Chương 12
Nhà họ Khương rất hỗn độn. Bà Vũ nghe tiếng rộn ràng ngay khi xuống kiệu. Lũ a hoàn chạy lăng xăng, khóc lóc cãi vã nhau. Mấy người khác thinh lặng và bối rối. Khi bà Vũ đến, người quản lý chạy tới vái chào và mời bà vào sân trong. Bà bước theo anh quản lý, khi có mặt bà, mọi rối loạn chấm dứt. Mọi con mắt hướng nhìn bà với một niềm hy vọng mới. Sự không ngoan của bà ai cũng biết, và người ta trông cậy vào tình bạn sâu xa của bà đối với bà chủ nhà.
"Bà đọc rất nhiều sách" một người đàn bà thì thầm. Và tất cả đều hy vọng bà có thể biết phải chữa bằng thuốc gì.
Tại gian phòng chính, xoay mặt vào trong, ông Khương đang ngồi khóc. Bà Vũ thường thấy ông trong những năm gần đây, nhưng chưa bao giờ nói chuyện với ông. Hai người chỉ chào nhau tận đằng xa, theo lối những người có họ hàng.
Qua bà Khương, bà Vũ biết ông Khương rất rõ. Bà biết ông thích thịt vịt, rượu và hành, ông không thích trứng muối. Ngược lại, trong cùng một bữa ăn, ông có thể xơi hết bảy cái bánh bao nhân thịt; phải uống hai vò rượu mới; nhưng khi đã say rồi thì ông ngủ.
Ông hãnh diện vì đàn con của ông, nhưng nếu đứa nào khóc trước mặt ông thì ông đuổi đi ngay. Bà Vũ biết, mỗi chiều ông Khương để đôi giày vải lại trước giường vợ, khi nào ông Khương không làm như thế là ông đi thanh lâu; bấy giờ vợ ông sẽ khóc lóc đến nửa đêm, và điều đó đã làm ông nổi giận. Bà Vũ cũng biết, ông Khương có một nốt ruồi đen trên ngực, phía trái tim, là dấu hiệu sống lâu; ông đau chứng no hơi và mi mắt đỏ hoe khi gió bắc thổi, mang cát ở sa mạc về. Thịt cua làm hai má ông nổi mề đay, nhưng ông vẫn cứ ăn như thường. Tóm lại, bà Vũ biết tất cả những gì về người đàn ông to lớn đang ngồi đấy, hai bàn tay chống gối và khóc lóc vì vợ đang hấp hối. Nhưng ông ta không biết gì về bà Vũ cả, ngoài những điều mà trong thành không ai là không hay: năm bà bốn mươi tuổi, bà đã chọn cho chồng một nàng hầu.
Khi bà đến, ông Khương liền đứng dậy, nước mắt chảy ròng ròng trên má. Ông lắp bắp:
- Bà nhà tôi… bà nhà tôi…
- Tôi biết.
Bà Vũ quay nhìn chỗ khác. Nghĩ đến việc bạn mình có thể yêu người đàn ông này, có lẽ sẽ làm cho bà ngạc nhiên thêm một lần nữa, nếu bây giờ bà không biết ái tình là một điều hết sức kỵ lạ. Bà mạnh dạn tiến về phía bức màn xa tanh, ngăn chiếc phòng của bà Khương với gian nhà lớn.
- Nếu bác cho phép, tôi xin vào.
Ông Khương vừa khóc vừa nói:
- Mời bác vào… mời bác vào… nhờ bác cứu sống cho.
Bà Vũ liền đi vào, mùi máu xông lên khắp gian phòng. Một ngọn đèn run rẩy trên chiếc giường lớn trũng sâu mà bà Khương đang nằm. Một mụ già đang lom khom trên mình bà Khương. Hai đứa tớ gái đứng túc trực, một đứa dưới chân đứa kia trên đầu giường. Bà Vũ đẩy đứa đứng phía đầu giường ra và cúi nhìn mặt bạn, giống như mặt một người đã chết.
Bà dịu dàng gọi:
- Mỹ Trinh!
Bà Khương từ từ mở mắt ra, thều thào:
- Chị… Chị đấy à!... (Mặt bà nhăn lại, thương tâm). Tôi sắp chết!
Bà Vũ đặt mấy ngón tay lên cườm tay bạn mà không nói gì. Mạch nhảy rất yếu.
Bà bảo mụ đỡ già:
- Mụ hãy dừng tay. Đừng kéo cái thai.
Mụ già ngẩng đầu kêu lên:
- Nhưng con trai mà!
Bà Vũ đứng thẳng dậy:
- Các người đi ra cả đi. Để chúng tôi một mình.
Mấy người đàn bà sửng sốt nhìn bà Vũ. Mụ đỡ già cắn môi nói:
- Bà chịu trách nhiệm đấy.
Bà Vũ đáp:
- Tôi chịu trách nhiệm cho.
Bà đứng đợi các người đàn bà đi ra. Rồi trong vắng lặng, bà lại cúi mình xuống bạn. Bà hỏi từng tiếng một:
- Chị Mỹ Trinh! Chị có nghe tôi nói không?
Bà Khương cố gắng mở mắt ra. Bà ta không nói được nhưng trong đáy mắt còn có sự hiểu biết. Bà Vũ nói tiếp:
- Chị nằm yên nhé, để tôi tìm nước xúp cho chị uống. Uống xong chị hãy nằm nghỉ. Rồi chị lại sức và bấy giờ tôi sẽ giúp chị sinh con. Việc ấy sẽ dễ dàng nếu chị và tôi hiệp sức lại.
Đôi mi run rẩy, khép lại. Bóng một nụ cười thoáng qua trên môi bà Khương. Bà Vũ đắp chăn cho bạn và đi qua phòng bên. Mụ đỡ già xung giận, đã ra về nhưng bọn tớ gái ở lại. Chúng hầu trà và quạt cho ông Khương. Chúng nài nỉ ông đi nghỉ. Khi bà Vũ đi vào, cả bọn quay lại, nhưng bà không biết họ. Bà nói với ông Khương:
- Tôi cần bác giúp một tay.
- Nhà tôi có sống được không?
- Nếu bác giúp tôi thì bác gái sẽ qua khỏi.
- Tôi sẽ làm bất cứ việc gì, bất cứ việc gì.
Bà Vũ ngắt ngang câu nói lẩn thẩn của ông. Rồi bà bảo một con hầu gái:
- Chị hãy mang đến cho tôi một chén nước xúp ngon bổ nhất mà chị có sẵn.
- Thưa bà nước súp thịt bò, thịt gà hay cá ạ?
Bà Vũ đáp:
- Nước xúp cá. Chị nhớ đổ thêm vào hai muỗng đường cát và phải thật nóng.
Bà lại quay về phía ông Khương:
- Bác phải đích thân mang tới cho tôi.
Ông ấp úng:
- Nhưng tôi… tôi vụng lắm.
Bà Vũ nhấn mạnh một lần nữa:
- Bác phải mang đến cho tôi!
Bà trở lại gian phòng tối sẫm, và cầm lấy cổ tay bà Khương. Mạch luôn luôn vẫn thế, không yếu hơn. Bà đứng đợi và chẳng bao lâu ông Khương rón rén bước vào, hai tay bưng một tô xúp nóng hổi. Bà Vũ nói:
- Để tôi đổ xúp vào bình trà.
Rồi bà nhanh nhẹn trút trà vào trong một ống nhổ bằng đồng và cầm lấy tô xúp ở tay ông Khương đổ cả vào bình. Trở lại bên giường, bà nói:
- Chị Mỹ Trinh ơi! Chị chỉ có việc nuốt vào thôi.
Bà nếm xúp xem nóng nguội, rồi đặt vòi bình trà lên môi bà Khương để nó chảy chầm chậm vào miệng bạn. Bà Khương không mở mắt, nhưng bà nuốt năm sáu ngụm. Bà Vũ bảo:
- Bây giờ chị hãy đi nghỉ đi.
Bà Vũ không nói với ông Khương. Bà để ông đứng nhìn bà. Bà đặt bình trà lên bàn, xăng hai tay áo xa tanh và quấn quanh mình một chiếc khăn. Ông Khương khẽ nói:
- Tôi không nên xem.
Nhưng bà Vũ ra hiệu cho ông đến gần, và ông sợ hãi vâng theo lời bà. Ông có nhiều con, nhưng không bao giờ nghĩ đến những hậu quả có thể xảy ra. Ông sinh dựng chúng một cách thích thú và vô tư.
Bà Vũ đắp chăn lại cho bạn và khom mình xuống.
Bà dịu dàng nói:
- Mỹ Trinh ơi! Chị đừng ráng sức nghe. Hãy để thân xác chị nghỉ ngơi… tôi sẽ làm việc thay cho chị.
Mặc dù bà Vũ làm rất khéo tay, bà Khương cũng thốt lên một tiếng rên rỉ, khi bà Vũ đụng đến làm da đau xót của bà. Ông Khương vả vào miệng mình và quay mặt đi.
- Bác hãy cầm lấy hai tay bác gái. Chuyển sức mạnh của bác cho bác ấy.
Ông không thể không vâng lời. Hai mắt bà Vũ chiếu thẳng vào ông với một uy quyền vững chãi. Ông bước tới cầm lấy tay vợ. Chỉ có việc ấy thôi cũng đủ làm cho bà Khương mở mắt ra. Quả thật, bà Khương đã mở mắt ra khi cảm thấy tay bà nằm trong bàn tay mà biết rất rõ. Bà hổn hển nói:
- Mình à? Mình… mình ơi!
Bà Vũ lợi dụng sự tỉnh trí ấy để luồn hai bàn tay nhỏ và mạnh của mình quanh đứa hài nhi. Bà Khương vụt thét lên.
Ông Khương toát mồ hôi. Ông rên lên, hai bàn tay siết lấy tay vợ. Ông lẩm nhẩm:
- Ồ! Bây giờ thì miễn là mình sống; nếu mình chết thì tôi cũng thắt cổ chết theo.
- Đừng thề thốt… (bà hổn hển). Tôi được sung sướng: con của mình đây.
Ông kêu lên:
- So với mình, con cái không đáng kể. Nếu mình chết, tôi sẽ thắt cổ chết theo.
Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt ông.
- Vậy thì… vậy thì mình yêu tôi à?
Bà Khương thều thào như một hơi thở quá nhỏ, đến nỗi bất giác bà Vũ khiếp sợ về việc bà đã làm.
Ông Khương khóc:
- Mình yêu quý ơi! Mình đừng chết! Đừng chết mình!
Bà Khương lớn tiếng đáp:
- Tôi không chết đâu.
Lúc ấy bà Vũ kéo đứa con ra khỏi lòng mẹ nó. Một luồng máu ào ra, nhưng bà Vũ lấy bông ngăn lại.
Ông Khương vẫn nắm chặt tay vợ. Ông lẩm bẩm:
- Xong rồi à?
Bà Vũ đáp:
- Hoàn toàn xong xuôi.
Bà Khương thều thào hỏi:
- Đứa con thế nào?
Bà Vũ bọc cái thân thể trầy trụa bé nhỏ vào chiếc khăn mà bà đã quấn ngang mình. Bà bình tĩnh nói:
- Đứa bé chết rồi! Nhưng hai bác chẳng cần đến nó nữa.
Ông Khương nói rời rạc:
- Ồ hẳn là không. Mỹ Trinh, tôi xin thề với mình như vậy.
- Bác đừng nói gì cả. Bác đừng hứa những điều mà bác không thể giữ được.
Bà sờ bình trà còn nóng và đặt vòi lên môi bạn. Bà bảo:
- Chị đã hứa sống, chị hãy uống đi.
Bà Khương uống. Đôi mắt bà khép chặt, nhưng khi bà Vũ bắt mạch lại một lần nữa thì thấy khá hơn, mặc dầu chỉ vừa nghe được.
Bà Vũ ra lệnh cho ông Khương buông tay vợ. Bà nói:
- Phải để cho bác ấy ngủ. Tôi sẽ ở lại đây, còn bác, bác hãy mang đứa trẻ đi chôn.
Bà ẵm cái xác chết bé nhỏ đặt vào tay ông Khương và nói:
- Ước gì đứa trẻ này chứng kiến điều bác vừa hứa với bác gái. Bác hãy luôn luôn nhớ đến cái sức nặng này trên tay bác. Bác hãy nhớ lại, vì bác, nó đã chết để cứu sống mẹ nó.
- Tôi xin hứa với bác là tôi sẽ nhớ.
- Bác đừng hứa những điều gì bác không thể giữ.
Cả ngày hôm ấy và suốt đêm hôm sau bà Vũ ở lại cạnh bạn mình. Bọn tớ gái mang cơm nước đến cho bà, nhưng bà không cho chúng bước vào phòng. Ông Khương đi vào để cám ơn bà và để nhìn vợ đang ngủ. Bà Khương ngủ li bì. Bà Vũ cho nấu thêm vào với nước xúp những thứ cỏ cầm máu và một thứ bột mốc để khử độc. Bà đã học những điều ấy trong các sách xưa rất ít người biết.
Mai và Liên Chi về thăm mẹ, ngay cả họ, bà Vũ cũng không cho vào. Bà chỉ để cho không khí lọt qua cửa sổ, vừa đủ cho hai người thở, vì gió lạnh và bà không mang lò sưởi đến, sợ hơi than làm hư khí trời.
Bà Khương ngủ dưới lần chăn lụa, đã được tắm rửa sạch sẽ và hằng giờ được nuôi bằng nước xúp và thuốc. Bà tỉnh lại dần dần.
Sáng hôm sau, khi thấy mạch bà Khương đã điều hòa, bà Vũ mới rời khỏi phòng bạn. Ông Khương vẫn đứng đợi ngoài cửa phòng. Ông không tắm rửa, không ăn uống, ngủ, nghỉ, và đã từ bỏ tất cả mọi sự xã giao, mọi giấu giếm. Ông mệt nhọc, kinh khiếp, và để lộ chân tướng. Thấy thế, bà Vũ lấy làm thương hại, bà đến ngồi trên một chiếc ghế cạnh ông.
Ông khẽ cúi đầu nói:
- Bác đã cứu sống tôi.
Bà Vũ dịu dàng nói:
- Không nên làm cho bác gái bị nguy hiểm lại một lần nữa.
- Tôi xin hứa…
Nhưng bà Vũ ngăn lại:
- Khi bác gái lành rồi, bác có thể hứa không? Và nếu bác hứa điều ấy thì bác sẽ giữ cách nào? Phải chăng tôi đã làm cho bác gái sống lại để bác ấy phải buồn bã sầu muộn vì thấy bác đi chơi bời? Cho dù bác tránh cho bác gái khỏi có thai, nhưng nếu bác cứ tung vãi ở nơi khác những mầm giống điên cuồng, thì đó đâu phải là điều an ủi cho bác ấy? Thật là một tai họa, vì bác gái quá yêu bác, trừ phi bác cũng yêu bác ấy.
Ông Khương nói:
- Tôi yêu nhà tôi.
- Nhưng đến mức độ nào?
Bà gặng hỏi:
- Có đủ để bảo đảm hạnh phúc cho bác ấy không?
Ông nhìn bà Vũ đăm đăm, và bà nhìn ông với đôi mắt u buồn.
Bà nói bình tĩnh:
- Thà chị ấy chết đi còn hơn là phải luôn luôn đau khổ!
- Tôi không làm cho nhà tôi buồn khổ đâu.
Nét nhìn của ông bối rối, ông lắp bắp:
- Tôi không biết… tôi đâu có ngờ… Nhà tôi không nói gì với tôi…
- Cái gì? Bà Vũ hỏi.
Bà biết ông ta sắp nói gì, nhưng vì sự lợi ích của người đàn ông đấy, bà buộc ông nói tiếp. Ông lẩm bẩm:
- Tôi không biết đến sự sống. Khó khăn quá nhỉ! Thật là quý trọng!
- Chính thế, thật rất khó khăn. Nhưng tình yêu của chị Mỹ Trinh đã vượt qua tất cả mọi khó khăn ấy.
- Lần nào sinh, nhà tôi cũng đau đến thế kia ư? Gần sự chết đến thế ư?
Bao giờ sinh con, người đàn bà cũng đến gần sự chết. Bây giờ, đối với bác gái, bác có phận sự lựa chọn. Nếu bấy ấy có con thì chắc chết. Bác không thể có cả hai như trước nữa.
Ông lấy tay che mắt:
- Tôi muốn nhà tôi sống, sống luôn mãi.
Thừa lúc ông Khương không trông thấy, bà Vũ đứng dậy bước ra khỏi phòng. Có lẽ không bao giờ bà gặp ông ta nữa. Con người tầm thường ấy bây giờ khiếp sợ vì tình yêu của mình đối với vợ.
Bà Vũ trở về nhà, rất mệt mỏi và có chiều ghê tởm những điều bà đã làm. Về ở lại trong gian phòng sạch sẽ và thanh tịch của bà, tâm hồn bà dường như được tắm gội. Trong khuôn viên này, An-Rê đã ở với bà. Nơi đây thầy đã đi và nói chuyện. Sự thông cảm của bà đối với thầy có thể có gì giống với tâm hồn thấp kém của ông Khương và mối tình của ông đối với vợ ông không?
Bà đi vào thư phòng, khí trời lành lạnh. Giang đã nhóm hỏa lò, than hồng hừng sáng, run rẩy. Xa hơn, mặt trời chiếu qua khung cửa sổ hình mắt võng.
Nếu bà không cảm nghe sức ấm của lửa tình, thì có lẽ bà không cứu sống bà Mỹ Trinh. Bà sẽ ngập chìm trong sự ghê tởm xác thịt, mùi máu, mùi hôi của sự chết, vẻ xấu xí của ông Khương, và khuôn mặt mếu máo của ông ta. Bà ghê tởm tấm thân phì nộn và tâm hồn nhơ bẩn ấy, nhưng bà thấy rõ tình yêu đã nâng bà lên cao hơn chính bà.
Giang đi vào, chị kêu lên:
- Ôi! Thưa bà. Bà… bà xem áo bà vấy máu kìa, và sao mặt bà tái đi đến thế kia?
Bà Vũ nhìn xuống và thấy vết máu trên vạt áo xa tanh. Và, mặc dầu rất tinh sạch, bà chỉ lẩm bẩm:
- Tôi không nghĩ đến mình tôi nữa.
Đừng tưởng bà Vũ hiểu rõ các sự thay đổi trong bà. Nhiều lúc bà nhận thấy không biết đi về hướng nào. Bà không có kế hoạch gì. Nhưng bà tin tưởng bà bước đi trên một con đường đầy ánh sáng. Bao lâu bà vẫn bước đi trên con đường đó, mọi sự sẽ xuôi thuận. Nhưng nếu bà đi lệch bên này hay bên kia và mạo hiểm đi vào bóng tối, bà sẽ hư mất. Tình yêu của bà đối với An-Rê soi tỏ con đường ấy. Không cần tự hỏi phải lựa hướng nào, bà chỉ có việc nghĩ đến thầy là định được hướng ngay.
Vì vậy, hôm sau, khi Giang bồng đứa con của Thu Minh đến cho bà, bà cảm thấy yêu thương nó vô cùng. Vì đứa trẻ ấy đã buộc Thu Minh vào với họ nhà Vũ. Tuy thế, trước đây, bà nhận thấy những gì liên quan đến Thu Minh đều chỉ là gánh nặng và chỉ thêm phiền phức mà thôi. Bây giờ, gánh nặng và sự phiền phức ấy đều tan biến. Bà chỉ có việc đối xử với hai mẹ con nàng như An-Rê đã mong ước.
Bà hỏi Giang:
- Thu Minh làm gì?
- Thưa bà, cô ấy lo việc bếp núc và chăm sóc vườn tược.
- Xem cô ta có sung sướng không?
- Cô ấy sẽ không bao giờ sung sướng cả. Nên cho cô ta về thì hơn. Vẻ mặt cô ta buồn rầu. thấy chỉ thêm hại.
- Đi mời cô ta lại đây.
Hôm ấy là ngày đầu tiên sau hôm bà ở nhà bà Khương về. Vừa thức dậy bà Vũ đã sai người đến hỏi thăm sức khỏe của bạn, và được biết tình trạng rất khả quan. Sau một đêm an giấc, bà Khương đã ăn được một chén cháo gạo trộn đường cát. Máu ở các vết thương đã đông không còn bị băng nữa. Bây giờ bà ấy ngủ lại.
Bầu trời sắc xám, êm dịu. Ánh dương ngày hôm trước đã biến mất, và người ta cảm nhận trong không khí mùi sương mù từ mặt sông dâng lên. Bà Vũ ngửi mùi sương một cách tinh tế.
Cạnh bà, đứa trẻ nằm trong nôi, đang chơi với hai bàn tay nhỏ bé. Thỉnh thoảng, tìm không thấy hai tay, một vẻ, kinh ngạc hiện lên trên khuôn mặt nhỏ xíu. Chốc chốc đứa bé thấy lại hai tay, vùng vẫy, rồi lại không thấy nữa. Bà Vũ khẽ mỉm cười quan sát trò chơi ấy.
"Những buổi ban đầu của chúng ta giản dị biết bao!". Bà tự bảo. Tôi đã nằm như vậy trong nôi – và An-Rê cũng thế. Bà cố hình dung ra An-Rê thời thơ ấu, một cậu bé con, và bà nghĩ đến mẹ của thầy. Chắc hẳn người mẹ ấy ngay lúc đầu đã biết con mình ra sao – một người mà khi sống chỉ gieo rắc ân phúc quanh mình.
Trong buổi sáng màu xám yên lặng ấy. Thu Minh khép nép vì lạnh bước qua các khung cửa mở. Khi người thiếu phụ đi vào, bà Vũ ngẩng đầu lên. Dường như Thu Minh cũng là một phần của làn sương xám, bất động và lạnh lẽo của buổi mai ấy. Khuôn mặt tái nhợt của nàng có một vẻ bí ẩn, đôi môi cũng tái nhợt như hai hàng mi đè nặng trên đôi mắt u buồn.
Bà Vũ nói:
- Cô xem con cô kìa! Nó chơi với hai bàn tay làm tôi phải bật cười.
Thu Minh đến gần, cúi nhìn vào nôi và bà Vũ nhận ra nàng không cảm thấy yên con, nàng là một người xa lạ đối với đứa bé.
Trước kia, có lẽ bà Vũ không muốn nói ra điều ấy, hay bà sẽ ngoảnh mặt đi và nghĩ rằng cô gái dốt nát có yêu con hay không đều không quan hệ. Nhưng bây giờ, bà hỏi:
- Sao cô lại có thể không yêu con nhỉ?
- Tôi không cảm thấy nó là con tôi.
- Dù sao cô đã sinh ra nó.
- Điều đó trái với ý muốn của tôi.
Hai người làm thinh và cùng quan sát đứa bé ngây ngô. Trước đây không lâu, có lẽ bà Vũ sẽ nặng lời khiển trách người mẹ vì đã thiếu tính âu yếm con, nhưng trong thinh lặng, tình yêu chỉ giáo bà.
"Một lần kia, An-Rê đã kể cho bà nghe chuyện một thiếu phụ sinh được một đứa con. Người ta không biết cha nó. Mặc dù mới sinh, đứa trẻ đã tỏa ra một ánh hào quang xán lạn, đến nỗi người ta thờ lạy trẻ ấy như một vị thần, vì trẻ ấy đã do tình yêu mà sinh ra."
Bà Vũ đã hỏi:
- Tại sao người ta không biết cha nó?
- Bởi vì người mẹ không bao giờ nói đến tên cha nó.
- Ai săn sóc và nuôi dưỡng hai mẹ con ấy?
Một người rất tốt gọi là Giu- Se; ông là người phụng thờ họ và không cầu xin gì cho mình cả.
- Đứa trẻ tỏa hào quang ấy sau này ra sao?
- Đứa bé ấy đã chết trẻ, nhưng người ta không bao giờ quên trẻ ấy.
Nhớ lại lời ấy, bà cảm thấy chính bà được soi sáng. Thu Minh không yêu em bé nầy, vì nàng không yêu người cha nó là ông Vũ. Và nếu Thu Minh biết như vậy, là vì nàng biết tên của người nàng yêu mến.
Đột nhiên bà Vũ hỏi:
- Cô yêu ai?
Bà ngạc nhiên khi thấy khuôn mặt người thiếu phụ bừng đỏ. Ngay cả hai tai nhỏ của nàng cũng trở nên hồng thắm.
- Tôi không yêu ai cả.
Câu nói dối của nàng rất dễ thấy, khiến bà Vũ bật cười. Bà nói:
- Tôi tin lời cô thế nào được? Đôi má và vành tai của cô đã thú nhận. Cô sợ miệng cô phải nói lên sự thật ấy sao? Cô không yêu trẻ này, điều đó có nghĩa cô không yêu cha nó. Chúng ta phải công nhận như thế. Người ta không thể cưỡng ép tình yêu. Người ta không thể dụ dỗ, đùa giỡn với tình yêu. Tình yêu từ trời đến, con người không thể đòi hỏi hay xua đuổi. Làm sao tôi có thể khiển trách cô về điều ấy được? Tôi biết tôi có lỗi. Nhưng khi tôi đem cô về đây, chính tôi, tôi cũng không hiểu được tình yêu. Tôi tưởng đàn ông và đàn bà có thể ghép thành đôi như các con vật giống đực và giống cái. Bây giờ tôi mới biết, khi người ta ghép đôi người đàn bà và người đàn ông theo lối ấy, họ sẽ ghét bỏ nhau. Vì chúng ta không phải là con vật. Chúng ta có thể kết hợp với nhau mà không cần tay cầm tay, mắt nhìn mắt. Chúng ta có thể yêu, cả đến thân xác đã chết. Không phải là thân xác kết buộc chúng ta.
Bà Vũ đã nói bằng cái lối nói ấy thì thật là một điều lạ lùng và kỳ dị, vì lời bà bao giờ cũng rất rõ ràng, rất thực tiễ. Thu Minh nhìn bà như nhìn một hình ma. Đôi mắt bà ngời sáng và thân xác bà mặc dù mảnh mai, vẫn tràn đầy sinh lực. Một sức sống mới chiếm đoạt lấy bà, Thu Minh thấy rõ như vậy.
Bà Vũ nói:
- Vậy thì, cô hãy thú thật cho tôi nghe cái tên mà cô đã dấu kín trong lòng.
- Tôi sẽ chết mất vì xấu hổ.
Nàng đưa tay giày vò tà áo.
Bà Vũ khoan hòa nói:
- Tôi sẽ không để cho cô chết vì xấu hổ đâu.
Được khích lệ như thế; Thu Minh lắp bắp vài tiếng ngập ngừng và hoài nghi:
- Bà đã cho tôi làm vợ hầu ông già… nhưng…
Nàng ngưng lại.
- Nhưng có một người khác cô thích hơn chứ gì.
Bà Vũ đi xa hơn để giúp cô ta nói rõ, và nàng gật đầu ra dấu chấp nhận.
- Người đó có ở trong nhà này không?
Nàng lại gật đầu nữa.
- Có phải một cậu trong các con trai tôi không?
Lần này Thu Minh nhìn bà và òa khóc.
Bà Vũ biết chắc là Phan, nên bà nói:
- Thằng Phan.
Thu Minh vẫn thổn thức.
"Thật là rắc rối, oái oăm! Bà Vũ tự bảo. Đấy là kết quả của sự khờ dại và thiếu tình yêu của ta".
Bà nói với Thu Minh:
- Cô đừng khóc nữa. Đó là hậu quả của các lỗi lầm tôi đã phạm. Tôi phải tìm cách sữa chữa lại, nhưng tôi chưa biết phải làm gì.
Nghe nói thế, Thu Minh sụp quì gối và cúi đầu sát đất.
- Con đã nói con sẽ chết đi vì xấu hổ; xin bà để cho con chết. Người như con thật là vô dụng.
- Không có ai vô dụng cả. (Bà đỡ Thu Minh dậy). Tôi bằng lòng vì cô đã cho tôi biết điều ấy. Tôi biết rõ thế còn hơn. Bây giờ, cô hãy chịu khó chờ đợi trong nhà này. Tôi suy nghĩ kỹ và và tôi sẽ biết tôi phải làm gì cho cô. Trong lúc chờ đợi, cô hãy giúp tôi chăm nom lũ trẻ mồ côi. Cô sẽ giúp tôi một việc quan trọng. Chúng đến ở đây mà tôi không có đủ thì giờ để chăm nom chúng.
Thu Minh lau nước mắt:
- Tôi sẽ chăm nom lũ trẻ mồ côi. Tốt lắm! Những đứa trẻ ấy là em của tôi.
Nàng cuối xuống ẵm đứa hài nhi trong nôi.
- Tôi mang con bé này theo.- Tôi tưởng nó cũng là một đứa bé bị bỏ rơi, một đứa bé mồ côi, vì mẹ nó không thể yêu nó, tội nghiệp thay con nhỏ!
Bà Vũ không đáp. Và tự hỏi, tìm đâu hạnh phúc cho Thu Minh. Thời gian sẽ định đoạt việc ấy.
Từ nhà riêng, bà Vũ quan sát gia đình bà trong lúc ngày tháng cứ tuần tự trôi qua.
"Nếu tôi độc ác, bà tự bảo, người ta có thể so sánh tôi với một con nhện dệt lưới bao vây tất cả mọi người trng nhà tôi."
Một con chim hót trong khóm tre. Bà nghe tiếng chim có vẻ quen thuộc, và nhận ra cứ mỗi năm hai lần, con chào mào Ấn Độ màu nâu bay đến trong vùng này. Tiếng hót du dương nhưng khắc khổ. Nó chỉ làm các việc báo hiện mùa xuân đến.
Bà Vũ nghĩ ngợi vẩn vơ.
"Làm sao biết đượ là ta không độc ác? Bao điều ta cho là tốt, trong thực tế có tốt thật không?"
Theo thói quen, bà tự đặt câu hỏi ấy và hình dung hình ảnh của An-Rê.
Bà còn nhớ rất rõ, một hôm nọ, hai người đang ngồi trong thư phòng nầy. Thầy ngồi bên nầy chiếc bàn chạm, bà ngồi bên kia, không đối diện nhau, không bắt buộc phải nhìn nhau, thật thế, hai người bị hai cái bàn ngăn cách, và cả hai nhìn ra sân qua khung cửa mở. Ngày hôm ấy cũng đẹp như hôm nay, không khí rất trong và mặt trời rất sáng, đến nỗi ngoài sân các viên đá lát màu xám đã trở sang màu vàng và hồng với những đường gân bạc. Các khóm lan nở hoa màu hồng thắm, và trong bể cạn, đàn cá vàng bơi lội tung tăng, qua những tia sáng mặt trời chiếu xuống nước.
An-Rê vừa kể cho bà nghe một câu chuyện cổ về con người sa vào tội lỗi. Nguyên do bởi tay người đàn bà, thầy đã nói, chính tay E- Va đã lấy trái cấm trao cho người đàn ông.
Bà đã hỏi:
- Sao người đàn bà có thể biết được trái cây ấy bị cấm?
- Ma quỷ mang hình một con rắn, đã nói cho bà ấy biết.
- Tại sao nó nói cho người đàn bà mà không nói cho người đàn ông?
- Vì nó biết lòng trí người đàn bà hướng về sự kế tục của sự sống chứ không hướng về người đàn ông. Người đàn ông mơ tưởng mình sẽ có người đàn bà và khu vườn, nên cảm thấy đã đầy đủ hạnh phúc. Ông ta đã có tất cả, sao lại còn mong ước điều gì khác? Nhưng người đàn bà có thể bị cám dỗ bởi ý nghĩ một khu vườn tốt hơn, rộng rãi hơn, có nhiều sản vật hơn. Bà ta biết sẽ có nhiều người khác do mình sinh ra và chính họ mà người đàn bà đã mưu mô tính toán. Người đàn bà không nghĩ đến chính minh, nhưng nghĩ đến những người do mình sinh dựng. Người đàn bà đã bị cám dỗ vì những người ấy. Và chính vì những người ấy mà người đàn bà luôn luôn bị cám dỗ.
Bà Vũ đã nhìn thấy An-Rê. Sự khôn ngoan sâu xa và buồn rầu hiển hiện trong đôi mắt u ẩn của thầy, bà còn nhớ rõ biết bao!
Bà đã hỏi thầy:
- Sao thầy biết người đàn bà rõ đến thế?
- Vì tôi sống một mình. Tôi tự giải thoát tôi rất sớm.
- Tại sao thầy tự giải thoát? Tại sao thầy tự tách rời khỏi trào lưu của cuộc sống? Chúng ta khong thuộc về cuộc sống ấy tất cả sao? Tự giải thoát mình ra khỏi cuộc sống có chính đáng không?
- Bà hỏi một câu mà tôi chưa có thể trả lời. Tôi đã bắt đầu giải thoát mình tôi vì tính tự trọng. Vâng tôi biết điều đó và tôi công nhận như vậy. Khi tôi sắp lập gia đình như mọi đàn ông khác, tôi tin rằng tôi đã được một người đàn bà yêu. Nhưng may cho tôi quá, Thiên Chúa đã cho tôi thấy rõ con người quá sớm. Tôi đã coi người đàn bà ấy như bà E-Va, cứ xây dựng kế hoạch cho những người khác mà nàng sinh ra- đã hẳn nhờ một chút giúp đỡ của tôi – nhưng chính nàng sẽ tác thành trong thân thể của nàng, và tôi đã thấy cái phần sút kém của tôi, là chỉ vì một chút thõa mãn chóng qua của xác thịt, sau đó suốt một đời phải đào sâu cuốc bẩm như A-Đam để khu vườn chúng tôi trở nên lớn hơn, hoa quả sẽ tốt đẹp hơn. Bây giờ tôi tự hỏi, có phải tôi là người mà nàng yêu thương không. Hẳn là có, nhưng chỉ trong chốc lát, bởi vì nàng cần có người phụng sự nàng. Và tôi đã suy nghĩ: Phụng sự Thiên Chúa không hay hơn sao? Người không đòi hỏi gì ở tôi cả, chỉ trừ phải hành động theo lẽ công chính và khiêm tốn đi trước mặt người. Và ngày ấy, tôi đã làm giáo sĩ.
- Vậy thầy có được hạnh phúc không? Bà đã hỏi thầy, không phải là không có ác ý.
Thầy chỉ vỏn vẹn trả lời.
- Tôi đã là chủ được chính mình tôi.
Bây giờ, một mình trong thư phòng này bà bắt đầu suy nghi về người đàn ông và người đàn bà. Bà nhận thấy người ta không nên chê trách bà E- Va, vì trong bà chứa đựng cái ước nguyện muôn đời lưu truyền sự sống. Nếu để tự ý, người đàn ông sẽ không đi xa hơn cái bản thân mình. Người đàn ông biến người đàn bà thành một phần của chính mình để xử dụng và tìm khoái lạc, nhưng người đàn bà đã dùng người đàn ông trong sự gây dựng muôn đời những sự sống mới, hoàn toàn vô thức và vô tội. Cả hai người chỉ là những khí cụ, nhưng chỉ có người đàn bà nhận thấy điều ấy và phó thác mình cho sự sống.
Bà đã nói với thầy An-Rê:
- Đấy, sự khác biệt giữa người đàn ông và đàn bà, giữa thầy và tôi thế đấy.
Không khí lành mạnh và dịu dàng len và gian phòng bà đang ngồi, không một hơi gió thoảng. Một con rắn mối từ trong khe nẻ giữa bức tường gạch và nảnh sân lát đá, bò ra, nằm sưởi dưới nắng ấm. Bà Vũ ngồi yên không nhúc nhích, đến đỗi nó tưởng lầm bà là một sinh vật của gian phòng, nên nó nhún nhẩy, lắc la lắc lư cái đầu và ve vẩy chiếc đuôi sáng loáng. Đôi mắt nó chiếu sáng, trống rỗng. Bà Vũ không nhúc nhích. Trong nhà có những con vật nhỏ bé như vậy là điềm tốt. Chúng cảm thấy ngôi nhà này chắc chắn muôn đời nên đến lập cư.
Bà Vũ cứ tiếp tục mơ mộng vẩn vơ trong lúc con rắn mối đùa giỡn. Vậy đó là cái tai họa làm chia rẽ người đàn ông và người đàn bà. Người đàn ông tin tưởng vào giá trị cá nhân của chính mình, nhưng người đàn bà biết rằng mình chỉ có giá trị khi chu toàn bổn phận bằng cách sinh dựng con cái. Người đàn ông yêu vợ như một phần của chính mình, nhưng người đàn bà chỉ yêu chồng vì vai trò của họ trong việc sinh dựng ấy. Đó là mối dị đồng làm cho người đàn ông không làm chủ được người đàn bà, vì người đàn bà đã bị mọt mãnh lực cao hơn chiếm đoạt.
Chẳng phải là người đàn bà cũng đã sinh dựng nên người đàn ông ư? Cái đó là lý do khiến đàn ông không thể tha thứ người đàn bà; người đàn ông thù ghét và ngấm ngầm chống đối người đàn bà, chế ngự, áp bức họ, cầm giữ họ ở trong nhà, chân bó lại, mình thắt eo, cấm họ làm tiền, thi thố tài năng, học hành, người đàn ông bắt họ thủ tiết khi mình chết và đôi khi cho đốt thành tro, viện cớ là người đàn bà mong ước như vậy vì lòng trung tín.
Bà Vũ chế nhạo người đàn ông, bà bật cười và con rắn mối lần trốn vào khe hở.
Một lần kia, khi An-Rê ngồi trong chiếc ghế bành trước mặt bà, bà đã hỏi thầy:
- Phải chăng đàn ông chỉ thuần là đàn ông mà thôi, và đàn bà chỉ thuần là đàn bà mà thôi? Quả như vậy thì không khi nào đàn ông và đàn bà kết hợp với nhau được, vì đàn ông thì sống cho chính mình còn đàn bà lại sống cho muôn người, nên luôn luôn chống đối nhau.
An-Rê đã trả lời trịnh trọng:
- Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một thánh tích hoàn toàn thuộc về chúng ta, nghĩa là một vật hoàn toàn mang tính chất người không nam không nữ. Người ta gọi là linh hồn. Nó không thay đổi và không thể thay đổi. Nó cũng có thể hiểu được óc não cùng các cơ năng của bộ phận ấy. Bà đã hỏi:
- Nhưng bộ não của một người đàn bà không phải hoàn toàn in hệt não của một người đàn ông, có phải không?
- Nó chỉ trở nên hoàn toàn giống nhau khi nó được giải thoát khỏi các nhu cầu xác thịt. Chính vì thế mà người đàn bà chỉ có thể dùng óc não mình để lo các bổn phận đàn bà của mình, và đàn ông thì dùng óc não của mình để truy tầm đàn bà cho chính mình. Nhưng óc não là một khí cụ người ta có thể dùng để làm tất cả các việc người ta muốn. Nếu tôi dùng một con dao sắc để cắt bắp su, điều đó không có nghĩa rằng tôi có thể dùng nó để cắt một hình ảnh của "Con người". Nếu "Con người" ở trong lòng tôi và ở trong nhãn giới của hồn tôi, thì tôi có thể dùng khí cụ của tôi là óc não để làm cho cái hình ảnh ấy hiện ra rõ ràng.
- Như vậy linh hồn là một thánh tích không nam không nữ?
- Đúng thế.
- Vậy thực chất của linh hồn là gì?
- Là cái phận mà chúng ta không thừa hưởng của ai.Cái yếu tố tạo thành " thằng tôi" của tôi, làm cho tôi có phần khác những người đi trước tôi, mặc dầu tôi có giống những người ấy đến mức nào đi nữa. Đó là một ân phúc của Thiên Chúa, tôi, Người đã ban cho vì chính mình tôi.
- Vậy tôi không tin có Thiên Chúa thì sao?
- Không sao cả. Tin hay không tùy bà. Tự bà, bà không giống với người nào trên đời này và không những bà, ngay một người hèn hạ nhất, xấu xí nhất cũng có được cái thánh tích quý báu ấy. Nếu bà có nó, bà biết nó có. Thế là đủ. Đức tin có thể đến. Thiên Chúa không làm điều gì vô lý cả. Người biết rằng chúng ta thích nhìn tận mắt, nghe tận tai và cầm nắm trong tay mới chịu tin. Vì thế, trẻ con chỉ hiểu những điều ngũ quan thu nhận được. Những còn có những giác quan khác, chúng phát triển theo đà lớn lên của con người, và khi chúng đã đặt đến mức phát triển đầy đủ, chúng ta sẽ đặt lòng tin vào chúng như đã đặt lòng tin vào năm giác quan trước đó.
Khi nhớ lại những tư tưởng ấy, bà Vũ nhìn về phía bên kia bàn. Chiếc bàn vẫn trống trải, bà không nghe được tiếng nào. Nhưng khuôn mặt An-Rê hiển hiện với nụ cười oai nghiêm, giọng nói trầm hùng, dường như bà thấy bà nghe thầy nói vậy.
Bà lẩm bẩm:
- Tôi chỉ mới bắt đầu hiểu. Nhưng thực sự tôi bắt đầu yêu thầy với tất cả hồn tôi.
- Tình yêu và tình bạn không thể có được giữa các tâm hồn sao?
Bà thầm đáp:
- Được chứ.
Bà Vũ là người thực tiễn, bà đem thi hành ngay những điều bà đã học được. Ngôi nhà nầy là thế giới riêng của bà, nơi đây có hai người thiếu kỷ luật, nghĩa là thiếu sự liên quan với gia đình - và do đó, đối với mọi người chung quanh thiếu sự êm hoàn. Đấy là Tố Lan và Liên Chi.
Bà Vũ không hấp tấp, bà để sau một thời gian, đến lúc thấy cần phải nói cho họ biết. Bắt đầu, bà cho gọi Tố Lan vì nàng lớn tuổi hơn.
Thế và Phan ra đi đã lâu ngày. Cả hai rất hiếu thuận, nên đã đều đặn gửi thư về nhà. Bà Vũ đọc thư họ, suy nghĩ rồi chuyển cho ông Vũ. Ông Vũ đọc xong thì trao cho Lãng. Lãng càng ngày càng nặng nhọc trong việc chăm lo đất ruộng, kho lẫm và chuẩn bị trở thành người gia trưởng. Chàng đọc thư các em, rồi xếp vào văn khố gia đình.
Qua các lá thư, bà Vũ nhận thấy hai con bà theo chiều hướng đối lập nhau. Phan muốn đi du học, bà đã cho phép và đã gởi những món tiền cần thiết cho chàng. Trong thư chàng bảo, chàng phải vội vã trở về, vì chiến tranh bùng nổ nên các đường hàng hải bị phong tỏa; nhưng nếu không bị mắc kẹt chàng sẽ đi bằng tàu thủy thay vì đường bộ xa xôi mất thì giờ.
Nếu Phan là con một, bà Vũ sẽ không bao giờ chấp nhận; nhưng chàng có nhiều an hem trai nên bà không bắt chàng về vội, khi chàng chưa thành đạt. Chàng đã xuống tàu, thư chàng có đóng dấu và mang con niêm ngoại quốc. Thư từ Mỹ-châu gởi về, điều ấy không cho bà Vũ biết điều gì đặc sắc cả, vì dưới mắt bà tất cả hoàn toàn giống nhau, miễn là ở bên kia bốn đại dương. Phan tiếp tục các môn học đã bắt đầu với An-Rê là bà đủ an tâm rồi, vì không đả động gì đến giáo sĩ và tôn giáo cả. Không đề cập gì đến các vị thần thánh, mà chỉ về con người.
Thế không xin đi xuất dương. Chàng đã tìm ra một hoàn cảnh tốt đẹp ở kinh đô, nhờ sự giàu sang và ảnh hưởng của gia đình chàng. Điều ấy không làm ông bà Vũ ngạc nhiên. Vì mặc dầu tư tưởng bà Vũ rất khoáng đạt, bà vẫn nhận thấy việc gia đình bà được biết tiếng khắp nơi là quá dĩ nhiên. Thế giải thích vì lý do nào chàng được đặc ân như thế. Chiến tranh đang đe dọa; nếu bùng nổ, chính phủ sẽ rút vào nội địa và sẽ rất cần đến các công dân giàu sang, trong đó nhà họ Vũ là một trong những gia đình danh tiếng và lâu đời nhất. Vì vậy, Thế đã được chọn đặc cách, nên bị nhiều người đố kị và ghen ghét. Nhưng là một thanh niên cương quyết, chàng tự mình vạch lấy đường đi cho mình.
Qua các lá thư của Thế, bà Vũ không thể hiểu nổi con người sâu kín của chàng. Bà hiểu Phan hơn, vì lòng trí chàng cởi mở như bà. Chàng đã trưởng thành. Và hơn nữa, linh hồn chàng cũng lớn lên như An-Rê đã nói. Về phần Thế, hình như chàng bị một cái gì đó ám ảnh.
Những gì liên quan đến Thế, điều xảy ra dồn dập. Năm ấy, người Nhật tấn công bờ bể. Bà Vũ biết được điều ấy, bà cho mua các nhựt báo mà bà không có thói quen đọc, để khám phá những gì đã xảy ra. Bà thấy đó là một trường hợp thường xảy ra trong lịch sử nước Trung Hoa. Xưa kia đã từng xảy nhiều cuộc tấn công do những dân tộc khác khởi hấn, nhưng non sông luôn luôn đứng vững; non sông vẫn sẽ đứng vững.
Bà Vũ không cảm thấy lo lắng chút nào. Quân nghịch sẽ không thể tiến sâu ngang qua mấy trăm dặm để vào đến nội địa của đất nước, đến cái tỉnh này, nơi đây nhà họ Vũ đã đóng vị trí từ lâu đời. May mắn thay, tổ tiên nhà họ Vũ không như các gia đình khác, theo lối mới, đi xây nhà ven miền duyên hải. Gia đình họ Vũ đã xây nhà trên mảnh đất của tổ tiên, đã ở đấy và bây giờ được vững an. Đành rằng quân nghịch cũng dùng phi cơ để tấn công, nhưng các thành phố lớn đều ở rất xa, và những con người ngu muội ở miền Đông- Hải kia không thể biết được tên gia đình họ Vũ, mặc dầu họ Vũ lẫy lừng danh tiếng. Trong nhà mình, bà Vũ cảm thấy yên ổn.
Cuộc tấn công gây ra nhiều thay đổi lớn. Chính phủ rút lui vào nội địa và Thế đi theo. Chàng viết thư cho biết, đầu mùa thu sắp đến chàng sẽ nhà khoảng mười hai ngày.
Bởi thế, bà Vũ nhận thấy không nên trì hoãn việc hội kiến với Tố Lan. Bà đã sai Giang đi tìm nàng.
Bà gặp nàng trong bữa ăn, giữa các người khác và trong các ngày tiết lễ mùa Xuân và mùa Đông. Tố Lan đến dự một cách bình lặng, mặc áo màu nhạt. Cũng có đôi khi bà Vũ cần chép gia phả hay ghi sổ sách kế toán, bà đã cho gọi Tố Lan đến, vì chữ nàng viết rõ ràng hơn hết.
Luôn luôn bà Vũ tỏ lòng yêu thương nàng dâu trẻ, và đã có lần bà nói với nàng rằng:
_ Có con dâu thông thái là một điều thú vị.
Nghe vậy, Tố Lan chỉ nói vài lời cám ơn vắt tắc. Nhưng bà Vũ không bao giờ lôi cuốn nàng dâu ra khỏi chỗ đã được chỉ định. Lần này, cầm lá thư cuối cùng của Thế trong tay, bà cảm thấy thời khắc đã đến.
Không một tiếng động, Tố Lan đi ngang qua các hoa viên. Nàng không còn mang giày da Thượng Hải nữa. Nàng đã dùng giày nhung, đế bằng nỉ. Bà Vũ không nghe tiếng chân nàng, và khi chiếc bóng ngả dài xuống nền nhà, bà ngẩng đầu kinh ngạc.
Hai bên chào nhau. Bà Vũ ngạc nhiên nói:
- Con đấy à? Con đi nhẹ làm sao!
- Thưa mẹ con không dùng giầy da nữa.
Cả hai ngồi trong phòng khách. Tố Lan không ngồi ở mé ghế, mà ngồi ngay thẳng trong chiếc ghế dựa để sát tường, thấp hơn chiếc ghế bành của Bà Vũ.
Bà Vũ không vào đề ngay.
Trái lại, bà nhã nhặn hỏi:
- Mấy hôm nay, mẹ muốn biết tin tức của gia đình con ở Thượng Hải. Khi quân địch tấn công, gia đình con có trốn thoát được không?
- Cha con đã đem cả nhà sang Hương cảng.
- Ồ, xa quá nhỉ!
- Thưa, không xa bao nhiêu ạ!
- Con có tin, ở xa như vậy, quân nghịch có dám đánh không? Bà Vũ hỏi, mặc dầu không muốn, vẫn bị kích động vì vẻ hăng hái của người con dâu.
Tố Lan đáp:
- Chiến tranh sẽ lâu dài.
- Thật không?
- Thật vậy, vì người ta đã chuẩn bị từ lâu.
Bà Vũ sửng sốt vì giọng nói có vẻ chắc chắn của người con dâu, bà nói:
- Con hãy giải thích điều ấy cho mẹ nghe.
Tố Lan đáp:
- Thưa mẹ, dân tộc Nhật Bản lo sợ. Họ sợ đã lâu đời. Họ sợ người ngoại quốc xâm lược Họ thấy các nước lần lượt bị tấn công và bị đô hộ. Lũ người xâm lược ấy từ phương Tây đến và khi Thành- Các- Tư- Hãn đến xâm chiếm nước ta, thì dân Nhật đã bắt đầu run sợ. Rồi nhiều người từ Bồ Đào Nha, I- pha- nho, Hòa- Lan và Pháp đã xâm chiếm nhiều nước. Như thế, nhiều lần suýt bị như vậy, vì lũ thực dân phương Tây ấy.Và người Nhật- Bản tự bảo: làm sao chúng ta thoát khỏi? Vì sợ hãi, họ đi xâm chiếm đất đai và các dân tộc, mà chúng ta là người gần họ nhất.
Một người đàn bà mà lý luận như vậy thì thật không thể tin được, bà Vũ ngồi ngẩn người ra. Chính An-Rê cũng không nói những điều như vậy.
Bà Vũ hỏi:
- Bởi đâu con biết được những điều ấy?
Tố Lan đáp:
- Anh Thế viết thư cho con hàng tuần.
Bà Vũ trở nên dễ chịu và cảm thấy thoải mái. Bà mỉm cười:
- Hai đứa con có lại trở nên bạn tốt với nhau không?
Mặt Tố Lan ửng đỏ. Thường ngày da nàng tái nhợt, chỉ trừ cặp môi hồng thắm, và bà Vũ không nhìn thấy, tuy nhiên nàng không quay mặt.
Nàng nói:
- Chúng con rất hòa thuận với nhau khi không ở chung. Lúc anh con trở về, chúng con lại bắt đầu gây gỗ nhau, con biết thế,. Con đã nói với anh điều ấy. Cả hai đều biết như vậy.
Bà Vũ mỉm cười nói:
- Nhưng nếu hai con đều biết, các con không thể ngăn được sao? Ai gây trước? Con hay anh ấy?
Bà Vũ thấy hay hay, bà rất hài lòng vì tính ngay thật của Tố Lan.
Tố Lan đáp:
- Chúng con cũng không biết nữa. Lần này, trong thư chúng con hứa với nhau rằng, bất cứ ai trong hai người gây trước, người kia phải lên tiếng để ngăn lại. Nhưng con tự hỏi chúng con có đủ sức làm không. Con biết tính tình anh Thế bất thường, đột ngột nổi lên như cơn dông mùa hạ. Vô cớ, cơn giận anh bùng lên, và khi anh giận, con cũng nổi giận theo.
Tố Lan ngừng nói, cau mày.
Rồi nàng tiếp:
- Có một cái gì trong con làm anh ấy ghét. Chính thế, Anh quả quyết rằng không, nhưng mà đúng vậy. Khi chúng con sống cách biệt nhau, anh không nhận thấy, nhưng khi ở chung, cái đó lại hiện ra. Nếu con biết nguyên do tại đâu, con sẽ lấy dao cắt đi cho rảnh.
Bà Vũ ngọt ngào:
- Có khi không phải một cái có trong con, mà là do một cái con không có.
Tố Lan ngẩng đầu. Vẻ kinh ngạc hiện ra trong đôi mắt đẹp của nàng.
- Con chưa bao giờ nghĩ đến điều đó cả.
Rồi, nàng lại tỏ vẻ thất vọng:
- Nếu thế thì khó lắm. Bỏ bớt một cái đã có trong con, dễ hơn thêm một cái mà con còn thiếu.
- Có lẽ! Mọi sự đều tùy thuộc ở tình yêu của con đối với Thế. Nếu các con quan niệm hôn nhân chỉ liên quan đến hai con mà thôi, thì chúng con sẽ cải cọ nhau mãi, trừ phi sống ly thân.
- Mẹ muốn rằng…
Tố Lan không nói hết câu. Là đàn bà, nàng vốn rụt rè e sợ.
- Ừ, đó chính là điều mẹ muốn nói.
Rồi bà nói tiếp với một sự khôn ngoan mà bà biết rõ là do hiểu biết của riêng bà về tình yêu. Bà biết thêm rằng, giữa đàn ông và đàn bà không đặt vấn đề nhiệm vụ. Chỉ có tình yêu hay không mà thôi.
Bà khoan thai nhồi thuốc vào cái điếu bạc, bà không nhìn nàng dâu mà nhìn ngôi vườn nở đầy hoàng lan. Lá tre khẽ lay động trong cơn gió hiu hiu. Bà và An-Rê rất thích những ngày êm đềm như thế. Cuối cùng, bà nói:
- Trước tiên, hai con phải biết rằng, không ai có bổn phận với ai cả.
Tố Lan sửng sốt, ngắt lời bà:
- Thưa mẹ, không có bà mẹ chồng nào lại nói với nàng dâu một điều lạ kỳ như thế bao giờ.
- Mẹ chỉ biết điều đó mới đây.
Bà Vũ mỉm cười với một ẩn ý tinh quái:
- Con ạ, con hãy tin rằng mẹ vẫn học thêm.
Bà chinh phục nàng dâu. Người thiếu phụ đến và đinh ninh bà mẹ chồng sẽ xung giận mình, nên đã sửa soạn đón nhận một cách khiêm tốn những lời quở trách ấy. Bây giờ, hy vọng lại trở về với nàng. Bà Vũ không giận dữ như nàng tưởng, mà còn dạy bảo nàng về sự khôn ngoan. Nàng vươn mình về trước như một đóa huệ chờ đón cơn mưa.
Bà Vũ nói tiếp:
- Người đàn ông và đàn bà cứ tưởng họ có nhiệm vụ đối với nhau, do đó, phát sinh ra những sự hiểu lầm. Một khi người ta từ bỏ tư tưởng ấy thì con đường đã được vạch sẵn, rõ ràng. Mỗi người chỉ có bổn phận đối với chính mình. Và bổn phận nào? Ấy chỉ là tự đạt đến sự viên mãn. Và nếu một trong hai người đã đạt đến đó một cách hoàn toàn, thì người kia cũng vậy.
Bà Vũ ngừng nói, châm điếu, hít hai hơi dài, đoạn tiếp:
- Và tại sao đúng như thế? Bởi vì, như lời thánh hiền đã nói: "Người đàn bà không yêu người đàn ông vì người đàn ông mà vì mình, và người đàn ông không yêu người đàn bà vì người đàn bà mà vì chính mình". Khi một người được hạnh phúc thì người kia cũng hạnh phúc; đó là mỗi hạnh phúc duy nhất có thể có giữa hai người.
Tố Lan ngồi yên lắng nghe.
Bà Vũ nói tiếp:
- Còn về việc sinh sản, đó không phải là nhiệm vụ với con hay đối với chồng con, nhưng là đối với chủng tộc. Điểm sai lầm của con là lẫn lộn nhiệm vụ làm mẹ với tình yêu chồng. Và con đã làm cho chồng con cũng lẫn lộn như vậy. Đó là lý do khiến anh ấy dễ tức giận con.
Tố Lan cầu khẩn:
- Thưa mẹ, xin mẹ cứ nói nữa đi, mẹ thấu suốt tận đáy lòng người ta.
Bà Vũ nói thẳng ra:
- Anh Thế và con, cả hai đều đi lệch ra ngoài tập tục. Các con đã lấy nhau vì các con yêu nhau. Đó là điều nguy hiểm, vì nó làm cho các con khó đạt đến cái mà người ta gọi là hạnh phúc. Anh Thế và con, các con chỉ nghĩ đến mình, không tưởng gì đến gia đình, đến bổn phận để nối dõi tông đường. Các con chỉ nghĩ đến mình như hai người ở ngoài tất cả mọi người khác. Nhưng các con không ở ngoài đâu, trừ một phần nhỏ của chính mình, các con hãy cố gắng hướng tất cả mọi hình thái sinh hoạt của các con vào đó, Các con hãy sinh dựng con cái, sống một đời sống như mọi người. Các con cứ tìm cách dồn ép tất cả vào cái mảnh nhỏ của con người các con.
Nhưng cái mảnh nhỏ ấy không thể chứa đựng nhiều như thế được. Nó bị choán hết chỗ: các con uống ở nguồn suối các con, nên bóp nghẹt lẫn nhau. Các con gần nhau quá. Các con ghét nhau, vì cái phần tinh hoa làm nên các con không có chỗ để thở và lớn lên.
Bà Vũ nhìn Tố Lan. Nàng dâu trẻ chăm chú nghe.
- Tố Lan ạ! Con nên có thai, hãy để cho chồng con làm nhiệm vụ của nó. Hãy đón nhận con cái sinh ra như một việc dĩ nhiên, một bổn phận đối với giống dòng. Sinh sản và mang thai không có quan hệ gì đối với tâm hồn các con cả. Con đừng đo mức độ tình yêu của chồng con theo cách biểu lộ hăng nồng. Trong những lúc ấy, nó không nghĩ đến con, nó nghĩ đến nó. Phần con, con cũng hãy nghĩ đến con. Phải chăng sự hăng nồng của người đàn ông này khác người kia? Tuyệt đối không. Cũng thế, tất cả người đàn bà đều có trạng thái giống nhau. Trong những việc ấy, chúng ta đều giống nhau hết thảy. Con đừng tưởng tượng rằng con hay chồng con khác với người đàn ông hay người đàn bà thấp hèn nhất.
Bà Vũ ngừng lại và cảm thấy kiệt sức.
- Mẹ làm con có cảm tưởng hôn nhân không có giá trị gì cả, Tố Lan nói. Con có thể kết hôn với bất cứ ai cũng như với anh Thế sao?
Nghị lực trở về với bà Vũ.
- Mẹ chưa nói hết lời. Con nói cũng có phần có lý. Bất cứ người phụ nữ lành mạnh nào cũng có thể kết hôn, với bất cứ người đàn ông nào lành mạnh và cùng người ấy làm tròn nhiệm vụ đối với sự sống. Vì vậy, nên duy trì cổ tục của chúng ta. Những người lớn tuổi chắc hẳn biết cách lựa chọn cho giống nòi hơn những người trẻ tuổi chọn lựa cho chính mình. Con xem anh Lăng và chị Mai, cả hai đều hạnh phúc. Nhưng cố nhiên là họ không có cái hạnh phúc trọn vẹn mà con và anh Thế đòi hỏi. Họ sống cốt để sinh con cái. Lăng không có tham vọng gì ngoài việc được làm người cha tốt, người chồng tốt. Cả hai không mong ước gì hơn. Cha mẹ chọn lựa vợ chồng cho con cái là tốt hơn cả.
- Nhưng chúng con không giống như anh chị ấy. Tố Lan nóng nảy nói.
- Không, hai con đòi hỏi tình bè bạn đối với nhau. Ồ! Con ạ, con đòi hỏi ở hôn nhân nhiều quá! Hôn nhân không phải để đèo thêm cái gánh phụ nặng nề ấy.
- Thế thì chúng con phải làm gì? Phải sống ngoài hôn nhân sao? Tố Lan hỏi, không có ý xấc xược.
- Có lẽ, có lẽ. Nhưng điều đó cũng khó lắm, vì chúng ta là người, nên xác thịt đòi hỏi các nhu cầu cần thiết của nó.
Bà Vũ dừng lại, lựa những tiếng hoàn toàn mới đối với bà; cuối cùng bà nói:
- Thế và con quá may mắn, các con yêu thương nhau đủ cách. Vậy thì, con ạ, hãy yêu nhau đi. Cuộc sống quá vắn vỏi đối với một tình yêu như thế. Các con hãy yêu nhau và đừng để mất giờ phút nào vì giận dỗi nhau. Hãy tách biệt tình yêu khỏi sự hăng nồng của các con, và đừng lẫn lộn hai điều đó. Mai kia, khi sự tách biệt được rõ rệt và được tập quán bồi đắp vững chắc, khi con cái các con sinh ra và lớn lên, khi cơ thể các con già đi và sự hăng nồng đã tan biến, vì nó sẽ tan biến một cách khoan dung, bấy giờ các con sẽ biết được một thứ tình yêu tốt đẹp hơn hết các tình yêu.
Và bỗng nhiên bà Vũ cảm thấy một cách thấm thía rằng mình quá cô độc vì thiếu mất An-Rê; cái ý nghĩ chắc chắn không bao giờ thấy lại khuôn mặt sống động của thầy xuyên qua bà một niềm âu lo dữ dội. Bà nhắm mắt và chịu đựng cực hình ấy. Đoạn, một lát sau bà cảm thấy Tố Lan cầm tay bà và áp đôi má nóng hổi của nàng.
Đôi mắt vẫn nhắm, bà Vũ còn nói:
- Chính người đàn bà phải bí mật lèo lái công việc. Phải, người đàn bà phải điều khiển tất cả một cách kín đáo, vì sự sống trông cậy vào người đàn bà, và chỉ người đàn bà thôi. Mẹ nói trước cho con biết, trong việc xây dựng hạnh phúc cho gia đình con, con trai mẹ sẽ không giúp được gì đâu.
Khi bà Vũ mở mắt ra, Tố Lan đã biến mất.
Chiều hôm ấy, khi Giang thay áo cho bà Vũ, bà đã thâm trầm im lặng, khiến chị không dám ăn nói huyên thuyên như thường lệ.
- Giang!
- Dạ.
Giang nhìn vào gương qua đầu bà Vũ. Chị chải làn tóc dài óng mượt của bà, chỉ mới bắt đầu bạc một ít ven thái dương.
- Giang này, bà có một việc cần giao cho chị.
- Dạ vâng.
- Khoảng một tháng nữa cậu hai sẽ về.
- Thưa bà con biết, chúng con ai nấy đều biết cả rồi ạ.
- Công việc như thế này. Mỗi tối khi chị giúp bà ở đây xong, chị hãy đến giúp cho mợ hai những gì chị đã quen giúp bà.
Giang mỉm cưới trong gương, nhưng bà Vũ không cười đáp lại. Bà nói tiếp mà không nhìn vào mắt chị ở:
- Chị đừng quên những gì bà đã làm nhé! – tắm bằng nước thơm này, phải chăm tóc thất khiếu của mợ ấy, phải lấy dầu chải tóc cho láng và xức nước hoa thơm.
- Ồ thưa bà! Con biết lắm.
Giang nói một cách nhiệt thành và tín cẩn. Rồi chị ngừng lại, cầm chiếc bàn chải trong tay:
- Nhưng nếu mợ không cho thì sao? Mợ ấy không quý trọng sắc đẹp của mình.
- Mợ ấy sẽ không ngăn cản chị đâu. Tội nghiệp! Mợ ấy cần được giúp đỡ như tất cả mọi người đàn bà. Bây giờ mợ ấy đã biết điều đó rồi.
- Xin vâng ạ.