← Quay lại trang sách

Chương 11

Sáng hôm hau, khi bà Vũ nhìn quanh gian phòng quen thuộc của mình, bà nhận thấy mọi sự đều hoàn toàn giống như mọi buổi sáng khác. Tuy nhiên, thay vì uể oải và chán nản với một ngày sống bắt đầu, thì bà lại cảm thấy mình có một nghị lực mới. Nghị lực ấy phát sinh bởi một nguồn xa lạ, bà chưa từng biết đến. Điều bà cảm thấy trong thời thanh xuân đối với chồng bà, hẳn là một thứ tình yêu. Không thể không yêu ông Vũ khi ông còn trẻ tuổi. Ông rất đẹp trai, khỏe mạnh, rất vui tính nên không thể không hấp dẫn tình yêu và kích thích dục tình. Nhưng cái tình yêu ấy của bà Vũ không có gì đặc biệt cả. Nó thuộc về bản năng, như một phản ứng của bắp thịt. Chung qui, trái tim chỉ là bắp thịt chính của cơ thể.

Bà biết thế. Ngày xưa bà đã nhìn tổ phụ mình cầm trong tay trái tim còn sống của một con hổ. Thời ấy người ta tin rằng ăn trái tim hổ thì thu được sức mạnh của nó. Bà nhớ lại cảnh ấy một cách rõ ràng như đang diễn ra trước mắt mình. Lúc bấy giờ Ái Liên mới lên tám. Những người miền núi bẫy được một con cọp, họ mang nó đến nhà bà, trong một tấm lưới lớn, nó đang gầm thét. Thiên hạ chạy đến xem con vật có những vằn vàng rực dưới ánh mặt trời mùa đông. Khi thấy người, nó há chiếc miệng rộng đỏ lòm và thét lên căm hờn vì bất lực. Mấy người đàn bà hoảng hốt rú lên. Nhưng Ái Liên vẫn đứng yên, mắt đăm đăm nhìn hai con ngươi vàng dữ tợn. Dường như con hổ cảm thấy mãnh lực của cái nhìn ấy, nó ngậm miệng lại và hướng mắt nhìn Ái Liên. Vô tình, Ái Liên bước lên một bước, nhưng tổ phụ em đã thét lên một tiếng. Một sơn nhân nhẩy đến đâm dao vào tim con hổ. Lưỡi dao kêu kin kít xuyên qua lần lông con vật, nó ngã về sau. Sơn nhân mổ lấy quả tim nguyên vẹn, còn đập, và trao cho tổ phụ của bé Ái Liên.

Nhưng, điều mà bây giờ tự đáy lòng bà Vũ cảm thấy đối với An-Rê không giống với quả tim phập phồng ấy chút nào. Mối tình bình tĩnh và mới mẻ của bà đối với thầy giống như mặt trời đúng ngọ. Bà được sưởi ấm, được tăng cường, được vững an. Muốn hành động khôn ngoan, bà chỉ vâng theo ánh sáng và sức ấm ấy. Tình yêu thấm vào cân não cũng như thấm vào thân xác bà. An-Rê không chết, thầy còn sống, sống với bà, vì bà yêu thầy. Sự đối kháng của thể xác trở nên vô ích. Bà là một con người hoài nghi, bà đã từng cười thầm các thầy sư các bà vãi, bà ngước mắt nhìn trời mà không thấy thần linh. Đối với bà, thần linh trong vũ trụ chỉ là những chuyện biến ngôn ấu trĩ, thì bây giờ bà lại tin chắc An-Rê vẫn sống và sống cạnh bà.

"Tôi yêu thầy khi thầy còn ra vào nơi đây mà tôi không biết. Tôi phải nhìn thi hài thầy mới biết tôi yêu thầy đến mực nào!"

Thế rồi, người đàn bà trong bà tự hỏi, về phần thầy, thầy có yêu bà không? Khi tự đặt câu hỏi về mối tình san sẻ như vậy, lần đầu tiên bà cảm thấy sự cô độc của mình.

"Vì tôi không thể nghe giọng nói của thầy, nên tôi sẽ không bao giờ biết được điều ấy."

Bà quay nhìn ra sân: đâu còn nghe vang của những bước chân dài trên nền đá lát! Và trong khi bà lắng tai mà không nghe được gì ngoài tiếng ríu rít của đàn chim nhỏ trong khóm tre, thì khuôn mặt của thầy An-Rê dần đần hiện lên trên tấm màn đen của tâm tư bà. Đôi mắt thầy nồng nhiệt nhìn bà, trong bộ râu rậm thầy khẽ mỉm cười. Cái vẻ thông minh hơi trào lộng ấy là cái phong thái thường nhật của thầy. Tất cả những hình ảnh ấy hiện ra với bà rất rõ rệt, khiến bà mỉm cười đáp lại. Bà không thể nghe giọng nói của thầy, nhưng bỗng cảm thấy chắc chắn thầy yêu bà. Tư cách giáo sĩ của thầy dựng lên giữa hai người một bức tường, lúc sinh thời thầy yêu bà sau cái bức tường đó. Bây giờ thầy không còn là giáo sĩ nữa; bức thành biến mất. Không còn lý do gì thầy không nhập vào tâm trí bà, chẳng cần phải đợi bà mời gọi. Thể xác của thầy đã chết, nhưng như thân xác của bà, hai người có thể sống chung.

Bà tự nhủ từ nay bà có một sự khôn ngoan mới mà riêng bà, không bao giờ đạt được.

"Tôi đã dại dột làm sao! Bà ngước mắt lên trần giường xanh và nghĩ ngợi. Tôi đã reo rắc biết bao sự hỗn độn cho các người trong nhà tôi!"

Vì ích kỷ, bà đã tìm cách tự giải thoát khỏi họ bằng giải pháp lui về trong chính mình. Bà ước mong họ được sung sướng, mỗi người tùy theo cách của mình, nhưng không muốn mang lấy trách nhiệm tạo hạnh phúc cho họ. Bà không biết chỉ cho họ cách tạo hạnh phúc. Bà cung cấp cho họ của ăn, áo quần, duy trì trật tự và kỷ luật. Tuy thế, cả nhà đang có cơ lộn xộn, và hình như không ai được hạnh phúc cả. Bà muốn gây gỗ với tất cả mọi người, vì sự thất bại ấy. Bây giờ bà nhận thấy hằn học như thế là vô lý.

Giang đi vào phòng, cau có. Chị hỏi một cách hờn giận:

- Sáng nay bà không dậy à? Thưa bà?

Bà Vũ mỉm cười đáp:

- Hôm nay trời mua.

Giang chua chát:

- Thưa bà, sao bà biết? Bà chưa vén màn lên kia mà!

- Nghe giọng nói của chị tôi cũng biết, và trên mặt chị đầy cả mây.

- Thật con không bao giờ tưởng tượng được là con có thể thấy một cô gái nhà thổ đến ở nơi đây. Con cái nhà này thì lưu lạc phương xa, còn cô vợ bé thì chẳng khác nào bị sa thải.

- Thế cô Lài có ở đây sao?

- Thưa, cô ấy đang đợi ở sân ngoài.

Vừa nói, Giang vừa loay hoay xếp dọn quanh bàn trang điểm của bà chủ.

- Người ta hỏi con phải thu xếp cho cô ấy ra sao, nhưng con không biết gì cả.

Giang trề môi tiếp:

- Con ấy nó bảo là trong nhà đợi nó. Con trả lời rằng, con thì con không thèm đợi cái thứ như nó đâu.

Bà Vũ đứng dậy, xỏ chân vào đôi hài thêu.

- Cô ta đến một mình thôi à?

- Có một mụ già rụng răng dẫn đến, nhưng rồi lại cút đi đâu mất. Chào! Con bé ấy chúng ta sẽ nuôi báo cô rồi chắc!

Giang càng nói giọng càng chua chát.

Bà Vũ lặng thinh. Bà tắm gội, bận một cái áo gấm dài màu xám ngọc. Xong, Giang cẩn thật chít tóc cho bà, miệng chị vẫn luôn cau có.

Bà Vũ bảo:

- Chị đi mang điểm tâm lại đây.

Bà ngồi xuống và vài phút sau dùng điểm tâm một cách ngon lành. Bà Vũ lấy làm vui thích vì càng ăn càng thấy ngon miệng. Không phải người ta bảo rằng đã yêu thì ăn mất ngon sao! Rồi bà nhớ lại đó chỉ là trường hợp của một tình yêu không san sẻ.

"An-Rê cũng yêu mình" bà thầm nhủ.

Non nửa giờ sau, bà đứng dậy và đi ra sân sau để nói chuyện với Lài. Giang nói:

- Thưa bà, con có cần dẫn cô ấy đến đây không? Nếu bà đến gặp nó thì nó sẽ hỉnh mũi lên đấy.

Bà Vũ bình tĩnh đáp:

- Không, tôi đi gặp cô ta.

Bà không muốn tiếp ai trong phòng bà. "Phải để cho linh hồn An-Rê được yên tĩnh ở đấy" bà nhủ thầm. Rồi bà ngừng lại trên ngưỡng cửa vòng nguyệt. Một tư tưởng mới lạ đi qua trí bà.

"An-Rê không bao giờ ruồng rẫy ai", bà nghĩ. Phải tiếp chuyện cô gái này một cách tự nhiên, rồi sẽ thấy cần phải xử lý ra sao. "Ở đây linh hồn của thầy sẽ hướng dẫn tôi". Bà quay lại bảo Giang:

- Thôi chị hãy đi dẫn cô ta lại đây cho tôi.

Bà ngồi xuống ghế trong lúc Giang đi ra.

Nếu có ai đi ngang trước cửa, người ta có thể nom thấy bà, một bóng người thanh cảnh sáng bạc, đầu hơi cúi xuống, một nụ cười nở trên khuôn mặt trái xoan tái nhợt. Nhưng ngoài sân vắng người. Một lát sau, Giang trở lại dẫn theo một cô gái tròn trĩnh, hồng hào và nhỏ thó. Bà Vũ liền nhận thấy cô ta thuộc hạng người mà bà ghét nhất: mạnh bạo, tầm thường, thô và có vẻ đần độn. Bà quay nhìn chỗ khác, bà cảm thấy tâm hồn bà do dự giữa những điều không thích của hôm qua và sự dốc quyết của hôm nay. Thể chất thanh lịch của bà run lên. Nhưng khuôn mặt thầy An-Rê lại nổi bật lên trên tấm màn hoài niệm đen sẫm của bà, làm im bặt tất cả mọi phản kháng. Bà chiêm ngắm hình ảnh ấy trong bà, rồi bắt đầu hỏi chuyện với một giọng nói dịu dàng và hòa nhã. Giang lui ra vài bước, đứng lắng nghe, mắt đăm đăm nhìn. Không phải là giọng nói thường ngày của bà Vũ trong trẻo và khúc chiết, giọng nói ấy không có vẻ gì cứng cỏi, nhưng hẳn cũng không phải là cái giọng mà người ta nghe khi bà nói chuyện với trẻ em.

Bà Vũ hỏi:

- Cô hãy nói cho tôi biết, tại sao cô lại muốn ở đây?

Lài cúi nhìn xuống đất. Cô hối tiếc vì đã không mặc áo cụt và quần bằng vải xanh, thay vì phục sức bằng xa tanh màu hoa lý.

- Tôi muốn có nơi ăn chốn ở trước khi sinh con.

- Cô liệu có con không?

Lài ngẩng đầu và liếc nhanh nhìn bà Vũ:

- Vâng

Bà Vũ nói:

- Không có con đâu.

Lài lại ngẩng đầu, mở miệng để phân bua và nhìn vào đôi mắt bà Vũ đương phân tích mình. Đôi mắt bà sáng suốt và sâu sắc; cô ta òa khóc. Bà Vũ lại nói:

- Như thế không có con đâu.

Giang xen vào:

- Thưa bà, không cần phải giữ cô ấy lại.

Bà Vũ đưa bàn tay dài và thon nhỏ ra ngăn lại:

- Chị để tôi định đoạt. Tôi muốn chị đi chỗ khác.

- Sao? Con đi chỗ khác để bà lại một mình với cái đồ nhơ nhớp ấy à?

- Chị đến đứng ở sau cửa kia đi.

Đợi Giang đi khỏi, bà ra dấu bảo cô gái ngồi trên một cái đôn sứ cạnh đấy. Lài ngồi xuống, đưa tay dụi mắt, ấm ức trong cổ.

Bà Vũ nói với Lài:

- Cô phải biết rằng, vào ở trong nhà một người đàn ông là một việc rất quan hệ, nhất là một gia đình to lớn và danh giá như nhà chúng tôi. Cô có thể phá hoại tất cả hạnh phúc khi vào đây. Hay cô có thể tăng thêm hạnh phúc cho nhà này bằng sự hiện diện của cô. Cái đó tùy ở cô. Nếu cô đến đây để có cơm ăn và nhà ở, thì cứ nói cho tôi biết. Tôi hứa sẽ cho cô cả hai điều. Cô sẽ có cả hai mà không cần phải dùng thân xác của cô để đền đáp lại.

Lài nhìn trộm bà Vũ, vẻ xảo quyệt.

- Làm sao người ta có thể cho không người đàn bà một điều gì được?

Bà Vũ lấy làm kinh ngạc. Một tháng trước đây có lẽ bà đã kinh dễ sự thấp hèn của cô gái này. Nhưng bây giờ bà đã hiểu cô. Bà nói:

- Cô chưa bao giờ vô cớ được của ăn hay nhà ở. Thế thì cô khó mà tin lời tôi được.

Lài nói:

- Tôi không tin ai cả.

Cô rút ra một chiếc khăn tay bằng lụa đỏ, một chéo khăn gài vào một hạt nút và chéo kia cô vặn quanh ngón tay.

Bà Vũ hỏi:

- Vậy, thì ra cô đến đây để có nhà ở à?

Lài lắc đầu:

- Tôi không nói thế.

Cô ta giương các mi mắt nặng nề lên, và một vẻ tinh quái hiện ra trong đôi mắt tròn, rất đen.

- Nhiều người khác đã hứa cho tôi một ngôi nhà.

- Nhưng rốt cuộc, cô đến đây với một chủ đích?

Rồi bà căn vặn thêm:

- Có phải vì vinh dự được thuộc về gia đình chúng tôi không? Dù cô phải ở nhà sau?

Mặt Lài ửng đỏ dưới làn phấn. Cô lẩm bẩm câu nói lóng của bọn người đầu đường xó chợ:

- Tôi thích cái trục chỉ cũ…

Bà Vũ hiểu cô nói về ông Vũ. Nhưng bà không quở trách gì. Sự thật từ trái tim cô ấy tuôn ra, nguyên chất, thuần túy.

Bà Vũ bảo:

- Con ơi! Ông già hơn con nhiều quá!

Cô vừa nói vừa run:

- Tôi thích những ông già.

- Tại sao cô luôn sợ. Không cần run sợ trước mặt tôi.

Lài sợ hãi nói:

- Tôi chưa bao giờ biết được một người quí phái, mà ông thì quí phái quá?

Bà Vũ chưa bao giờ dùng tiếng ấy cho ông Vũ. Hung hăng, nóng nảy, ích kỷ, cố chấp, đôi khi tốt bụng – những tiếng ấy có thể thích hợp cho ông nhưng quí phái thì không.

Lài nói:

- Tôi muốn nói là… là… quí phái. (Cô đưa cánh tay lên) Bà xem chiếc vòng này, nó bằng vàng ròng. Nếu là của một chàng thanh niên cho tôi, thì nó sẽ là đồng mạ vàng, mà hắn ta cứ thề là vàng nguyên chất, và có lẽ thề mãi cho đến khi bỏ tôi. Nhưng không, ông già đã cho tôi một chiếc bằng vàng thật.

Cô ta cắn chiếc vòng và chỉ dấu răng nói với bà Vũ.

- Bà xem đây này.

- Phải, vàng thật.

Lài hăng hái tiếp:

- Ông rất kiên nhẫn. Khi tôi thấy trong mình khó chịu thì ông biết ngay – ông không khẩn khoản nài ép, các cậu thanh niên thì không đếm xỉa gì đến – họ thích gì làm nấy. Nhưng ông già ấy bao giờ cũng hỏi xem tôi ra sao.

Bà Vũ hỏi:

- Thực không?

Đó không phải là ông Vũ mà bà biết.

Cô gái ngồi xuống và xoay xoay chiếc vòng quanh cổ tay.

- Nếu tôi không có con thì…

- Đứa con không quan trọng.

Lài nhìn bà Vũ bằng khe mắt. Bà Vũ tiếp:

- Chỉ có điều này là quan hệ: Cô sẽ đem hạnh phúc đến nhà này, hay cô sẽ làm cho nhà này mất hạnh phúc!

Lài ngẩng đầu và nhiệt thành đáp:

- Tôi sẽ đem hạnh phúc đến cho ông. Thưa bà, tôi xin hứa điều ấy.

- Ngày mai tôi sẽ quyết định.

Bà Vũ vừa nói vừa đứng dậy. Giang chạy đến dẫn cô gái ra.

Khi cô gái đã ra về, bà Vũ lững thững bước trên một lối đi nhỏ hẹp mà ánh mặt trời chan hòa trên các viên đá lát, đến tận thềm cổng. Ánh sáng làm lóa mắt bà Vũ, nhưng mặt trời sưởi ấm chân bà.

"Mình đã xử trí phải cách" Bà thầm nhủ và hơi lấy làm kinh ngạc. "Sao mình có thể như thế được nhỉ?"

Bấy giờ bà hiểu. Nếu Lài yêu ông Vũ thật, thì chính ngay mối tình ấy cũng phải được tha thứ. Còn về phần ông Vũ, ông có yêu Lài không? Nếu ông cũng yêu cô ta thì hạnh phúc sẽ tăng thêm trong nhà. Tất cả những điều không hay xảy ra trong các gia đình đều do bởi thiếu tình thương cả.

Bà bảo Giang:

- Nghỉ dậy, tôi sẽ sang thăm ông chủ.

- Ồ, thưa bà phải đấy. Có lẽ bà sẽ kéo ông trở về với sự khôn ngoan. Trong nhà này nhiều đàn bà quá!

Lúc Giang dẫn Lài ra về, chị hỏi:

- Cô có được ở đây không?

Lài ấp úng:

- Tôi không biết gì cả. Bà nói ngày mai bà sẽ trả lời.

Giang nói:

- Bà chúng tôi bao giờ cũng quyết định rất nhanh.

Rồi chị không nói thêm ý tưởng của mình; nếu bà chủ chị không trả lời ngay thì ngày mai sẽ là không. Giang dẫn cô gái ra cửa sau và cài thanh sắt lại.

Bấy giờ, chị nói với bà Vũ:

- Thưa bà, con sẽ đi trình với ông trước.

Đôi mắt không kín đáo của chị lại sáng lên. Bà Vũ nom thấy, hiểu ngay và mỉm cười.

Bà Vũ thức dậy như thường lệ, tinh thần sáng suốt và tâm hồn yên tĩnh. Suốt đời, bà đã tranh đấu để đạt đến sự bình lặng và yên tĩnh. Bà tự biến mình thành tên nô lệ của ý chí, và ý chí ấy bắt thể xác phải phục tòng. Thật thế, đôi lúc ý chí ra lệnh cho thể xác hành động theo một chiều hướng nào đó, mà không đếm xỉa gì đến các sự nhờm tởm hay ước muốn của nó. Bây giờ bà cảm thấy, bà sẽ không còn bắt buộc mình phải phục tòng trong bất cứ việc gì nữa.

Bà thầm nói trong lòng: "An-Rê ơi! Thầy phải chết trước khi tôi hiểu thầy, thế không phải là một điều lạ lùng sao?"

Câu trả lời của An-Rê đến trong tâm trí bà: "Không có gì là lạ cả. Thân xác to lớn của tôi đã ngăn cách chúng ta. Bà nhìn một khuôn mặt và những đường nét không quan hệ gì đối với tôi cả. Những điều ấy do tổ tiên tôi lưu lại, mà họ là những kẻ xa lạ đối với tôi. Cho dù tôi muốn xem họ như thế và muốn tự tách rời khỏi họ, tôi vẫn bị xác thịt họ cầm giữ. Bây giờ, tôi mới thực là chính mình tôi.

Tự đáy lòng, bà nói với thầy:

- An-Rê ơi! Tôi còn phải gọi An-Rê bằng thầy nữa không?

- Đặt một tên gọi cho mối tương giao của chúng ta là điều vô ích.

Trong tâm tư, bà tưởng như nghe thầy nói như vậy.

Bà sợ hãi vì cuộc nói chuyện ấy diễn ra trong nội tâm của bà. Con người hoài nghi của bà có lẽ nhạo cười một sự xuất hiện siêu phàm, cho dù là sự xuất hiện của một người thân yêu đi nữa. Nhưng không có sự xuất hiện, cũng như không có tiếng nói nào. Gian phòng nghiêm khắc vẫn y nguyên như trước khi bà ngủ. Câu trả lời của An-Rê, bà chỉ nghe trong trí. Có lẽ đó chỉ là sự ám ảnh gây nên bởi cái chết của thầy An-Rê và bởi việc bà khám phá ra bà yêu thầy. Chỉ trong vài giây thôi mà biết được mình yêu một người đàn ông vừa mới chết, đó là điều có thể làm rung chuyển cả trời đất. Không lạ gì óc não đã thu mình lại trong cơn rối loạn. Bà nhớ lại điều thầy An-Rê đã nói về cách truyền lan của tư tưởng qua các tế bào, làm thành chất não. Sự ý thức về tình cảm của bà đối với An-Rê thâm nhập vào các tế bào ấy, và cố nhiên sẽ làm đảo lộn tất cả dòng tư tưởng đã có từ trước.

Bà thầm nghĩ: "Tôi không biết tôi sẽ trở thành cái gì đây!".

Bà lắng nghe, chờ đợi một câu giải đáp. Nhưng đột nhiên bà nhớ lại vẻ mặt của An-Rê khi thầy mỉm cười. Bà thấy tia ánh sáng lóe ra trong đôi mắt sâu, và bà mỉm cười đáp lại.

Giang bước vào phòng, dáng lo lắng. Chị tức tối nói:

- Sân trước đầy cả trẻ ăn xin. Còn con đĩ thì lại đến ngồi trước cổng lớn. Nó bảo, bà đã cho mời nó đến.

Bà Vũ mỉm cười:

- Sáng nay tôi muốn ăn một cái bánh bao nhỏ.

Giang nhìn bà:

- Thưa bà, hình như bà đã thay đổi. Da bà hồng như da trẻ con. Bà có bị sốt không?

Vừa nói chị vừa vồ lấy bàn tay nhỏ của bà Vũ và áp lên má mình.

Bà Vũ đáp:

- Không sốt gì cả. Hoàn toàn khỏe mạnh.

Bà nhẹ nhàng rút tay lại, đẩy cái chăn bằng lụa ra. Rồi bà chỗi dậy, để Giang trang điểm và mặc áo cho mình. Nhưng bà không chịu mặc chiếc áo dài màu xám mà Giang đã soạn. Bà lại chọn một chiếc áo màu hồng, cũ, mà bà đã để riêng một bên trong đêm rạng ngày lễ tứ tuần, vì bà nghĩ, bà sẽ không bận những sắc tươi ấy nữa.

Hôm nay, cái áo ấy xem ra thích hợp với bà hơn bao giờ hết. Lần cuối cùng bận nó, bà thấy màu ấy làm vàng nước da tái nhợt của bà. Nhưng sáng nay, cái áo ấy lại làm cho bà thêm tươi. Bà nhìn vào gương và tự nghĩ: "Bậy quá! Thế mà mình đã xếp nó lại một bên"

Tính làm dáng tự nhiên của bà lại trỗi dậy.

"Tiếc thật! Thầy chưa bao giờ thấy mình như thế này!"

Bà mỉm cười cùng bóng mình trong gương và liếc nhìn Giang xem chị có thấy không. Nhưng Giang đang bận gấp chiếc áo màu xám.

Bà Vũ sang thư phòng. Thường thì bà thấy cuộc đời bà quá phức tạp, phiền nhiễu, vì có bao vấn đề vô phương giải quyết. Hai mươi đứa trẻ đợi bà ngoài sân. Cô gái nhà thổ ngồi ở lối vào. Bà có trách nhiệm đối với ông Vũ hơn bao giờ hết. Còn có Thu Minh và đứa bé mới sinh, các con trai và con dâu bà. Nhưng bà Vũ không cảm thấy rối trí như trước kia. Lần đầu tiên trong đời bà, bà nhận thấy không có ai làm bà bực mình cả. Suốt đời bà đã tranh đấu để chống lại sự nhờm tởm ấy; không ai làm bà vừa ý hoàn toàn. Bà không yêu mẹ bà vì bà cụ dốt nát và mê tín.Còn thân sinh bà. Có thể bà thương ông cụ, nếu bà không thấy ở ông một phong thái cách biệt, một tâm hồn vượt quá tâm hồn bà. Và mặt dầu khi bà lấy ông Vũ, ông là một trang thanh niên tuấn tú, nhưng ông có một vài khía cạnh sâu kín làm bà không vừa lòng. Ngay trong khi bà chia sẻ những phút giây hoan lạc nồng nàn cùng ông, bà không thể không biết một vài hình thức hay mùi vị. Và mặt dầu bà đã chấp nhận sự đụng chạm xác thịt, bà vẫn cảm thấy như bị ông cưỡng ép. Ông cụ Cố đối với bà rất thân, nhưng bà tế nhị quá nên mặc dầu mến phục cụ, bà vẫn không quên những điều ở cụ đã làm cho bà khó chịu. Ông cụ Cố có lòng nhân hậu, lý trí minh mẫn, nhưng răng cụ bị hư nên hơi thở có mùi hôi.

"Nếu mình khám phá ra tình yêu của mình đối với An-Rê khi thầy còn sống thì không biết mình sẽ…"

Bà chưa kịp nghĩ xong thì một ý nghĩ khác chợt đến trong trí bà thay cho lời giải đáp:

"Bà thấy trong cái chết có biết bao sự khôn ngoan nó phá hủy thể xác con người và giải thoát tinh thần người ấy".

- Nhưng nếu tôi trẻ hơn, thì liệu chỉ tinh thần của thầy thôi, có đủ làm tôi mãn nguyện không?

Bà cúi nhìn các viên đá lát màu xám, liền lặn. Trong thời thanh xuân, bà có thể yêu một người ngoại quốc không? Và dĩ nhiên An-Rê là một người ngoại quốc khác xứ và khác giống. Bà cố hình dung ra thầy trẻ trung, hăng nồng theo lối đàn ông, và bầu máu trong người bà bị khích động vì một cơn giận dữ lạ kỳ.

- Ồ! Không. Không phải thế!

Tiếng kêu ấy phát ra trong trí bà và bà hứa:

- Không, đối với tôi hoàn toàn không phải như thế.

Giang đi vào và cẩn thận dọn thức ăn sáng lên bàn.

Bà Vũ cầm đũa:

- Ngoài sân, bọn trẻ có gì để ăn không?

Giang đáp giọng cụt ngủn:

- Hẳn là không, thưa bà. Người ta không được lệnh phải dọn cho ngần ấy người ăn.

Bà Vũ dịu dàng nói:

- Thế thì tôi ra lệnh. Bảo người ta nấu cơm ngay bây giờ, đi mua bánh và nấu nước chè để chúng dùng bữa trưa.

- May mà trời không mưa, chứ nếu phải sắp cho bọn người ấy ở trong nhà thì chỗ ở của chúng con mới rộng rãi lắm đấy!

Bà Vũ đáp:

- Có đủ chỗ cho hết thảy mọi người.

Bà kinh ngạc thấy Giang òa khóc, chị kéo chéo áo cộc xanh lên mắt. Chị vừa đi vừa than vãn:

- Bà không còn như trước! Không phải là bà nữa!

Nhưng đến trưa, trong sân có những rá cơm lớn. Khi bà Vũ đến, bà thấy các em nhỏ ăn một cách ngon lành vui vẻ. Miệng các đứa bé há ra cho các đứa lớn đút cơm. Mụ già săn sóc lũ trẻ đứng dậy khi thấy bà đến. Hai má mụ căng phồng vì miệng đầy cơm, mụ bảo bọn trẻ chào bà Vũ như là mẹ của chúng.

Bà Vũ mỉm cười nói với lũ trẻ:

- Đúng đấy, bây giờ cha các con không còn nữa, thì bà đây là mẹ của các con.

Các em bé mồ côi nhìn bà, trìu mến. Thốt nhiên, lần đầu tiên trong đời, bà Vũ cảm thấy trong mình những va chạm thực sự của việc sinh đẻ. Con người bà dường như mở ra và lại tan hòa và một bản chất khác, cao hơn bản chất của bà nhiều. Những đứa trẻ này là con của bà và của An-Rê.

- Hết thảy các con là con cái mẹ.

Bà nói với chúng, và ngạc nhiên vì những lời nói từ miệng bà thốt ra.

Nghe nói vậy, bọn trẻ ùa vào ôm lấy bà, sờ bà, dựa vào bà. Bà cúi xuống nhìn chúng, bà thấy rõ những vẻ đẹp cũng như những tì vết và khuyết điểm của chúng, nhưng bà không nhờm gớm chút nào.

Bà mỉm cười nói với chúng:

- Cha các con đã cố xây dựng cho các con, nhưng các con cũng còn có một người mẹ.

Bà sờ cái sẹo trên má một em bé và hỏi:

- Con còn đau không?

Đứa bé đáp:

- Con đau sơ sơ thôi.

- Tại sao thế?

Đứa bé cúi đầu:

- Bà chủ của con đã dí đầu ống điếu vào đấy.

- Tại sao thế?

- Con là đầy tớ của bà ấy – con không thể đi nhanh được như ý bà ấy.

Em bé đặt tay vào bàn tay bà Vũ.

- Mẹ có thể đặt tên cho con không?

Em nài xin:

- Cha con sắp đặt tên cho con, nhưng ngài chết đột ngột quá. Các em khác đã có tên cả rồi.

- Để các em ấy xưng tên cho mẹ nghe, sau đó mẹ mới biết phải đặt tên gì cho con.

Lần lượt, các em bé xưng tên ra, và những tên ấy đều do An-Rê đặt.

- Thương - Tín - Nhượng - An - Chân - Từ - Sáng - Nhạc - Thân - Nguyệt - Nhật - Minh - Hỷ - Quang. Đó là những tên thầy đã đặt cho những em lớn. Còn tên những em nhỏ thì ngộ nghĩnh buồn cười: Mèo con - Tuyết - Hồng - Nhẫn - Kim và Ngân.

Kim và Ngân giải thích:

- Vì cha chúng con bảo, trước khi chúng con đến thì ngài thiếu tiền bạc.

Bà Vũ bật cười vì câu chuyện ngộ nghĩnh ấy. Bé Kim nói:

- Ngày nào cha cũng làm cho chúng con cười.

Đó là một em bé mập mạp cầm lấy tay em Ngân rất chặt.

Bà Vũ mỉm cười hỏi:

- Hai con là chị em à?

Hai mươi giọng nói cất tiếng trả lời:

- Chúng con tất cả đều là chị em.

Bà Vũ nói:

- À, đúng rồi. Mẹ khờ quá!

Em bé có sẹo đứng nép sát vào bà. Em hỏi:

- Còn tên của con?

Bà Vũ nhìn khuôn mặt bé nhỏ, âu yếm nói:

- Mẹ gọi con là ÁI.

Em bé lập lại:

- Con tên là Ái.

Mảnh sân bây giờ bao quanh bởi những khán giả im lặng. Lũ nô tì kiếm cớ đi ngang qua đấy để dừng bước trố mắt nhìn, nhưng các trẻ em trong nhà và các người bà con xa thì không viện một cớ nào. Họ đứng nhìn, miệng há hộc, trước một bà Vũ mới lạ. Lài chán nản vì chờ ở cổng quá lâu, nàng đứng dậy và tự tiện bước vào sân, sau lưng có một người đi theo. Lài đã chuẩn bị để tỏ ra rất cương quyết, và đòi hỏi các quyền lợi như một người mang lại hy vọng sinh một quý tử cho trong gia đình.

Nhưng thay vì một bà cao đạo và nghiêm nghị mà cô dự đoán sẽ gặp, cô lại thấy một bà xinh đẹp rất dịu dàng, tươi cười giữa những đứa trẻ ăn mày. Bà Vũ linh cảm có người đang lấp ló sau cột mái hiện, bà quay lại và gặp đôi mắt Lài.

Bà Vũ nói:

- Cô xem tôi có nhiều con như thế đấy, nhưng tôi cũng không quên cô. Tôi tìm chỗ ăn và chỗ ở cho chúng xong, tôi sẽ nói chuyện với cô.

Bà quay về phía các người thân thích, giữa họ không có các con trai và con dâu bà. Đấy chỉ là những người anh em họ hàng già nua. Những đứa cháu họ nghèo nàn, không có nhà cửa nên trở về với mảnh đất ông bà để kiếm một chỗ đặt lưng.

Bà hỏi:

- Các con tôi sẽ ở chỗ nào nhỉ?

Một bà góa già nói:

- Thưa chị, nếu chị làm việc thiện thì nên để chúng ở trong ngôi chùa nhà. Bà Vũ đang phân vân không biết nên cho lũ trẻ ở đâu. Bà liền tán đồng ý kiến ấy ngay.

Bà nói với một giọng biết ơn:

- Chị nói thật chí lý! Không chỗ nào khác tốt hơn bên ngôi chùa nhà cả. Bên ấy có sân chơi, có bể cạn và suối nước.

Bà bước lên trước để dẫn đường: lũ trẻ chạy theo sau, bà già cũng khập khễnh nối gót. Ở tận cùng các sân nhà họ Vũ, có một ngôi chùa cũ kỹ to lớn, do một bà tổ xây dựng đã gần hai trăm năm. Khi ông cụ mất, cụ muốn đi tu nhưng lại không muốn bỏ nhà đi ở chùa công. Bấy giờ cụ cho xây trong khuôn viên gia đình một ngôi chùa tuyệt đẹp, ở đó cụ sống với các vị thần cho đến lúc từ trần, thọ gần trăm tuổi. Từ ấy trở đi, người ta dùng một nhà sư để lo lắng hương đèn, nhưng không nhà sư nào được nhận nhiệm vụ ấy nếu chưa được năm mươi tuổi, vì trong nhà có nhiều đàn bà trẻ. Mặc dầu đa nghi, bà cũng vẫn cho phép nhà sư ở lại để gìn giữ ngôi chùa. Mười năm một lần, bà lo mạ vàng các tượng phật, và cấp một số tiền để hương khói hàng năm. Bà con thân thuộc có thể đến đấy khấn vái tùy thích, và người ta cho đó là một ưu thế để các thiếu phụ trong nhà khỏi phải đi dâng hương ở các chùa ngoài, khỏi gặp các nhà sư trai lơ.

Bà Vũ dẫn các em bé vào chính ngôi chùa ấy. Bà dừng lại trên bực thềm đá rộng. Hai hình tượng ông Thiện, ông Ác cạnh cửa vào.

"Các tượng bụt này có xúc phạm đến An-Rê không nhỉ!" bà tự hỏi. Tôn giáo của thầy không có những vị thần như thế.

Bà tưởng như nghe tiếng cười to của thầy vang dội trong các xà sơn cao vút trên đầu các tượng Phật.

Bà bèn mỉm cười và nắm lấy tay em bé Ái, bước lên bực gỗ cao, đi vào trong chùa. Không khí ngào ngạt trầm hương và mùi hoa huệ. Khói hương nghi ngút trước các tượng Phật và hoa huệ nở đầy sân.

Nghe tiếng chân người, nhà sư liền từ bếp chạy lên. Thầy đang đun rạ nấu cơm, nên mặt và tay lem luốc.

Thầy ngạc nhiên hết nhìn bọn trẻ đến nhìn bà Vũ.

Bà Vũ nói:

- Tôi đem của lễ đến đây, các con hãy nói tên cho thầy nghe đi.

Lũ trẻ lần lượt xưng tên mình bằng một giọng dịu dàng và vui vẻ.

Sau rốt, bà Vũ nói:

- Và em bé này là Ái. Tất cả, đó là của lễ tôi dâng cho chùa.

Vị sư già có nghe nói đến những việc đã xảy ra. Thầy hiểu bà Vũ muốn dâng những việc thiện cho trời, nên không thể phản đối, mặc dầu thầy biết việc ấy sẽ gây nhiều khó khăn cho mình. Thầy cúi đầu, hai tay chắp trên ngực. Thầy đi thụt lùi, hết vấp tượng Phật này đến vấp tượng Phật khác. Thầy đi thụt lùi mãi để nhường bước cho bà. Bà tiến vào chùa, trỏ các gian phòng mà ở đó từ trước đến nay chỉ có các tượng Phật đứng im lìm quay mặt sang dinh cơ nhà họ Vũ, bà nói:

- Đây, phòng của các em nhỏ nhất, vì ở đây có Phật bà từ bi sẽ canh thức các con trẻ ban đêm. Đằng kia dành cho các em lớn, vì ở đấy có đủ cho tất cả. Các em phải giữ gìn cho thật sạch sẽ.

Sau đó, bà thấy em bé Ái níu lấy bà xin:

- Mẹ cho con đi với mẹ.

Em nài xin bà Vũ:

- Con sẽ giặt quần áo và hầu cơm cho mẹ. Con biết làm tất cả.

Lòng bà Vũ bốc cháy vì yêu thương. Nhưng bà công bình. Bà biết An-Rê không ban ân huệ riêng cho một em nào.

Bà lắc đầu:

- Con phải ở lại để giúp đỡ các em khác. Đó là điều mà cha con muốn.

Rồi bà hiểu, đó không phải là vấn đề công bằng. Bà không muốn có ai ở cạnh bà để chia bớt sự sống của bà với An-Rê.

Các em bé hỏi:

- Thưa mẹ, chúng con sẽ ngủ ở đâu?

- Chiều nay sẽ có giường. Bây giờ các con hãy cứ vui chơi đi.

Bà nhìn thấy lũ trẻ vui sướng, bà để chúng ở lại với các vị thần.

Lài châu đôi môi đỏ nhìn sững vào cành cây sặc sỡ thêu trên góc chiếc khăn tay lụa. Đầu góc kia gài vào một hạt nút trên vai trái và chiếc khăn thòng xuống như tấm vải treo tay người bị thương. Cô dùng cái khăn tay ấy che mặt hoặc đùa giỡn với nó khi cô không muốn nhìn người đối thoại.

Cô nói với bà Vũ:

- Điều đó khó nói quá.

- Chắc là không có gì đáng nói.

Lài đáp giọng xấc xược:

- Có chứ, có nhiều chuyện phải nói. Nếu bây giờ tôi không có con thì rồi đây tôi sẽ có.

Vừa nói cô vừa vỗ vào bụng mình.

Bà Vũ nhìn cô:

- Cô có thể có một đứa con mập mạp. Trông nó có vẻ khỏe mạnh lắm.

Lài bối rối hỏi:

- Nhưng địa vị của tôi trong gia đình sẽ như thế nào?

- Cô muốn địa vị nào?

Lài nói giọng cụt lủn:

- Tôi phải là vợ thứ ba.

Một người đẹp đẽ, trẻ trung như thế, mà lại có vẻ hung hăng thì thật là một điều kỳ lạ. Đôi mắt tròn, sống mũi nhỏ, thẳng, hai má hồng, đôi môi dầy, tất cả đã tạo cho cô một vẻ nhanh nhẹn và chua ngoa.

Bà Vũ âu yếm nói:

- Được.

- Thế bà cho chuyện ấy là thường à?

Lài lẩm nhẩm lại, vẻ mặt khiêu khích của cô biến mất, các đường nét dịu lại.

Bà Vũ hỏi cách đơn sơ:

- Tại sao điều đó lại làm tôi khó chịu?

- Bà muốn nói rằng tôi sẽ có thể ở đây – trong dinh cơ này – được gọi là bà Ba, và khi đứa con tôi…

- Tôi không muốn nhà tôi có con hoang. Điều đó không xứng với danh thể nhà chúng tôi. Cô là chiếc bình đón nhân hạt giống. Cô có quyền hưởng các vinh dự.

Lài nhìn bà với đôi mắt đen mở lớn. Rồi cô òa khóc và lớn tiếng kể lể:

- Tôi đã tưởng bà ghét tôi. Tôi đinh ninh bà sẽ nổi giận. Bây giờ tôi không biết nói gì hơn.

Bà Vũ bình tĩnh nói:

- Cô không phải làm gì cả. Tôi sẽ bảo một đứa ở gái đưa cô đến phòng của cô. Chỉ có hai gian phòng nhỏ ở phía trái ngôi nhà ông chủ. Bà Hai ở các gian phòng phía hữu. Hai người khỏi phải gặp nhau. Tôi sẽ tin cho ông biết là cô đã đến.

Bà ngập ngừng, rồi nói tiếp với một lòng ngay thật và tế nhị:

- Cô sẽ thấy ông rất công bình. Nếu ông để chiếc điếu lại trên bàn cô, nó sẽ là cánh thiếp dịu dàng của ông. Nếu ông cầm nơi tay và đi ra thì cô đừng có giận. Đó là điều mà tôi yêu cầu cô phải giữ đúng để được ở đây. Cô đừng có mang sự rầy rà đến trong nhà này.

Bà Vũ nhìn mụ già thờ ơ và câm lặng ngồi bên cạnh Lài.

- Mẹ cô đấy à?

Mụ già định trả lời, nhưng Lài đã nói trước:

- Mụ ta là người nhà mà tôi ở.

- Thế thì để mụ ấy trở về.

Bà lấy mấy hào bạc trong túi áo cụt và đặt lên bàn. Các đồng hào sáng loáng, đến nỗi mụ già cuống quít đứng dậy vái chào bà.

Nhưng Lài sụp quì trước bà Vũ, đầu cúi sát đất làm gián đoạn sự chào kính của mụ già.

- Người ta bảo bà là người công bình, nay tôi biết bà là người rất phúc đức.

Hai má bà Vũ ửng đỏ, bà nói cách thẳng thắn:

- Nếu cô đến đây trước mấy hôm, thì có lẽ cô chỉ cảm thấy tức giận. Nhưng hôm nay khác với tất cả mọi ngày về trước.

Rồi, mặc Lài quì gối, bà đứng dậy và bước vội ra khỏi phòng.

"Ta là một người tàn nhẫn, bà tự bảo. Người đàn bà nào đến nhà này cũng được, nếu họ thích, ta không thiết gì đến điều ấy cả, lòng ta đã tràn đầy."

Bà dừng lại, chờ đợi câu trả lời cho nhận xét ấy, nhưng không có gì bằng sự bình an sâu xa tràn ngập toàn thân bà.

"Nếu tôi khám phá ra được những tình cảm của tôi đối với thầy khi còn sống, thì liệu chúng ta có giữ thinh lặng không?"

Cũng không có câu trả lời nào, và bà mỉm cười về sự thinh lặng ấy. Ngay khi đã trở thành linh hồn thuần túy, An-Rê vẫn sợ ái tình. Quy luật cuộc sống của thầy vẫn tiếp tục. Một lát sau sự thinh lặng ấy bị phá tan ngay. Khi đi vào sân chính, bà chợt thấy có ba người đàn ông đứng đợi. Họ ăn mặc chính tề, và giả vờ không thấy khi bà đi tới. Họ tấm tắc khen bà đẹp, nhưng bà không biết đến điều ấy. Bà nói:

- Tôi là bà Vũ, các ông đến đây có việc gì?

Nghe vậy, họ đứng khép nép để trình diện, và người lớn tuổi nhất trả lời hết sức nhã nhặn, mắt không nhìn bà:

- Thưa, chúng tôi muốn thưa chuyện cùng bà. Chúng tôi muốn hỏi xem có nên báo thù cho người chết không? Lũ cướp áo xanh là một hiểm họa của thành phố. Đã hẳn là mấy lâu nay không ai chết vì chúng. Và quả thật người ấy là một người ngoại quốc, một giáo sĩ. Nhưng nếu bọn chúng đã bắt đầu giết các người ngoại quốc và các giáo sĩ, thì nay mai sẽ đến lượt chúng ta. Thành phố không nên nhân vụ này mà nhờ đến pháp luật hay sao? Nếu có, bà muốn lãnh nhiệm vụ khiếu nại không?

Bà cảm thấy một cử chỉ phản kháng. Bà thấy đôi mắt An-Rê từ khước sự báo thù, bà liền đáp:

- Hẳn là thầy ấy không muốn người ta báo thù cho mình. Thầy thường nói về việc tha thứ cho những ai không ý thức được hành động của mình. Nhưng những tên cướp ấy là ai thế?

Người lớn tuổi nhất trong ba người phẫn uất nói:

- Là những tên vô lại trong thành, những đứa cầu bơ cầu bất, những thằng muốn làm giàu không phải bởi việc làm chân chính, mà là do việc khủng bố các người khác.

Bà kinh ngạc hỏi:

- Hạng người như vậy có nhiều không?

Các người đàn ông cười, nhưng vì kính trọng bà, họ cười không thành tiếng. Một người nói:

- Ngày nay có nhiều lắm.

- Tại sao thế?

Một người trả lời:

- Tại vì thời đại xấu.

Đó là một người đàn ông nhỏ bé, khuôn mặt nhăn nheo, nhưng làn tóc vẫn còn đen. Bà Vũ đứng giữa nắng, mặc áo màu hồng và trong đôi mắt của người đàn ông lộ ra sự khen ngợi vẻ kiều diễm của bà. Nhưng bà tránh tất cả những sự khen ngợi của đàn ông.

Bà nói:

- Tại sao thời đại lại xấu đến thế?

Bà hỏi, mặc dầu bà đã biết lý do.

Người đàn ông đáp:

- Thưa bà, bà đã sống trong các bức tường to lớn của dinh cơ này. Bà không thể hình dung được thế giới đang trải qua một cơn biến động như thế nào… Hiện tượng ấy đã khởi phát ở nước xấu xa nhất trong các nước ngoại quốc, tại đây luôn luôn có các mầm chiến tranh đe dọa. Không ai trong chúng ta có thể thoát khỏi. Hoàn cảnh đã kích động một số thanh niên khắp nơi. Họ tự hỏi tại sao phải khép mình theo những cổ tục nay mai sắp thay đổi? Họ không có gì mới để phụng sự, cho nên họ luyến tiếc những cái cũ và trì hoãn sự tiến bộ, họ sống không có quy luật.

Bà Vũ nhìn các người đàn ông. Bà có thể hoài nghi tất cả, nhưng những tư tưởng của An-Rê thì bà cho là đúng.

Bà nói:

- Thầy ấy không muốn báo thù.

Họ nghiêng mình chào bà và ra về. Nhưng khi họ đã đi khuất bà cảm thấy lo âu. Bà tiếp tục đi tìm ông Vũ, vì bà muốn biết ý kiến của ông bây giờ. Vừa đi, bà vừa suy nghĩ đến những điều các người đàn ông nói vừa nói. Bà có nên gửi các con trai bà đi xa trong lúc thời thế rối loạn như thế này không? Bà thầm nhủ: "Nếu cảm thấy cô độc, ta có thể sợ hãi."

Nhưng bà đã không cô độc. Được khích lệ bởi ý tưởng ấy, bà Vũ nhớ lại bà phải báo tin cho ông biết là Lài đã đến. Bà vội tới phòng ông.

Bà vào lối cửa vòng nguyệt; bà nom thấy ông Vũ đang ấn cái nồi điếu bằng đồng xuống đất mủn của hàng mẫu đơn. Ông bận áo kép xa tanh màu sẫm, chân mang giầy nhung nhồi bông, lót lụa. Ông gầy đi. Trong thời thanh xuân ông khá mập, và phì nộn khi đến tuổi trưởng thành. Bây giờ, mặc dầu không đến nỗi mảnh dẻ, nhưng làn mỡ trong người ông ta đi, làm da nâu và nhẵn, thụng ra.

Bà Vũ hỏi chồng:

- Mình có khỏe không?

Ông vừa xới đất, vừa đáp:

- Khỏe lắm mình ạ.

- Mình làm thế e hỏng cái điếu mất.

- Tôi thử xem mấy cây mẫu đơn đã bén rễ chưa. Tôi thích loại hoa này quá, nên cứ sợ chúng bị thối rễ.

Bà nói:

- Mấy luống ấy ráo đất ráo nước. Mình không nhớ tôi đã cho đặt ngói vào đấy sao? Cái năm sinh thằng Thế ấy mà. Chúng ta đã cho đắp luống đất cao lên để từ giường nằm tôi có thể trông thấy hàng lan.

Ông nói:

- Cái gì mình cũng nhớ cả. Chúng ta ở ngoài trời hay vào trong nhà nhỉ? Tốt hơn là đi vào. Gió độc lắm, nó cứ xoáy ở mặt đất, làm chân mình lạnh cóng lại.

Bà Vũ ngạc nhiên cảm thấy mình dễ chịu đối với ông. Chắc chắn bà không thể giải thích cho ông hiểu những tình cảm của bà đối với An-Rê. Một người ngoại quốc, một giáo sĩ, một người đã chết, có lẽ ông sẽ tưởng bà mất trí.

Bà theo ông Vũ vào trong gian phòng chính, ở đấy mặt trời chiếu vào khung cửa mở, làm thành một hình vuông lớn trên nền đá lát. Những tình cảm của bà đối với ông vẫn không thay đổi. Nghĩ thế, một niềm xót thương ông trỗi dậy trong lòng bà. Đáng buồn cho ông biết bao! Vì bà không bao giờ yêu ông! Bà đã làm cho cuộc sống của ông thiếu thốn… Bà đã không làm gì cho ông cả. Việc bà hiến thân cho chồng cũng như việc bà sinh con trai, không đền bù được việc trái tim bà thiếu tình yêu. Cái cớ độc nhất để bà chữa mình, là ông Vũ và bà đã hiến thân cho nhau ngoài ý muốn của hai người. Tuy nhiên bà đã phụng sự hết mình. Nhưng nếu bà đã tự nguyện chọn lựa ông, thì bà sẽ không bao giờ tha thứ cho mình cả. Một người đàn ông thiếu tình yêu thương của vợ, không có gì đền bù thiệt hại cho họ được.

"Vậy thì bằng cách này hay bằng cách khác, ta phải cung cấp ái tình cho ông" bà tự nhủ và bình tĩnh nói:

- Tôi vừa nói chuyện với cô Lài.

Bà Vũ ngồi bên phía trái bàn, còn ông thì theo thường lệ ngồi bên phải. Chính họ đã từng ngồi như thế vào buổi chiều, trong cuộc sống vợ chồng của họ, để bàn công việc trong nhà.

Ông Vũ chăm chú nhồi thuốc vào nồi điếu. Rất tế nhị, bà Vũ đoán biết ông sợ bà. Vào một lúc khác, có lẽ việc ấy làm bà vui thích. Sự kính sợ do bà gây nên không làm cho bà khó chịu, bà thấy đó là cái bằng chứng rõ ràng về ưu thế của bà. Nhưng bây giờ, bà buồn rầu nhận thấy vẻ lấm lét của chồng, và hai bàn tay to lớn của ông khẽ run run. Ở đâu có sự sợ hãi, ở đấy không có tình yêu. An-Rê không bao giờ sợ bà và bà cũng thế. Bà hiểu, ông Vũ cũng không bao giờ yêu bà; nếu có, hôm nay ông đã không sợ bà, và điều ấy khiến bà xao xuyến một cách lạ.

Bà nói:

- Mình hãy nói cho tôi nghe những tình cảm của mình đối với cô gái ấy.

Trước lời nói nhã nhặn ấy, ông Vũ nhìn bà và bà nhận thấy trong đôi mắt ông có một vẻ nhút nhát mà bà chưa từng thấy bao giờ.

Ông đáp:

- Tôi biết cô gái ấy đã làm cho mình có những cảm tưởng ra sao rồi. Hẳn nhiên là cô ta thấp kém về mọi phương diện. Nhưng cô ta làm cho tôi đau khổ. Và dù sao, đời cô ta không được may mắn lắm. Đời cô ấy rất buồn, thật tội nghiệp!

- Mình kể lại cho tôi nghe đi.

Ngôi nhà quá yên tĩnh, đến đỗi cả hai người tưởng đâu chỉ độc có một mình họ. Tường nhà rất dày; sân này kế tiếp sân kia. Trong gian phòng rộng rãi này, từ bao năm nay vẫn những bàn ghế ấy không xê dịch; ông và bà Vũ, chỉ là hai người trong sợi dây xích dài những đàn ông và đàn bà đã sống dưới mấy chiếc xà to lớn của cái mái mênh mông này. Nhưng, một phần tử mới đã xen vào, trật tự bị phá hủy.

Ông Vũ bảo chữa:

- Không, chắc nơi cô ta không có gì khác thường đâu.

Bà Vũ nói với vẻ hiền từ và khác lạ:

- Nếu cô ta chiếm được tình yêu của mình, thì cô ta là một người phi thường.

Ông Vũ bối rối:

- Mình này, mình thấy trong người có khỏe không? Giọng nói của mình tôi xem có chiều yếu hơn mọi ngày.

- Chưa bao giờ tôi cảm thấy khỏe hơn hôm nay. Mình hãy nói thêm cho tôi nghe về cô gái mình yêu.

Ông Vũ ngập ngừng:

- Không hẳn là tôi yêu cô ta, nghĩa là đối với cô ta tôi không có những tình cảm như tôi đối với mình. Tôi không thán phục cô ta. Cô ta không có học thức. Có lẽ tôi sẽ không hỏi ý kiến cô ta về một vấn đề nào cả.

Ông Vũ dễ chịu khi thấy nét mặt bà nồng nhiệt hơn thường ngày. Trong đôi mắt của bà có nhiều khích lệ hơn. Bà không có vẻ gì là bất bình cả.

Ông nói:

- Mình có một tâm hồn đáng phục. Tôi có nên nói tiếp nữa không?

- Xin mình cứ tiếp. Mình hãy nói cho tôi nghe. Bằng cách nào cô ta đã làm cho mình cảm; như thế tôi mới có thể biết mình có yêu cô ta thực hay không?

- Tại sao mình quan tâm điều ấy đến thế?

- Chẳng hạn, tôi thấy tôi cưới Thu Minh về cho mình, hóa ra tôi đã làm hại mình.

Ông nhã nhặn nói:

- Ồ, mình đã làm việc ấy với một ý tốt.

- Tôi đã hành động một cách ích kỷ.

Ông cố nói một cách dịu dàng hơn nữa:

- Mình ạ, không ai bén gót mình được. Tôi xin nói lại lần nữa là, nếu không có lễ tứ tuần của mình, thì tôi sẽ không thấy một người đàn bà nào khác trên đời này.

Bà lại mỉm cười:

- Than ôi! Đối với người đàn bà, giữa lễ tứ tuần và sự chết, hai đường chỉ chọn một.

Nếu bà đã yêu ông Vũ thì bà sẽ chọn sự chết hơn là thấy mặt Lài trong nhà này.

Ông Vũ vẫn một mực nhã nhặn:

- Mình đừng nói đến việc chết. Vậy, mình muốn biết cô gái ấy đã làm cho tôi cảm cách nào à? Cô ta làm cho tôi thấy tôi tài giỏi, mình hiểu chứ. Phải, cô ta đã làm cho tôi có cảm giác như thế đấy.

Bà Vũ nhắc lại:

- Tài giỏi?

- Cô ta nhỏ bé quá! Cô ta dốt nát và yếu đuối quá!

Một nụ cười cởi mở, chân thật, nở ra trên đôi môi ông Vũ.

- Không có ai săn sóc đến nàng bao giờ. Thực ra, đấy chỉ là một cô bé con. Nàng không có nhà. Không ai hiểu nàng thực sự. Nàng có vẻ đơn sơ và tầm thường, nhưng có tâm hồn. Nàng không phải là người trí thức. Nàng luôn luôn cần được dìu dắt, nâng đỡ.

Bà Vũ lắng nghe, sửng sốt. Suốt đời bà, không bao giờ bà nghe ông Vũ nói đến việc gì ngoài các sở thích và những ước nguyện của ông.

- Nhưng mình có thật lòng yêu cô ta không?

Với một vẻ tự hào pha lẫn khiêm nhượng, ông Vũ nói.

- Nếu những điều tôi nói với mình là tình yêu, thì là tôi yêu nàng.

Chưa bao giờ hai người thấy gần nhau như thế. Bà không biết lòng ông quảng đại đến thế. Chính ông, ông cũng được đổi mới. Sự khám phá ấy làm bà ngạc nhiên vô cùng. Một người như An-Rê mà nhen nhóm tình yêu trong lòng bà thì chẳng có gì là lạ. Nhưng cô Lài kia, đứa con gái tầm thường, đường sá ấy, đứa con gái dốt nát, ngây ngô và thấp hèn đến thế mà cũng có thể thông qua cho ông Vũ một thứ năng lực như vậy thì thật là một phép lạ.

- Thế thì việc đó mình không lấy làm điều lạ sao?

Ông quay nhìn bà, biểu lộ sự âu yếm và nải nỉ.

Bà đáp rất mau:

- Tôi hoan hỉ lắm.

Cả hai người cùng đứng dậy và đến sát bên nhau giữa ánh mặt trời chan hòa trên nền đá lát nơi khung cửa. Sự hăng hái của bà đã làm ông bạo dạn thêm. Ông nắm lấy tay vợ; trong phút giây vắn vỏi ấy, họ kết hiệp làm một và hai mắt lặng nhìn nhau. Bà rất muốn giải thích cho ông rõ tại sao bà sung sướng, và tại sao hai người cảm thấy gần nhau đến thế! Cái phép lạ tình yêu ở người ông, bà rất ước mong ông cũng hiểu biết nó như bà vậy. Trong tình yêu, cho dù nó đến từ người cao siêu hay một kẻ thất phu, từ một giáo sĩ hay một cô gái giang hồ, phép lạ vẫn giống nhau. Ở tận trong khuê phòng, bà Vũ đã bị ái tình cảm hóa, và cũng chính phép lạ ấy từ một lầu xanh đã thấu đến lòng ông Vũ, biến đổi cả bà lẫn ông. Nhưng bà biết rõ bà không thể nào làm cho ông hiểu được phép lạ ấy. Bà chi có thể giúp ông hoàn thành phép lạ ấy mà thôi.

Ông Vũ nói:

- Trên đời, không có người phụ nữ nào giống như mình.

- Có lẽ.

Bà đáp, và dịu dàng rút tay khỏi tay chồng.

Trong lúc ấy, Giang chợt đến. Theo thói quen, chị đứng dừng lại góc cửa để nhìn hai ông bà. Chị hết sức ngạc nhiên và sung sướng thấy hai ông bà cầm tay nhau. Chắc chắn cử chỉ ấy có nghĩa là hai người đã làm hòa với nhau và cô gái nhà thổ sắp bị đuổi đi. Chị ta lui ra, khẽ ho, và giả vờ trở lại báo một tin khẩn cấp.

- Thưa bà, có người đến ngoài cổng tin cho biết là bà Khương bắt đầu chuyển bụng. Việc sinh đẻ khó khăn quá, ông Khương xin mời bà đến ngay, vì bà là bạn và là chị của bà ấy.

Bà Vũ đã ngồi xuống khi nghe tiếng ho. Bà vội đứng dậy:

- Trời ơi! Có thể như thế sao?

Giang nói, giọng thảm thương:

- Cái thai nó không ra. Nó không chịu rời khỏi tử cung.

- Tôi phải đi ngay bây giờ.

Bà Vũ hấp tấp bước ra cửa, rồi dừng lại để nói thêm với ông Vũ vài lời trước khi đi:

- Còn mình, mình hãy bình tĩnh. Cô gái sẽ đến với mình một cách lặng lẽ. Chính tôi, tôi sẽ bắt mọi người câm miệng. Tôi chỉ xin mình một điều là để tôi cho Thu Minh đi khỏi nơi đây.

Ông Vũ hòa nhã nói:

- Tôi cũng không yêu cầu cô ta ở lại làm gì. Cô ta là một người tốt, và nếu mình đuổi đi thì cô ta ở đâu bây giờ?

- Tôi đâu có đuổi. Khi tôi trở về, tôi sẽ quyết định việc cô ấy, trong lúc chờ đợi, cô có thể đến ở với tôi.

Bà quay sang bảo Giang:

- Chị đã nghe tôi nói rồi chứ. Chị hãy sắp đặt cho sẵn.

Giang đứng sát người vào vách, cấu móng tay vào gạch.

- Con mẹ lẳng lơ có ở lại đây không?

Bà Vũ nói một cách nghiêm nghị:

- Không phải là người lẳng lơ. Đó là người ông chủ đã chọn.

Bà vừa nói vừa đi ra. Một lát sau, bà ngồi trong kiệu, mấy người phu nâng kiệu lên vai và gánh đi.