, cánh tay bà nâng lấy đầu nàng - cái đầu ngoẻo qua ngoẻo lại dường như không có sự sống.

Ông Vũ kêu lên:

- Chết rồi à!

Bà Vũ đáp:

- Không còn dấu gì sống nữa! Tôi đã cho mời vị giáo sĩ ngoại quốc. Chúng tôi đã mời tất cả pháp sư này thì sao ta lại không mời thầy ấy!

Ngay lúc đó, thầy An-Rê tiến vào và đám đông rẽ ra nhường lối như mặt biển khi có ngọn gió thổi qua. Các pháp sư nín lặng, ganh ghét. Thầy An-Rê quì xuống, chích một mũi kim vào cánh tay Thu Minh.

Bà Vũ nói:

- Tôi không hỏi điều thầy làm, nhưng tôi biết là khôn ngoan.

Thầy An-Rê đáp:

- Một thứ thuốc kích thích.

Thầy rút kim ra rất nhanh, đến nỗi không ai trông thấy trừ ông bà Vũ.

Không, không quá chậm. Đôi môi Thu Minh mấp máy. Mọi người chăm chú nhìn nàng và thấy mí mắt nàng rung động. Bà Vũ thở ra:

- À, cô ấy còn sống. Vậy đứa con cũng sống được.

Ông Vũ kêu lên:

- Nhưng sao cô ta lại thắt cổ tự tử?

Bà Vũ bảo ông:

- Chúng ta không nên hỏi gì cả cho đến khi cô ấy có thể nói được, ông hãy tin cho các pháp sư biết là linh hồn cô ấy đã trở về. Hãy trả tiền cho thật hậu. Hãy mặc họ tin rằng họ đã thành công.

Ông Vũ vâng lời, gọi các thầy pháp và đưa họ ra sân ngoài. Đàn bà trong nhà ở lại, các bà già khen ngợi các pháp sư, còn Mai, Tố Lan và Liên Chi thì dịu dàng cúi xuống nhìn khuôn mặt Thu Minh. Nàng thuộc thế hệ của họ, nhưng bị buộc liền về thế hệ trước; điều ấy làm cho họ ngại ngùng nên họ đã bỏ quên nàng.

Thu Minh tỉnh lại thì người ta nhận thấy đứa con sắp phải sinh non. Phải mang nàng vào giường và mời bà mụ đến. Khi thầy An-Rê sắp sửa ra về thì Thu Minh nói được. Nàng thều thào:

- Có vị giáo sĩ ngoại quốc tới phải không?

Bà Vũ đáp:

- Ngài sắp đi.

Bà đứng gần giường sinh, trong lúc các tỳ nữ sửa soạn cho Thu Minh lâm bồn.

Thu Minh cầu khẩn:

- Xin bà mời ngài đến cho tôi một lát.

Bà Vũ kinh ngạc. Bà không ngờ Thu Minh cũng biết người ngoại quốc khổng lồ ấy. Nhưng người thiếu phụ rất yếu, nên bà không dám chối từ. Bà đích thân mời thầy An-Rê ở lại. Bà nói với thầy:

- Thu Minh muốn gặp thầy. Xin thầy hãy vào một lát.

Thầy An-Rê trở lại, cúi đầu lòn qua khung cửa hẹp đến gian phòng Thu Minh đang nằm. Ông Vũ dừng lại phía sau. Đột nhiên ông sững sờ, bối rối. Ông đưa gia đình đến những thảm họa nào đây? Ông chắc Thu Minh thắt cổ vì Lài. Nàng đã thinh lặng phản đối bằng cách từ bỏ sự sống.

Khi thầy An-Rê cúi xuống giường, Thu Minh mấp máy nói, giọng nàng quá nhỏ nên không ai nghe cả. Thầy cúi xuống gần hơn và nghe nàng thều thào:

- Nếu là gái, thì tôi cho thầy, khi tôi chết - nó chỉ là một đứa con hoang.

Thầy dịu dàng:

- Sinh trong nhà này thì sao gọi là con hoang?

- Nhưng chính tôi, tôi chỉ là một đứa con hoang - nên nó sẽ là con của một người con hoang.

Lúc nói những lời ấy, nàng nhắm mắt và đắm chìm trong đau đớn. Thầy An-Rê đi ra với vẻ mặt nghiêm nghị. Thầy không nói lại với ai điều nàng vừa trối. Cũng không ai nghe nàng nói năng gì vì giọng nàng quá yếu.

Khuya đêm ấy, Thu Minh sinh con gái. Đứa hài nhi nhỏ đến nỗi bà Vũ phải bọc vào một tấm bông và ẵm sát vào mình để giữ cho nó sống. Rồi bà vội vã về phòng, để Thu Minh lại cho bà mụ và Giang. Về đến phòng riêng, bà đặt đứa bé lên giường, rồi bà nằm dài một bên ấp cho nó ấm. Một a hoàn đến hỏi bà cần gì sai bảo, bà nói:

- Đi nướng ít viên gạch đem đến đây cho tôi. Đứa bé này là một nụ hoa, ta phải mở ra một cách khéo léo mới được.

- Ồ, thưa bà. Sao bà không để cho nó chết đi cho rảnh! Thứ con gái ấy nhất định sẽ đau yếu, khốn nạn và chỉ gây nên những nỗi buồn phiền trong gia đình.

Bà Vũ gắt:

- Hãy vâng lời bà.

Con a hoàn đi ra, miệng lẩm bẩm. Bà Vũ nhìn ngắm đứa hài nhi. Nó thoi thóp thở.

Hai ngày sau. Thầy An-Rê nói cho bà Vũ hay lời yêu cầu lạ lùng ấy của Thu Minh. Đứa bé không chết. Nó không bú được vì sinh quá sớm, nhưng người ta dùng thìa đổ vài giọt sữa mẹ cho nó nuốt. Thu Minh đã có sữa, nhưng nàng yếu quá không nói được. Ngay khi bà Vũ đến tin cho nàng về đứa con, nàng cũng không trả lời nổi.

Bà Vũ trang trọng nói với thầy An-Rê:

- Nó đã được sinh ra dưới mái gia đình này, dĩ nhiên nó không phải là con hoang.

Thầy An-Rê đáp:

- Tôi biết rõ bà sẽ trả lời với tôi như vậy, và bà nói có lý. Nhưng tại sao mẹ nó lại nói thế?

Bà Vũ đáp:

- Chính mẹ nó là đứa con hoang trước khi đến đây.

Bà do dự, rồi lấy làm ngạc nhiên về mình. Lần đầu tiên bà kể cho thầy An-Rê biết bà đã mua Thu Minh.

Thầy An-Rê lắng nghe, mắt nhìn xuống, hai bàn tay to lớn chắp lại trên gối. Không bao giờ bà Vũ thấy tay thầy mà không tự hỏi vì sao nó chai đến thế. Bỗng bà nói:

- Tại sao tay thầy chai đến thế?

Thầy An-Rê không lấy làm lạ vì đã quen thấy bà Vũ thay đổi câu chuyện. Không giấu hai bàn tay mình, thầy đáp:

- Vì tôi cuốc đất trồng trọt để nuôi lũ trẻ.

Bà Vũ vừa tiếp tục câu chuyện, vừa nhìn hai bàn tay thầy:

- Theo ý tôi, một giáo sĩ như thầy không nên thấu hiểu đàn ông cũng như đàn bà.

- Vì tôi là giáo sĩ nên tôi hiểu cả đàn ông lẫn đàn bà.

- Thế thì thầy hãy nói, tôi đã làm gì sai?

Bà rời mắt khỏi bàn tay thầy để nhìn lên mặt, và bà tự hỏi tại sao trong tất cả mọi người bà không chọn ai lại chọn vị giáo sĩ ngoại quốc này để cởi mở nỗi lòng, trong lúc thầy chỉ là người sinh ở một xứ xa lạ bên kia bờ đại dương.

Thầy đáp:

- Con người không phải hoàn toàn là xác thịt, bà không suy nghĩ kỹ điều đó; ngay một người như chồng bà cũng được cảm thông cùng Thiên chúa. Bà đã đối xử với ông một cách khinh bỉ…

Bà Vũ kêu lên:

- Tôi à! Nhưng tôi chỉ nghĩ đến hạnh phúc của ông.

- Bà chỉ nghĩ đến hạnh phúc ăn và ngủ của ông thì có. Và tệ hơn nữa, bà đã mua một cô gái như mua heo. Nhưng một người đàn bà giá trị hơn thế nhiều, bất luận ai, mà lẽ ra chính bà phải biết ơn tất cả mọi người khác mới phải. Bà đã phạm ba tội.

- Phạm tội?

- Bà đã khinh rẻ chồng bà, khinh rẻ một cô gái, và bà tự coi bà là độc nhất, hơn hết mọi người. Những lỗi lầm ấy đã gây nên nỗi bất an trong nhà bà. Con cái bà thấy mình bối rối và vợ họ cũng cảm thấy khốn khổ mà không biết tại sao. Thưa bà, bà nhằm mục đích gì?

Trước nét nhìn của đôi mắt bình tĩnh và tinh anh ấy, bà Vũ run lên. Bà ấp úng:

- Chỉ để được tự do… Tôi tưởng, khi tôi đã lo tròn bổn phận của tôi đối với mọi người rồi, thì tôi sẽ được tự do.

- Bà hiểu tự do như thế nào?

Bà Vũ khiêm tốn:

- Ồ, không có gì. Chỉ để được làm chủ mình tôi và thì giờ của riêng tôi.

- Bà đòi hỏi cho bản thân bà nhiều quá. Bà đòi hỏi tất cả.

Từ bao lâu nay, bây giờ bà mới cảm thấy mình sắp rơi nước mắt. Vị giáo sĩ đã làm lung lay sự bình tĩnh tự đáy lòng bà, nên bà sợ hãi. Trong nhà này mọi người đều lệ thuộc bà, nếu bà đã và đang hành động sai thì họ sẽ ra sao?

Bà Vũ hỏi bằng một giọng yếu ớt:

- Tôi biết làm sao bây giờ?

- Bà hãy quên mình đi.

- Nhưng trong bao năm nay, tôi đã hết lòng lo tròn bổn phận của tôi kia mà

- Nhưng luôn luôn với cái ý thức tự do của bà trong tâm trí.

Điều đó bà Vũ không thể chối cãi được. Bà ngồi yên, hai tay chắp trên nền áo màu xám bạc.

Cuối cùng bà nói:

- Xin thầy chỉ bảo giùm tôi.

Thầy dịu dàng:

- Thay vì nghĩ đến sự tự do của riêng bà, bà hãy tìm cách giải thoát các người khác.

Bà ngước mắt lên nhìn thầy. Vẫn cái giọng nói dịu dàng ấy, thầy tiếp:

- Phải, bà hãy giải thoát họ khỏi bà.

Bà chưa bao giờ theo đạo, nên bà nhìn thầy với một vẻ nghi hoặc.

- Thấy nói theo lẽ đạo của thầy à? Nếu thế thì tôi không hiểu nổi.

- Không. Tôi không nói theo lẽ đạo.

Bà kêu lên:

- Thầy muốn tôi trở thành một bà phước ư?

- Ồ, không phải thế đâu. Tôi không có ý gì cả.

Thầy đứng dậy, mỉm cười với bà và theo thói quen thường lệ, thầy ra về mà không ngỏ lời từ giã. Điều sơ suất ấy, kẻ khác thì có vẻ bất lịch sự, nhưng với thầy, bà Vũ chỉ cảm thấy không có sự gián đoạn nào chia cách cuộc tiếp xúc vừa rồi và lần gặp gỡ sau.

Bà Vũ ngồi lặng yên rất lâu. Mặt trời chiếu vào in hình khung cửa sổ mắt võng lên trên nền nhà lát đá hoa màu xám. Khí trời còn lạnh, nhưng trong phòng vẫn ấm. Một lò sưởi đặt trước bàn giữa bức tường phía trong. Những cục than hồng được ủ dưới tro hực ra hơi nóng không màu sắc, run rẩy và chói sáng giữa khoảng không. Bà nghĩ ngợi, không có gì giản dị như bà tưởng. Sự tự do không phải là một vật người ta có thể sắp đặt được. Bà đã coi sự tự do như một quả đào lủng lẳng trên cây, bà chăm nom vun vén cây đào và khi có trái, bà vồ lấy trái ấy, thì ra nó còn xanh.

Bà thở dài, nghe đứa con của Thu Minh khóc ở phòng bên. Bà sang ẵm nó trong tay, rồi trở lại thư phòng và ngồi bên lò sưởi. Đứa bé nín thinh, nằm yên trố mắt nhìn bà Vũ.

Bà Vũ thầm nghĩ: Ta không yêu đứa bé này. Có lẽ chưa bao giờ ta yêu một đứa trẻ nào cả. Phải chăng tất cả những hoạn nạn đã xẩy ra là vì ta không bao giờ có thể yêu một ai!

Mặc dầu không yêu nó, bà Vũ vẫn theo bản năng ẵm đứa trẻ một cách cẩn thận. Khi Giang đến, bà Vũ lại chăm sóc cho nó uống sữa và bằng lòng vì thấy nó nuốt rất tử tế.

Bà yên tâm nói với Giang:

- Chị trao đứa bé cho tôi để tôi mang đến cho mẹ nó. Con bé này sẽ sống, nó sẽ trói buộc mẹ nó vào với cuộc đời.

Lát sau, bà ẵm đứa trẻ trong tay đi qua các sân đầy ánh nắng, đến phòng Thu Minh. Thu Minh nằm, mắt nhắm nghiền, môi mím chặt. Nàng xanh xao một cách dễ sợ. Đôi tay nàng lúc mới đến, nhám cứng và mạnh mẽ vì cuộc đời lam lũ, nay có vẻ ốm gầy, nhợt nhạt và buông xuôi trên tấm lụa.

Bà Vũ dịu dàng nói:

- Con của cô đây này, nó uống rất khỏe, nó đến thăm cô và ngủ với cô đây.

Thu Minh không nhúc nhích. Bà Vũ nâng cùi tay đặt đứa bé sát nách nàng và đắp chăn lại. Cánh tay Thu Minh khép lại ấp lấy đứa bé.

Nàng khiêm tốn nói:

- Xin bà tha lỗi cho em; vì em không sinh con trai được để đền đáp ơn bà.

Bà Vũ đáp:

- Đối với tôi, gái trai gì cũng đều là trời cho cả. Vả lại ngày nay có con gái nhiều cũng tốt chứ sao.

Rồi nhớ lại lời thầy An-Rê đã nói, bà vội thêm:

- Cô đừng tưởng là cô có nhiều bổn phận phải đền đáp cho tôi. Cô không có bổn phận gì cả.

Thu Minh có vẻ ngạc nhiên:

- Thế thì tại sao em lại ở đây?

Bà Vũ ngồi xuống mé giường. Bà nói:

- Có người đã minh chứng cho tôi thấy rõ, tôi đã gây nên một tai hại lớn cho em. Em ạ! Quả thực chị đã làm điều không phải đối với em. Đối với một con người, sao chị lại có thể mua bán như thế được? Bây giờ chị mới hiểu là chị đã không nghĩ đến linh hồn của em. Chị có thể làm gì để chuộc lại nhỉ?

Giọng bà Vũ êm ái, đều đều và Thu Minh có vẻ hoảng sợ. Nàng ấp úng:

- Nhưng em sẽ đi đâu?

Bà Vũ thấy Thu Minh không hiểu lời bà: nàng tưởng bà khéo léo bảo cho nàng biết là nàng vô dụng, và bà không cần gì đến nàng nữa.

Bà Vũ nói:

- Tôi không muốn cô đi nơi khác. Tôi chỉ nói rằng tôi đã làm hại cô. Cô hãy để cho tôi phân phô điều ấy: nếu cô được tự do không phải chăm lo ai cả thì cô sẽ làm gì?

Thu Minh nghi hoặc hỏi:

- Không phải chăm lo ai cả à? Sao được? Còn có ông chủ và bà nữa và ngoài hai ông bà còn có tất cả gia đình.

- Tại sao cô xin vị giáo sĩ ngoại quốc nhận nuôi đứa con, nếu cô chết?

- Vì chị Giang nói rằng, theo hình dạng của em thì chắc là sinh con gái, nên em nghĩ: thà chết cả hai mẹ con để khỏi phiền lụy đến ai.

- Sự chết cũng có thể gây nên những nỗi buồn phiền như sự sống.

Thu Minh ngây thơ nói:

- Em không có lợi ích gì cho ai cả.

Bà Vũ không cãi lại được. Bà đứng dậy, vì trong giờ phút này bà cảm thấy hoàn toàn bất lực. Bà nói:

- Cô đừng có những tư tưởng ấy nữa. Nếu cô chết đi thì chúng tôi phải cực nhọc lắm mới nuôi nổi con nhỏ này, và cô cũng biết rằng, tôi không phải là hạng người có thể yên lòng để chết một đứa trẻ.

Thu Minh nói:

- Bà tốt quá!

Rồi hai hàng mi nàng khẽ khép lại, nước mắt len lén ứa ra. Bà Vũ biết thế, nhưng đồng thời bà cũng nom thấy cánh tay Thu Minh ghì chặt đứa bé vào lòng. Đó là triệu chứng tốt. Bà lui ra.

Khi ngang qua hoa viên, bà gặp ông Vũ đi về. Bất ngờ hai người chạm mặt nhau, và bà biết ngay ông vừa uống rượu, vì mặt ông đỏ gay và mồ hôi lấm tấm trên trán.

Ông nói:

- Kìa mình!

Bà âu yếm:

- Tôi vừa đến thăm cô hai. Chúng ta phải xét kỹ về trường hợp của cô ấy. Cô ta muốn tự tử vì sợ sinh con gái và cả hai mẹ con sẽ là gánh nặng cho trong nhà.

Ông kêu lên:

- Vô lý thật! Làm như chúng ta là kẻ nghèo túng nên đã quan tâm đến việc thêm hay bớt một miệng ăn!

Bà Vũ bảo chồng:

- Chúng ta đến phòng mình đi. Tôi cần biết ý kiến của mình.

Hai ông bà trở lại gian phòng vuông và rộng, nơi mà họ đã từng trải qua biết bao giờ khắc trong thời gian sống chung. Xa hơn là phòng của Thu Minh, ở đó nàng đang ôm con nằm nghỉ, nhưng họ không sợ nàng nghe được.

Bà Vũ nói:

- Bây giờ thì cô ấy vẫn sống trong nhà, chúng ta biết xử trí với cô và đứa nhỏ ra sao? Vì tôi thấy mình không ân cần gì đến cô ta cả. Tuy vậy, có cô ta ở đây nên tôi khỏi phải ở cạnh mình.

Ông Vũ có vẻ khó chịu. Sáng hôm ấy ông mặc áo lót lông, và càng trưa trời càng bớt lạnh. Vả lại, mỗi khi gặp điều khó chịu, dẫu giữa mùa đông ông cũng cảm thấy bừng nóng trong người. Ông ấp úng:

- Tôi xấu hổ, vì sau cái mỹ ý của mình thì… Dầu sao, Thu Minh cũng hiền hậu. Nhưng mình cũng biết công việc ra sao rồi. Đàn bà có tính hiền hậu là điều rất tốt, nhưng…

Bà vẫn ngồi với dáng ngồi thường nhật, hai tay chắp trên gối. Bà không nhìn chồng. Bà đăm chiêu ngắm bóng cây tre mùa đông in hình trên khung cửa đầy ánh nắng và gió khẽ lay động lá cây. Bà nghĩ đến thầy An-Rê và bỗng hiểu ngay điều thầy nói. Bà chỉ được giải thoát khi nào bà đã tận hiến và bà chỉ đạt được điều ấy bằng cách ép mình làm những việc bà cho là khó khăn.

Bà nói mà không ngước nhìn chồng:

- Tôi xin nhận những lỡ lầm của tôi; bây giờ mình muốn sao tôi làm vậy. Nếu mình muốn thì tôi sẽ đuổi Thu Minh đi. Và tôi sẽ trở lại với mình. Chúng ta hãy quên mấy tháng vừa qua.

Bà chờ đợi một tiếng reo mừng, nhưng không có. Khi sự im lặng trở nên quá nặng nề, bà ngước mắt nhìn lên và thấy khuôn mặt hồng hào của ông nhễ nhại mồ hôi. Ông nở một nụ cười đáng thương khi thấy vợ nhìn mình. Ông mở cổ áo, rút cái khăn tay lụa ra lau mặt.

- Nếu trước kia tôi biết (ông thở hổn hển). Nếu tôi đã có thể nghĩ đến…

Bà Vũ cảm thấy lòng mình lạnh như băng. Ông không thích bà nữa. Điều người ta nói với bà có thật. Ông đã tìm cho ông một người đàn bà khác.

Bà dịu dàng bảo:

- Mình hãy nói cho tôi biết về người đàn bà ấy.

Với những lời ấp úng, ngắt quãng, những tiếng cười khúc khích vì bối rối, ông phân phô rằng, có lẽ ông phải cho Lài ở một cái nhà riêng. Cô ta còn trẻ và rất thơ ngây.

Ông nói:

- Tôi không muốn đem về nhà cho mình thêm một mối lo nữa.

Bà mở to đôi mắt dài và đẹp, Bà hỏi:

- Nếu mình hạnh phúc, thì sao em lại thêm lo lắng? Thì cô ấy cứ đến đây ở với chúng ta. Sao nhà ta lại phải phân chia ra thế?

Ông đứng dậy, đến với bà, nắm lấy tay bà và giữ bàn tay mát mẻ, bất động ấy giữa những ngón tay thô tháp của mình.

Ông trang trọng nói:

- Mình là một người vợ hiền. Không phải người đàn ông nào cũng có thể đạt được điều họ mong ước và đồng thời sống yên ổn dưới mái nhà của họ.

Bà mỉm cười và rút tay ra.

Tuy hai người từ giã nhau đã lâu, bà vẫn còn ngạc nhiên về sự lạnh lùng pha lẫn lòng mãn nguyện mà bà đã cảm thấy. Bà ngạc nhiên về những phức tạp mà cuộc sống có thể mang lại giữa người vợ và người chồng. Bà tưởng mình được giải thoát khỏi ông, vì không yêu ông. Nhưng sự thực không phải thế; lòng tự ái bà bị thương tổn khi bà biết ông không yêu bà nữa. Thầy An-Rê nói có lý, bà bao giờ cũng chỉ nghĩ đến mình bà.

Bà đã hỏi thầy An-Rê:

- Làm cách nào để có thể giải thoát tôi khỏi mình tôi?

Thầy đáp:

- Hãy nghĩ đến kẻ khác.

- Thế nghĩa là tôi phải luôn luôn nhượng bộ sao?

- Nếu chống đối có nghĩa là nghĩ đến chính mình, thì bà phải nhượng bộ.

- Chồng tôi muốn đem thêm một người đàn bà khác về nhà, tôi có phải nhượng bộ không?

- Chính vì lỗi của bà mà người đàn bà trước đã được đưa về đây.

Lời nói ấy đã làm bà tức giận, bà tàn nhẫn nói:

- Bây giờ thầy nói như một thầy tu. Thầy không thể hiểu được cái việc thấy mình bị buộc phải phó thác thân mình cho một người đàn ông trong bao năm trái với ý muốn của mình!

Bà lấy làm lạ là cảm thấy ước ao được chia sẻ nỗi khổ của mình với thầy, nên bà nói tiếp, không giấu giếm gì:

- … Phải hiến tấm thân thanh nhã của mình cho những bàn tay thô bạo, phải thấy lòng dục sôi trào lên, nóng bỏng, nhưng xác thịt mình thì giá lạnh - cảm thấy tâm hồn yếu đuối, lý trí bệnh hoạn, và tuy vậy phải tự nén mình đi để giữ hòa khí cho gia đình.

Khuôn mặt của giáo sĩ vẫn trong sáng và điềm nhiên.

- Có rất nhiều cách hiến dâng thể xác để làm lễ hy sinh cho linh hồn.

Bà Vũ thở dài:

- Tôi có nên để người đàn bà thứ hai này đến không?

- Cho người ấy ở nhà này với sự thỏa thuận của bà, không hơn là người ấy ở một nhà khác mà không có sự đồng ý của bà sao?

Bà nói một cách ác nghiệt:

- Tôi không bao giờ tưởng một giáo sĩ ngoại quốc lại có thể khuyên tôi điều đó.

Bà giở sách, không nói gì thêm, và dưới sự hướng dẫn của vị giáo sĩ, bà học các thánh thi Do- Thái.

Thời khắc trôi qua, bà Vũ bị kích động một cách sâu xa bởi những điều hàm chứa trong các bản thánh thi ấy. Đây là tiếng lòng của con người kêu cùng đấng mà nó có thể phụng thờ. Và sự thờ phụng là gì nếu không phải là lòng tin tưởng và hy vọng rằng sự sống hay sự chết đều có một ý nghĩa, vì do Trời muốn và dựng nên?

- Ông trời của chúng tôi có phải là Thiên chúa của thầy và Thiên chúa của thầy là ông trời của chúng tôi không?

- Cả hai là một đấng.

- Nhưng sao cô Hsia quả quyết với tôi là không phải thế. Cô đã thường bảo chúng tôi phải tin vào một Thiên chúa chân thật, chứ không phải là ông Trời của chúng tôi. Cô nói, hai tiếng ấy khác nhau.

Thầy dịu dàng nói:

- Chỉ có một Chúa thật mà thôi, nhưng người mang nhiều tên.

- Như vậy, bất cứ nơi nào trên trái đất, bất cứ ở cạnh đại dương nào, những người tin vào Thiên chúa của họ, đều là tin vào Thiên chúa chân thật.

Thầy An-Rê nói:

- Và vì thế họ đều là anh em.

Bà Vũ hỏi một cách cố chấp:

- Vậy nếu tôi không tin Thiên chúa nào cả thì sao?

Thầy An-Rê đáp:

- Thiên Chúa là đấng nhẫn nại, Thiên chúa đợi chờ. Người không phải là đấng hằng có đời đời sao?

Bà Vũ có cảm giác như một ngọn triều ấm áp và lạ lùng chảy ngang qua hai người. Nhưng không phải nó bắt nguồn nơi thầy để chấm dứt nơi bà. Dường như họ chỉ truyền nó đi từ đầu này đến đầu kia trái đất.

Bà lại nói:

- Thiên chúa là đấng kiên nhẫn, Thiên chúa chờ đợi.

Nói xong những lời ấy, hai người từ giã nhau. Thầy An-Rê gói sách vào một chiếc khăn đen cũ và cắp vào nách. Bà đứng ở cửa thư phòng, nhìn thầy đi qua sân. Chiếc bóng cao lớn của thầy hơi còng xuống, dường như cái đầu hoa râm là một gánh nặng cho đôi vai thầy. Bà tự bảo: hay là vì thầy quá chăm chú nhìn quãng đường trước mắt? Ít khi thầy ngẩng lên để nhìn những gì xẩy ra ở đàng xa.

Bà quay trở vào thư phòng, như mọi lần khi học xong. Bà ngồi nán lại một giờ để ghi nhớ những điều thầy An-Rê đã dạy, đọc lại những đoạn sách, nhìn những bức ảnh, và suy nghĩ về những lời thầy đã giảng giải.

Nhưng ngày hôm ấy, khoảng một giờ sau, có tiếng ồn ào từ các sân ngoài vẳng đến. Bà đứng dậy lắng nghe. Thế nào Giang cũng đến cho bà biết chuyện gì đã xẩy ra. Bà vừa tự nhủ như vậy thì Giang đã chạy đến trong vườn. Chị trùm tấm khăn mang trước ngực lên đầu và vừa đi vừa nức nở.

Bà Vũ đứng dậy; quyển sách bà đang cầm rơi xuống đất. Ban đầu bà nghĩ đến Lãng, người con trưởng của bà, nhưng sáng ấy chàng đã đi làm việc như thường lệ. Bà nghĩ đến ông Vũ… nhưng Giang đã đến bên thềm. Bỗng chị cất chiếc khăn che mặt và kêu lên:

- Trời ơi! Vị giáo sĩ ngoại quốc!...

Bà Vũ vụt hỏi:

- Ngài bị gì? Ngài vừa mới ở đây ra một lát.

Giang kêu lên:

- Ngài bị đánh ở ngoài đường! Ngài bị vỡ sọ.

- Ngài bị đánh à!

Chị Giang tấm tức:

- Thì chính bọn du côn ấy mà, tụi áo xanh ấy - bọn ăn cướp! Chúng đang ăn cướp ở tiệm cầm đồ, vị giáo sĩ thấy ông ta kêu la, ngài dừng lại can thiệp! Nên bọn ấy chạy ra đánh ngài, đánh ngay vào đầu…

Bà Vũ chỉ nghe nói sơ qua về lũ áo xanh, nhưng bà biết đó là những tên vô lại chạy rong dọc đường. Bao giờ viên quản lý cũng thêm vào sổ chi một khoản: "đóng góp cho bọn áo xanh".

Bà kêu lên:

- Thầy An-Rê bây giờ ở đâu?

- Người ta đã chở ngài về nhà và ngài đang nằm trên giường, nhưng người gác cổng đấy kìa, anh ta nói vị giáo sĩ bảo mời bà đến.

Bà Vũ nói:

- Vậy thì tôi phải đến đó ngay. Chị soạn áo dài cho tôi mau.

- Để con đi gọi mấy người phu kiệu.

- Không, như thế chậm lắm. Tôi sẽ đi xe kéo ngoài cổng.

Vài phút sau, cả nhà đều biết, lần đầu tiên trong đời bà Vũ đi đến một nơi không quen biết, là nhà của một vị giáo sĩ ngoại quốc. Bà ngồi trong xe kéo và bảo người phu xe:

- Nếu anh chạy gấp đôi thường ngày, tôi sẽ trả tiền gấp đôi.

Người phu xe vừa chạy vừa nói:

- Bà trả tiền bằng ba thì tôi sẽ chạy gấp ba.

Giang đi theo bà Vũ sau xe, trên một chiếc xe kéo khác, nhưng lần này bà Vũ không nghĩ gì đến dư luận. Trong trí bà chỉ có một ý tưởng: đến cho kịp ở bên vị giáo sĩ để nghe ngài nói một lời cuối cùng, và lãnh các huấn thị của ngài cho những ngày sống còn lại của bà.

Bà bước xuống trước một cánh cửa gỗ không sơn, giữa một bức tường thấp bằng gạch. Không nhìn chung quanh, bà đi thẳng vào trong. Một mụ già đợi bà và khóc. Bà hỏi:

- Thầy An-Rê đâu rồi?

Mụ già quay lại và đưa bà vào một ngôi nhà gạch thấp lè tè, qua một mảnh sân đầy trẻ con đang kêu khóc, rồi đến một gian phòng.

Thầy An-Rê nằm trên một cái giường tre hẹp. Lũ người vô gia cư, áo quần rách rưới bao quanh lấy thầy. Họ tránh ra để nhường lối cho bà Vũ đến gần giường. Dường như biết bà Vũ đến, thầy An-Rê mở mắt ra. Đầu thầy băng vụng về bằng vải trắng thô, dưới lần vải máu rỉ ra lăn theo má và thấm xuống gối.

Bà Vũ nói:

- Tôi đã đến đây. Xin thầy hãy bảo cho biết, tôi phải làm gì?

Trong một lúc lâu, thầy không thể nói được. Thầy đang hấp hối. Bà trông thấy sự trống không ở tận đáy đôi mắt đen sẫm của thầy, sau đó, ý chí thầy tập trung lại, mắt thầy sáng lên. Thầy nhìn bà và đôi môi hé mở, lồng ngực căng lên, thầy nói cách rõ ràng:

- Hãy chăm sóc đàn chiên nhỏ của tôi.

Rồi bà thấy sự chết đến. Hơi thở ngừng lại, đôi mi run rẩy, ý chí lui ra. Thầy An-Rê rùng mình và hai tay rời khỏi giường, thòng xuống hai bên chạm vào nền gạch lạnh. Bà Vũ nghiêng mình đỡ lấy tay mặt, một người đàn ông rách rưới cầm lấy tay trái, rồi cả hai giữ lấy tay thầy trong tay mình. Ngang qua thi hài thầy An-Rê, bà Vũ nhìn vào đôi mắt người đối diện. Đó là một người nghèo khổ, một người đầy tớ, một người ăn mày. Người ấy nhìn bà khiêm tốn, rồi nâng cánh tay thầy An-Rê để lên bộ ngực bất động của thầy. Bà Vũ cũng đặt cánh tay mặt bà đang cầm lên trên. Lũ trẻ chạy ùa vào phòng, hấp tấp bu quanh chiếc giường bây giờ đã trở thành giường tang.

Chúng kêu lên:

- Cha ơi! Cha ơi!

Chỉ toàn là con gái, lớn bồng bé, đứa lớn nhất không quá mười lăm tuổi. Chúng đứng dựa vào thầy An-Rê, sờ xác thầy với những bàn tay nhỏ xíu. Chúng lấy chéo áo cụt chùi vết máu trên mặt thầy.

Bà Vũ hỏi:

- Các em là ai?

Lũ trẻ cùng đáp, rời rạc:

- Chúng con là những con chiên của ngài.

Người đàn ông rách rưới nói:

- Chúng nó là những đứa trẻ vô thừa nhận. Những đứa bé, ngài nhặt ngoài bờ thành. Những đứa lớn là những tên nô lệ đào tẩu. Ngài nhận bất cứ ai.

Bà Vũ chỉ muốn khóc một mình mà thôi, khóc cho chính bà, nhưng lũ trẻ đã lăn xả vào, ôm choàng lấy xác thầy An-Rê.

Một đứa vừa than khóc vừa nói:

- Ôi chao! Cha lạnh quá!

Nước mắt long lanh trên má nó. Nó cầm lấy tay thầy An-Rê áp vào má ướt của mình.

- Tay cha lạnh quá!

Bà Vũ đứng yên giữa cái gia đình kỳ lạ ấy. Bấy giờ bà mới biết là bà chưa rõ đầu đuôi các việc đã xẩy ra. Bà hỏi rất khẽ:

- Ai đã đem thầy về đây?

Người đàn ông rách rưới vỗ ngực:

- Chính tôi, tôi thấy ngài ngã xuống. Người qua đường ai cũng sợ. Lũ cướp thấy ngài hấp hối nên bỏ chạy toán loạn. Người chủ tiệm đóng cửa, trốn kỹ trong nhà. Nhưng tôi, tôi chỉ là một thằng ăn mày thì tôi còn sợ cái gì? Vị giáo sĩ ngoại quốc này đôi khi cho tôi tiền, nhất là về mùa đông, nhiều bữa tôi về đây, trong nhà này, ngài cho tôi ăn, và tôi nằm ngủ cho đến sáng hôm sau.

Bà Vũ ngạc nhiên kêu lên:

- Chú cõng ngài về tận đây à?

Người ăn mày nói:

- Cả bọn ăn mày của tôi nữa chứ (và bà Vũ nom thấy một số người áo quần rách rưới). Thầy to lớn quá, không thể một hay hai người mà vác nổi.

Bà Vũ nhìn khuôn mặt bình tĩnh của thầy An-Rê. Bà đến đây với hy vọng được nghe thầy nói đôi lời cho riêng mình. Nhưng thay vì thế, thầy chỉ nói:

- Hãy chăm sóc đàn chiên nhỏ của tôi.

Đến lượt lũ trẻ, với bản năng tinh nhạy của tuổi ấu thơ, chúng lại nhìn bà. Chúng quan sát bà, chuyển lòng hy vọng từ hình thể im lặng của thầy An-Rê sang hình thể bà, bất động nhưng còn sống.

Bà Vũ do dự hỏi:

- Tôi sẽ làm gì cho các em?

Một đứa trẻ gầy yếu lo lắng hỏi:

- Thưa bà, cha chúng con bảo bà phải làm gì?

Em ôm một con búp bê to lớn trong tay.

Bà Vũ chỉ có thể trả lời sự thật.

- Ngài bảo tôi nuôi các em.

Bọn trẻ nhìn nhau. Đứa bé gầy yếu chuyển con búp bê sang cánh tay khác. Nó hỏi:

- Bà có đủ của ăn cho hết thảy chúng con không?

Bà Vũ đáp:

- Có chứ.

Em bé nói tiếp:

- Chúng con có hai mươi đứa tất cả. Con đã mười lăm tuổi - đến tuổi mười sáu cha lo thu xếp cho chúng con.

Bà Vũ vẫn đứng nhìn lũ trẻ. Bà hỏi:

- Thu xếp gì cho các con?

Mụ ở già đã đi vào, mụ nói:

- Khi chúng nó đến mười sáu tuổi, cha lo tìm cho chúng một mái nhà và một người chồng tốt.

Họ nói chuyện dường như cái hình thể to lớn, yên lặng nằm dài trên giường còn sống.

Bà Vũ nhìn vị giáo sĩ. Đôi mắt ngài nhắm lại, hai tay chắp lên ngực. Bỗng bà đột ngột nói:

- Các em ra khỏi đây đi. Hãy để thầy yên tĩnh.

Vâng lời, tất cả những người ăn mày, những em gái nhỏ và mụ già lui ra, chỉ còn lại một mình bà Vũ. Giang đứng ở cửa, sững sờ.

Bà Vũ nói:

- Giang! Ra ngoài kia đi.

Giang đáp:

- Con ra đứng ngoài cửa.

Bà Vũ đóng cửa lại. Cử chỉ ấy của bà có thể làm cho người ta bàn tán. Tại sao một người đàn bà muốn ở lại cùng một giáo sĩ ngoại quốc, cho dù đã chết! Nhưng bà không đếm xỉa gì đến điều ấy. Đối với bà, thầy không còn là giáo sĩ, cũng không còn là ngoại quốc nữa. Thầy là người độc nhất mà bà tôn thờ trên đời này. Ông cụ Cố đã dạy cho bà nhiều điều. Nhưng có lắm điều ông cụ còn sợ. Thầy An-Rê không sợ ai. Thầy không sợ sự sống, cũng không sợ sự chết. Khi thầy còn sống, không bao giờ bà nghĩ đến thầy như nghĩ đến một người đàn ông; bây giờ thầy đã chết, bà lại thấy người đàn ông trong thầy, nhưng không còn sự sống nữa. Chắc hẳn lúc thanh niên thầy tuyệt đẹp. Tấm thân to lớn nằm dài trước mắt bà có dáng dấp oai vệ. Da thầy nhợt nhạt đã ngã sang màu đùng đục vì sự chết.

Bà bỗng mở mắt ra. "Thầy là người tôi yêu!" bà thì thầm trong một nỗi kinh ngạc hết sức sâu xa.

Đột nhiên bà Vũ cảm thấy toàn thể người bà thay đổi.

Mặc dầu bà không làm một cử động nào, nhưng toàn thân bà run lên, máu trong tim đập mạnh và tinh thần trở nên minh mẫn. Bà cảm thấy con người bà vừa nhẹ nhàng, vừa mạnh mẽ. Bà ngẩng đầu nhìn quanh. Vẫn bốn bức tường bao quanh gian phòng, nhưng bà cảm thấy mình được tự do hoàn toàn. Thể xác thầy An-Rê nằm dài trên giường y như khi mới chết, nhưng lúc cúi nhìn, bà hiểu rõ thầy đã thoát khỏi sự chết ấy. Bà rất hoài nghi. Đã lâu lắm, bà không vào dâng hương ở ngôi chùa nào, thân phụ bà đã gột rửa bà khỏi lòng mê tín thường tình của nhi nữ, và ông cụ Cố đã hoàn thành công việc ấy. Ngay bây giờ bà vẫn không tin có một vị Chúa vô hình, nhưng bà chắc chắn rằng con người này vẫn tiếp tục sống.

- An-Rê ơi!

Bà thầm gọi đến tên thầy, bà sẽ không bao giờ gọi An-Rê là thầy nữa!

- An-Rê! Anh đang sống trong em. Em sẽ gắng sức duy trì sự sống của anh…

Bà vừa thầm thì câu nói ấy, thì sự bình an tuôn trào khắp toàn thân bà. Một sự bình an rất sâu xa, êm dịu và hoàn mãn, đến nỗi đây là lần đầu tiên trong đời, bà biết bình an là gì. Bà đứng bất động trong gian phòng trống trải, trước thi hài này, và bà cảm thấy mình hạnh phúc.

Và nguồn hạnh phúc ấy không phải là một trạng thái xuất thần, nhưng là một tinh lực bắt đầu tác dụng trong tâm trí và thể xác bà. Nhiệm vụ hiện tại của bà hiện ra rõ rệt. Bà phải chôn cất thể xác này, không tăng lữ, không kinh nguyện, và tự mình sắp xếp một vài đồ vật của thầy. Sau đó, bà sẽ tiếp tục một cách đơn giản những điều thầy đã làm.

Bà bình tĩnh ra khỏi gian phòng, đến chỗ chị Giang, mụ ở già, những người ăn xin và bọn trẻ đang chờ đợi. Bà ngồi trên một ghế gỗ và nói:

- Này, về việc tống táng, ngài có trăn trối gì không?

Mọi người nhìn nhau. Bọn trẻ sợ hãi làm thinh. Mụ ở già than khóc và đưa vạt áo lên chùi nước mắt.

- Chắc ngài không ngờ là phải chết! Chúng tôi cũng không thế, nào ai ngờ đến cơ sự này.

- Thầy còn cha mẹ anh em gì không? Nếu còn thì phải gởi xác thầy cho họ.

- Không ai nghe nói đến gia đình ngài. Chỉ biết là ngài đã đến đây, không rõ năm nào, và không bao giờ đi đâu khác.

Bà Vũ hỏi:

- Thầy có nhận được thư từ gì không?

- Khi ngài nhận được thư, ngài cứ để thế, không mở, không đọc, và rồi sau một thời gian, tôi lấy để độn vào đế giày bọn trẻ.

Bà Vũ hỏi thêm:

- Thế thầy không viết thư à?

- Không bao giờ.

Bà quay sang hỏi người ăn mày:

- Còn với chú thì sao? Không bao giờ thầy nói gì với chú à?

- Ngài không bao giờ nói với tôi về anh em hay bà con gì của ngài cả.Chúng tôi chỉ nói đến những người trong thành hay ở những miền phụ cận đang cần được giúp đỡ này khác mà thôi.

Bà Vũ nghĩ: An-Rê thuộc về bà trọn vẹn, và chỉ mình bà thôi. Bà sẽ mua cho thầy một cái hòm đen đơn giản. Còn về mộ phần thì bà sẽ cho mai táng ngay trên đất của bà. Bà liền nghĩ đến một nơi kia, nơi mà bà ưa thích, trên một ngọn đồi bao quát cánh đồng thẳng tắp, chỗ có cây đa cổ thụ bà thường đến núp bóng mỗi khi đi xem gặt hái.

Bà đứng dậy:

- Chiều nay tôi sẽ cho người đi đào huyệt.

Khi bà đứng dậy, mụ ở già và lũ trẻ nhìn bà lo lắng. Bà hiểu ngay nỗi lo âu của họ.

Hẳn họ sẽ tự hỏi lòng: chúng ta sẽ ra sao?

Bà Vũ nhìn các gian phòng hầu như trống trải. Bà hỏi:

- Ngôi nhà này của thầy à?

Mụ ở già lắc đầu:

- Thưa bà, nhà thuê đấy ạ. Chúng tôi thuê rất rẻ bởi vì nhà có ma. Ngoài chúng tôi ra, không ai muốn ở đây cả. Nhưng tinh hay ma gì cũng đều sợ ngài, nên chúng tôi sống một cách yên ổn với một giá thuê rất rẻ.

Bà Vũ hỏi:

- Thầy không có gì cả sao?

- Thưa bà không có gì cả ạ. Ngoài hai bộ áo quần đổi thay. Một bộ ngài đang mặc và một bộ tôi đang giặt. Ngài có vài quyển sách và một cây thánh giá bằng gỗ. Ngài cũng có một tràng hạt nữa.

Bà Vũ vừa nghe mụ già nói chuyện, vừa nhìn chung quanh gian phòng. Bà chỉ một cái hộp màu đen và hỏi:

- Cái hộp gì thế?

Mụ ở già đáp:

- Thưa bà, đấy là cái hộp có giọng nói thần. Ban đêm, ngài có thói quen nghe các giọng nói ấy.

Bà Vũ nhớ lại, đã có lần thầy An-Rê nói với bà về việc ấy. Bà đến bên cái hộp, dán tai vào nghe, nhưng bà không nghe gì cả.

Mụ ở già giải thích.

- Thưa bà, ngoài ngài ra thì cái hộp ấy không nói với ai khác cả.

- Thế à? Vậy thì ta chôn nó theo ngài.

Mụ ở già ngập ngừng:

- Còn có một cái thần diệu khác nữa. Ngài cấm chúng tôi sờ đến nó.

- Đâu?

Mụ ở già luồn tay xuống dưới gầm giường, kéo ra một cái hộp bằng gỗ rất dài. Mụ mở ra. Chiếc hộp đựng một dụng cụ hình cái ống dài.

Mụ nói:

- Những đêm trời quang đãng, ngài đặt cái ống ấy ở mắt bên phải và nhìn lên không trung.

Bà Vũ hiểu ngay, nhờ thế mà thầy An-Rê chiêm ngắm các vì sao.

Bà nói:

- Tôi sẽ mang cái này về. Bây giờ mụ đưa sách vở của thầy cho tôi. Còn quần áo, cây thánh giá và tràng hạt thì phải chôn theo với thầy. Cái nhà này thì trả lại cho chủ nó. Mụ hãy nói với người chủ nhà rằng, tôi cam đoan nhà này đã được trừ quỷ, đã được giải thoát khỏi các ác thần. Ông ta có thể cho thuê lại với một giá phải chăng.

Lũ trẻ chen chúc quanh mụ già, làm thinh lắng nghe, nín thở và lo lắng. Nhà ở của chúng bị cướp mất. Chúng không còn gì cả.

Bà Vũ mỉm cười với chúng. Bà thấu hiểu các ý nghĩ của chúng với một tình yêu thương hoàn toàn mới lạ.

- Còn hết thảy các con, và cả mụ già này nữa, tất cả sẽ đến ở với bà.

Lũ trẻ thở dài nhẹ nhõm. Chúng đã được cứu giúp. Với lòng trông cậy dễ dàng của tuổi thơ, chúng đón nhận sự vững an mới mẻ này và trở nên phấn khởi.

Chúng reo lên:

- Bao giờ? Bao giờ ạ?

- Chúng con phải ở đây cho đến ngày mai. Rồi hết thảy chúng ta sẽ ra huyệt. Nhưng các con sẽ không trở lại đây nữa mà đến ở với bà.

Mụ già nức nở nói:

- Bà tốt quá! Bà phúc đức quá! Ngài biết… bà hãy tin rằng ngài biết điều ấy.

Bà Vũ mỉm cười không đáp.

- Mụ có đủ gạo cho các trẻ ăn không? Chúng cần của ăn hôm nay và sáng mai, bữa trưa chúng sẽ ăn ở nhà tôi.

- Bao giờ ngài cũng lo trước một ngày ăn trong nhà. Chúng tôi chỉ có ngần ấy thôi.

- Vậy thì mai tôi sẽ trở lại.

Bà để cho bọn trẻ quấn quít lấy bà một lát, vì bà biết các em bé ấy có thói quen quây quần quanh vị giáo sĩ để cảm thấy sự hiện diện hữu hình của ngài, và cạnh bà, chúng cũng cần cảm thấy một sự vững an như vậy. Đoạn bà ngọt ngào nói với chúng:

- Bà về các con nhé!

Bà từ giã gian nhà đặt thi hài của vị giáo sĩ. Bà ra về với một con người khác với con người của bà trước khi vào.

Về đến nhà, bà ngồi một mình trong thư phòng rất lâu, với con người bà đã đổi khác. Nếu thầy An-Rê còn sống, tất sẽ có lúc bà khám phá ra rằng bà yêu thầy. Bấy giờ bà chỉ còn một trong hai đường: hoặc tìm cách đừng gặp thầy nữa, hoặc trao trái tim mình cho thầy và thú thật tình yêu. Và bà chắc chắn điều ấy cũng sẽ chia rẽ hai người.

Đêm ấy, bà Vũ ngồi cô đơn và tỉnh thức như vậy rất lâu. Bà từ chối không để Giang tắm gội cho bà. Bà không muốn đi nằm. Bà muốn ngồi, linh hoạt, bén nhạy và đơn độc để cho cái mênh mông của điều bà vừa khám phá ra. Bà yêu một người, một người ngoại quốc từ phương trời xa đến, một người đàn ông chưa lần nào đưa tay ra nắm lấy tay bà, mà ngay cả sự đụng chạm đến đôi bàn tay ấy cũng không thể có được. Sau một hồi lâu, bà mỉm cười trong bóng tối. Chung quanh bà, ngôi nhà tối đen và vắng lặng, nhưng một ngọn nến đương cháy cạnh bà, và con tim bà thốt lên tiếng nói.

"Nếu trước đây tôi trao tay cho thầy thì thầy có sợ tôi không?"

Nhưng bà biết thầy An-Rê không sợ ai cả. Thầy có Thiên chúa của thầy. Bà Vũ liền có ý tưởng rằng các vị Chúa của đàn ông là kẻ thù của đàn bà. Đây là lần đầu tiên trong đời, bà cảm thấy mình ghen.

Đối với người đàn bà khó mà có những vị Chúa thật. Bà cố tìm những người đàn bà thờ phụng các vị Chúa. Cô Hsia luôn luôn nói về Chúa của cô ta. Nhưng cô Hsia không có ai khác để nói, chồng con cũng không, gia đình bạn hữu cũng không nốt. Từ đáy sâu của sự trống trải ấy, cô nhìn quanh và khám phá ra một vị Chúa cho bản thân mình. Không, sự thử thách xác thực nhất, là đối với người đàn bà, mặc dù có đủ mọi sự khác như người đàn ông, mà vẫn vứt bỏ tất cả để tìm một vị Chúa. Trong số phụ nữ bà đã biết và đang biết rõ hơn hết trong đời bà, không có ai hiến thân đi tìm Thiên chúa cả. Nghĩa là không một ai có thể hành động như thầy An-Rê; khi còn thanh niên thầy đã lìa bỏ người thiếu nữ thầy yêu, bỏ của cải có thể có và danh vọng có thể đến với thầy vì sự thông thái của thầy, mà chỉ muốn hiến dâng cuộc đời cho Thiên chúa.

Bà cắt ngang những mơ mộng của mình, bà dành một lát để nghĩ đến người thiếu nữ An-Rê đã yêu trong thời thanh xuân, và thầy đã từ bỏ để dấn thân vào cuộc sống cô độc. Hẳn người thiếu nữ ấy phải trẻ đẹp, không nghi ngờ gì nữa. Lòng ghen của bà Vũ không những phát sinh bởi mối tình của An-Rê đối với cô ta, mà nhất là người thiếu nữ xa lạ bị lãng quên từ lâu ấy đã được chiêm ngắn An-Rê khi thầy còn trẻ, chưa làm giáo sĩ.

"Tôi thích thấy thầy khi còn trẻ: Một thanh niên hùng dũng", bà thầm nói trong lòng.

Bà ngồi trong sự bình an hoàn toàn, một sự yên tĩnh tuyệt đối, hai tay để lên nhau và các chiếc nhẫn chiếu ánh mờ mờ trên các ngón tay phải. Khi An-Rê còn thanh niên, đối với con mắt đàn bà chắc hẳn là đẹp lắm. Đến tuổi trường thành, thầy vẫn còn đẹp, nhưng lúc thanh niên thì chính thầy phải là một thiên thần. Rồi bà Vũ bắt đầu thương hại người đàn bà mà thầy đã ruồng rẫy. Chắc bây giờ người ấy đã có chồng và là mẹ của một đàn con. Một người đàn bà không chết đi vì không được một người đàn ông yêu mến, nhưng một phần nào trong trái tim người ấy, kỷ niệm của An-Rê vẫn còn tồn tại – hoặc yêu thương, hoặc thù ghét. Một người lòng dạ hẹp hòi có lẽ ghét thầy, nhưng nếu là một tâm hồn cao thượng thì không những không oán trách, mà còn yêu thầy hơn nữa.

Cũng có khi bà ấy không còn nghĩ đến thầy nữa, vì sự mệt nhọc đã làm cho bà ta mất cảm giác. Cái nhược điểm của người đàn bà là tinh thần và vật chất lẫn lộn như những sợi chỉ canh trong một khổ vải, khi thể xác làm việc quá sức thì con tim cũng bị hao mòn, trừ phi nó chứa đựng một tình yêu như tình yêu của bà đối với An-Rê. Sự chết đã giải thoát bà khỏi thể xác của người đàn ông ấy. Nếu thầy còn sống, cả hai có thể mất linh hồn vì luôn luôn bị xác thịt cám dỗ. Khi nghĩ như vậy, bà Vũ bỗng thấy một luồng máu phương cường sung dịch khắp cơ thể bà.

"Dù sao, tôi cũng chỉ là một người đàn bà" bà Vũ thầm nhủ.

Chỉ nghĩ đến tấm thân to lớn của An-Rê thôi, cũng đủ làm cho người bà rạo rực. Sự yên tĩnh của bà sẽ bị nguy hiểm biết bao, nếu có thầy ở đây, sống động trước mắt bà… Bà cảm thấy biết ơn bọn áo xanh đã phá tan sự nguy hiểm ấy. Rồi ngang qua khung cửa, bà nhìn thấy ánh trăng êm dịu len qua khóm trúc, chiếu xuống hành lang, tạo thành một khung cảnh tuyệt đẹp. Khi An-Rê đã nhắm mắt mà cảm thấy sung sướng là một điều tàn nhẫn.

Bà thầm nói với thầy trong lòng: "Không phải tôi sung sướng vì cái chết của thầy, nhưng chỉ vì chúng ta được giải thoát khỏi một mối họa lớn, và cũng nhờ đó mà chúng ta có thể duy trì niềm hạnh phúc lớn lao của chúng ta. Vì chắc thầy cũng biết tôi yêu thầy."

Khi thầm thì trong lòng câu nói ấy, bà biết An-Rê rất hiểu bà. Phải, có như thế bà mới thấy ngay một sự hài lòng khôn tả, một niềm khoan khoái tuyệt mức.

Bà hiểu rõ rằng bà đau khổ vì phản bội thiên chức làm mẹ, làm vợ, bao nhiêu, thì thầy An-Rê đau khổ vì phản bội phẩm chức giáo sĩ bấy nhiêu. Có lẽ hai người sẽ giảng giải cho nhau nghe về đức hỷ xả, nhưng muốn giữ trong đức độ ấy thì không bao giờ được gặp nhau. Bây giờ không cần đức hỷ xả nữa. Bà có thể nghĩ đến thầy bao nhiêu cũng được và không nguy hiểm.

"Nhưng hiển nhiên là tôi đã biến đổi", bà thầm nghĩ.

Bà vẫn ngồi yên, lòng tự hỏi lòng đã thay đổi ra sao? Bà không biết gì cả. Bà phải phân tích chính mình. Lòng bà không còn như trước nữa. Bà thầm nhủ: tôi xa lạ cả đối với tôi. Tôi tự hỏi sẽ hành động như thế nào và lương tâm tôi sẽ ra sao.

Bà ngồi sững suốt một giờ sau sự khám phá ấy.

Bà thầm nghĩ: Tôi không biết tôi sẽ hành động cách nào. Những động lực trong con người tôi hoàn toàn mới mẻ. Tôi sẽ không còn sống vì nhiệm vụ mà vì tình yêu.

Đó là sự khám phá mà chính bà đã thực hiện- vì tình yêu.

Và bà lại cảm thấy nguồn sinh lực lạ lùng ấy dào dạt khắp toàn thân bà, tiếp theo là một niềm vui sướng, yên tĩnh.

Lúc bấy giờ bà nghĩ đến cái dụng cụ để nhìn các vì sao bà đã cho mang về nhà, hiện để trong thư phòng. Nó khá nặng, bà lấy ra khỏi hộp một cách khó khăn. Bà đặt nó trên một cái giá ba chân, rồi nhìn trời qua ống kính.

Bà tưởng thế nào cũng khám phá được hình dạng các vì sao và thấy mặt trăng đang chuyển vần. Nhưng thất vọng làm sao, bà không thấy gì, mặc dầu trời trong đẹp. Bà tìm bên này bên kia, nhưng bầu trời vẫn khép kín, bà rời khỏi cái dụng cụ ấy với một tiếng thở dài. Bà không thấy gì cả.

Bà thầm bảo: "Vật này chỉ thuộc về thầy. Tôi sẽ ch?