Chương 13
Thế trở về nhà ngày mồng năm tháng chín âm lịch. Một điện tín đánh đến trong thành báo tin anh trở về. Người ta cho mang bức điện tín đến nhà họ Vũ. Ông Vũ đích thân trao lại cho bà. Thường ông ít đến nhà bà, nên khi nom thấy ông, bà liền hiểu chắc có chuyện quan trọng.
Ông trao mảnh giấy cho bà và hể hả cười:
- Thằng hai sắp về.
Bà cầm lấy bức điện tín, đọc và lật qua lật lại trong tay. Đây là lần đầu tiên bà thấy một bức điện tín. Bà biết, vì một hôm nọ An-Rê đã giải nghĩa cho bà nghe không phải bức thư được thổi đi trên các đường dây như bà tưởng… Người ta cũng không đọc đến chữ. Những dấu hiệu được đánh lên máy, truyền đi các tin tức.
Bà Vũ nhận xét:
- Giống như tiếng trống bọn mọi đánh trong rừng.
- Nhiều công trình thực hiện được chỉ nhờ vào sự tinh luyện những hình thức man rợ, thầy đã nói.
Bà nhớ lại những lời ấy trong khi suy nghĩ về bức điện tín.
Bà nói lớn:
- Chúng ta phải sửa soạn một bữa tiệc mừng.
- Tôi sẽ mời tất cả các bạn bè của tôi. Ông Vũ phụ họa.
- Chúng ta cũng phải tổ chức thêm một bữa tiệc phụ thiết đãi những người làm công và các tá điền.
- Vâng, phải thế! Ông bệ vệ đáp.
Bà Vũ nhìn trộm ông. Bà thấy ông trở nên như trước. Lài đã làm ông tin trở lại vào giá trị riêng của mình. Ông cảm thấy khổ sở vì bị vợ ruồng rẫy. Ông cũng không thành công đối với Thu Minh, và hai sự thất bại ấy đã làm cho ông đau khổ. Ông thuộc hạng người luôn luôn cần cảm thấy mình thành công bên cạnh vợ. Bà Vũ biết rõ điều đó, trong bao năm bà đã tự đặt cho mình bổn phận phải cống hiến cho cái thành công ấy. Nhưng Thu Minh trẻ trung, vô tội đã không hiểu điều đó. Lài khéo giả vờ, cô ta chân thành mưu cầu cơm áo cho mình. Từ đáy lòng bà, bà Vũ cảm thấy một sự thương xót pha lẫn khinh khi và dửng dưng. Tuy nhiên, vì thế bà lấy làm xấu hổ. Xưa kia bà cho điều đó thuộc bản tính con người.
Một hôm, bà đã nói với An-Rê:
- Nếu tôi công nhận quan niệm của thầy về tội lỗi – tư tưởng thầm kín, ước vọng che giấu – thì tôi không phải là người sạch tội. Tôi có thể đạt đến sự đứng đắn bên ngoài, nhưng ai có thể làm chủ được lòng mình?
- Một ít người có thể đạt đến đó, và bà thuộc trong số những người ấy, thầy đã đáp.
Nếu bà muốn tiếp tục cảm thấy mình gần An-Rê thì bà phải đạt đến cái chiều cao nơi mà thầy sống, vì thầy sẽ không hạ thấp xuống ngang bà.
Bà nói với ông một cách nhẫn nại:
- Ý mình thế nào thì trong nhà phải làm theo như vậy.
Ông nghiêng mình về phía trước, tay chống lên hai đầu gối mập mạp. Ông mỉm cười và thân mật nói:
- Có lẽ mình không biết rằng, thằng Thế là đứa con tôi thích nhất sao? Bởi vậy, lúc nào tôi cũng bực mình con vợ nó tính tình cáu kỉnh. Lẽ ra Thế phải lấy một người vợ dịu dàng và biết đường xử sự kia.
Không phải lúc nào bà Vũ cũng có thể che giấu tính chua chát của mình:
- Đối với Thế thì mình lầm rồi. Bà nói, và giọng nói của bà vang bên tai ông lanh lảnh và chua chát. Thằng Thế thông minh, Tố Lan cũng thế. Càng lâu tôi càng có cảm tưởng tốt đẹp về cô ấy hơn.
Ông Vũ có vẻ sợ hãi như mỗi khi đề cập đến những chuyện về trí khôn.
Ông đành rút lui:
- Tốt, tốt, ông nói với cái giọng nói thường ngày. Vậy mình sắp đặt tất cả chứ? Hay là tôi?
- Tôi sẽ cho sắp đặt mọi việc ở nhà, còn mình lo việc mời khách và sắm rượu.
Hai người chào nhau, ông Vũ ra về. Khi ông đi rồi, bà cảm thấy rõ ràng hai người chỉ đã kết hợp với nhau trên phương diện nhục thể. Bà ghê tởm ông, tuy nhiên, hai người đã chẳng làm tròn cái bổn phận mà bà giảng cho Tố Lan là gì? Hai người đã giữ cho gia đình được tồn tại, họ đã làm thỏa mãn đòi hỏi của giống nòi và khi nghĩa vụ chu toàn, họ lấy lại tự do của mình. Bây giờ và thấy rằng nếu An-Rê đã dạy cho bà khám phá ra cái di vật của nhân vị, thì Lài đã làm cho ông Vũ như vậy. Không có đoạn dây nào đứt, ngôi nhà vẫn tiếp tục như trước và địa vị của hai người không có gì thay đổi. Bà nghiệm thấy việc đem Lài về đây là khôn ngoan. Ngôi nhà này đủ rộng rãi cho tất cả gia đình, kể cả các phần tử hèn mọn nhất. Không ai trong nhà phạm vào cái tội có con hoang cả. Con cái của Lài cũng có chỗ của chúng trong trật tự loài người.
Bà càng chăm lo bổn phận thì sự bình an càng đến với bà. Bà không còn một giờ phút nào của riêng bà. Bà phải cho gọi người đầu bếp, viên quản lý, người đốc công, rồi đến các tỳ nữ và các chị thợ may. Phải xem xét áo quần lũ trẻ, nếu cần, phải may áo quần mới. Dân, cậu con út bà, đã rời đồng quê trở về nhà. Bà nói với viên quản lý:
- Đã đến lúc cậu út phải rời bỏ nhà quê trở về nhà. Mọi việc trong gia đình đều đã xếp đặt xong xuôi.
Viên quản lý tươi cười nói:
- Thưa bà, cậu ấy sẽ là người kế vị bà điều khiển đất ruộng. Cậu cả rất thành thạo công việc ở các thương điếm, nhưng cậu út mới thực là người của đất ruộng.
Đã từ lâu, bà Vũ không gặp mặt cậu con út của bà. Bà tự hỏi không biết cậu ra sao. Bà luôn luôn nghĩ rằng, người con trai trong những năm trở thành người lớn, đều giống nhau. Chúng chỉ cần ăn và học, sống nhiều với thiên nhiên, phải xa lánh những nơi bài bạc, những chỗ chơi bời và những cuộc cãi lộn trong gia đình. Chính vì lý do đó mà bà để Dân ở thôn quê. Bây giờ cậu phải trở về nhà để bà có thể xem xét các khả năng của cậu.
Bà bảo Giang:
- Chị hãy dọn hai gian phòng nhỏ trong nhà cậu cả, mấy phòng ấy đầy thùng két và các đồ vật hư hỏng. Phải dẹp đồ đạc cho cậu Dân ở, các phòng ấy sẽ thuộc về cậu ta cho đến ngày cậu thành hôn.
Theo tục lệ, Dân phải ở gần cha cậu. Nhưng bà Vũ không muốn thế. Bà cũng không muốn gần bên bà cậu con trai hăng hái, khỏe mạnh, đương dậy thì. Lăng và Mai sẽ cư xử nhã nhặn với cậu, và lũ trẻ sẽ vui đùa với chú chúng.
Như thế, tất cả đã sẵn sàng. Sau rốt, bà Vũ cho gọi Tố Lan đến. Hôm ấy chính là ngày Thế trở về. Có lẽ Thế sẽ về khoảng vào xế trưa, nhưng không ai có thể biết đúng giờ nào, vì anh phải đi tàu thủy. Đáng tiếc, chiếc xe hơi không thể đi đón chàng, vì đường hẹp và vì những bánh xe to lăn qua trên đất các người nhà quê thì họ sẽ kêu vang trời. Vì vậy, chiếc xe hơi nằm trong cái nhà xe cạnh cổng, làm cho nhiều người ngạc nhiên và thán phục, nhưng ít ích lợi. Tuy nhiên, nếu không có nó, ông Vũ sẽ cho là thoái hóa, cổ hủ, và cũng là một điều phấn khởi cho Thế, vì ngoài xã hội, chàng có thể hãnh diện nói:"chiếc xe hơi của cha tôi…"
Tố Lan đứng trước mặt bà Vũ, rất nhu mì và có phần sợ sệt. Nàng mặc chiếc áo mới màu đỏ tươi, ăn hợp với sắc da tái nhợt và đôi môi hồng thắm của nàng. Bà Vũ công nhận lối cắt khít khao, chiều dài vừa vặn và hai tay hơi vắn vì Tố Lan có đôi tay tuyệt đẹp. Bà Vũ bảo Giang mở hộp nữ trang, chọn một chiếc nhẫn vàng, nạm hồng ngọc. Bà mang vào tay cho Tố Lan và nàng nâng bàn tay ấy lên ngắm nghía.
- Thưa mẹ, thường thì con không ưa nhẫn, nhưng cái nhẫn này làm con thích.
- Nó hợp với con lắm, và cái gì hợp thì nó làm cho người đàn bà càng đẹp thêm ra.
Tố Lan đã gội tóc, nhưng không chải đầu, và tóc nàng xõa xuống vai như tơ mịn. Bà Vũ không thích những người đàn bà trẻ để tóc hoàn toàn theo lối mới. Nếu Mai áp dụng theo, bà sẽ phản đối ngay. Nhưng hôm nay bà nhận thấy làn tóc dịu dàng ấy vừa vặn bao quanh khuôn mặt Tố Lan một cách đẹp đẽ, nên bà không nói gì. Phải thừa nhận tất cả những gì làm cho người đàn bà thêm đẹp.
Bà Vũ bảo nàng:
- Con há miệng ra mẹ xem nào!
Tố Lan vâng lời, và bà mẹ chồng nàng nhìn vào trong. Miệng nàng đỏ và trong sạch như miệng một đứa trẻ, hai hàm răng trắng và tốt lành. Từ miệng ấy xông ra một hơi thở mát và thơm.
Bà Vũ nâng xiêm nàng lên và xem xét mặt trong. Mặt trong trắng như tuyết, thêu rất đẹp và phảng phất thơm.
Bà xoay tay nàng lại và đưa lên ngửi. Hai tay nàng đều thơm tho cũng như tóc nàng, và từ thân thể người thiếu phụ tỏa ra mùi hương thanh nhã của thứ dầu mà xưa kia bà Vũ thường dùng.
Bà Vũ nói với nàng:
- Tốt lắm. Về thể xác con, mẹ không thấy gì đáng nói. Mẹ không thể khám xét tâm hồn của con, điều đó con phải làm thay mẹ. Thể xác quan trọng trước tiên, nhưng tâm hồn sẽ là cái sẽ tồn tại.
Tố Lan trang trọng đáp:
- Những điều mà mẹ đã dạy bảo con, con không quên sót điều gì.
Mọi người chờ đợi Thế từng giây từng phút suốt buổi sáng, trong lúc ấy chàng trở về bằng máy bay. Vì vậy, thay vì ghé vào bến sông, chàng từ trời đáp xuống ở bên ngoài bức tường thấp phía nam thành phố. Ở tỉnh lỵ, khi vị chỉ huy trưởng quân đội nghe tin một người họ Vũ trở về nhà, ông đã sai viên phi công riêng của mình lái máy bay chính phủ đi đón, vì uy tín của nhà họ Vũ rất lớn ở tỉnh này.
Khi hạ người khách quý xuống trường bay, viên phi công lo âu vì không có người nào đến đón cả. Nhưng Thế mỉm cười nói:
- Đây là quê tôi, tôi biết đường rồi.
Viên phi công lại bay lên trời, và Thế lẳng lặng đi về nhà. Ai cũng nhìn chàng chòng chọc, họ chào chàng, hỏi chàng về bằng cách nào, và mọi người đều cười rồi nín lặng vì ngạc nhiên khi nghe chàng đáp:
- Tôi về bằng máy bay.
Lũ trẻ và những người đi chơi phiếm, chạy trước để báo tin cho nhà họ Vũ biết cậu hai đã về. Nhưng Thế đi nhanh nên theo kịp họ. Bà Vũ và Tố Lan vừa kịp nghe vợ người gác cổng thở hổn hển reo to tin ấy, thì Thế đã hiện ra thực sự. Lẽ ra, chàng phải trình diện với cha trước, nhưng chắc Lãng đã báo trước cho chàng biết câu chuyện về cha chàng, nên chàng không muốn chào một người đàn bà lạ mặt trước mẹ mình. Vì vậy, chàng đi thẳng đến nhà bà Vũ. Chàng ngẩn người ra khi thấy Tố Lan ở cạnh bà Vũ.
Chàng hơi lúng túng, vì theo cổ tục, chàng không được chào vợ trước mẹ. Chàng ngạc nhiên thấy Tố Lan duyên dáng lui ra để cho chàng được tự do.
- Kìa con. Con đã về!
Đó là lời bà Vũ tiếp đón chàng. Bà đưa tay, sờ nắm tay và vai con theo kiểu các bà mẹ. Bà nói:
- Con có gầy hơn, nhưng hùng dũng hơn. Bà nhìn khuôn mặt rám nắng của con và tiếp: Con cứng cáp và khỏe mạnh hơn.
Thế nói:
- Con khỏe mạnh lắm, nhưng bận việc quá! Bận chết đi được! còn mẹ, mẹ có vẻ khỏe mạnh hơn khi con ra đi nhiều.
Hai mẹ con còn nói với nhau đôi lời nữa, và Tố Lan vẫn đứng đợi, Thế ngạc nhiên về sự kiên nhẫn ấy, vì thường nàng thiếu kiên nhẫn. Chàng còn ngạc nhiên hơn khi mẹ chàng lùi bước, nắm tay Tố Lan kéo nàng đến và nói:
- Vợ con rất tốt và rất vâng lời; nó cố gắng nhiều và đã thành công.
Không có gì làm cho Thế sung sướng hơn lời khen ngợi ấy của mẹ. Cũng như con trai của các bà mẹ cương nghị, anh cần đến sự thừa nhận của mẹ anh. Trước đây, bà Vũ không nói điều gì âu yếm về Tố Lan, và đó là một trong các nguyên nhân khiến Thế hiềm khích vợ. Bà hiểu điều ấy khi thấy vẻ sung sướng biểu lộ trong nụ cười rạng rỡ, trong đôi mắt long lanh, trên khuôn mặt tươi đẹp của con bà. Thế nói với Tố Lan vài lời qua loa như thường lệ khi có mặt kẻ bề trên:
- À, em… mạnh khỏe không?
- Cám ơn anh, em khỏe mạnh luôn … còn anh thế nào?
Miệng họ chỉ nói ngần ấy, nhưng nét nhìn họ nói nhiều hơn. Tố Lan ngước mắt nhìn Thế. Chưa bao giờ chàng thấy nàng đẹp đến thế. Chiếc cổ áo bằng nỉ đỏ làm nổi bật nước da ngà của nàng.
Chàng nhìn mẹ, ấp úng và mặt ửng hồng e thẹn:
- Thưa mẹ, con xin cám ơn mẹ nhiều, mẹ chịu khó chỉ bảo vợ con… đã chịu khó…
Bà Vũ hiểu, bà nói:
- Con ạ, bây giờ con có thể tự hào: con đã khéo chọn lựa.
Khi thấy hai giọt lệ long lanh trên đôi mắt Tố Lan, một niềm yêu thương từ trước đến nay chưa bao giờ chàng biết đến, đã tràn ngập toàn thân chàng. Vì người thanh niên thiếu kinh nghiệm, và mặc dầu họ can đảm, sự tán đồng của các bậc lão thành vẫn cần thiết biết bao!
"Hãy dịu dàng với bọn trẻ, vì chúng đâu có xin được sinh ra" một hôm nọ, An-Rê đã nói với bà như vậy.
Bà còn nhớ rất rõ, vì hôm ấy Phan đi học trễ nên bà đã rầy la chàng.
Bà đã trả lời:
- Tôi cũng vậy, tôi đâu có được sinh ra.
An-Rê đã nhìn bà bằng đôi mắt bao dung và sâu sắc.
- Thưa bà, chính vì bà đã đau khổ, nên bà không nên làm người khác đau khổ. Chỉ những người nhỏ mọn mới báo thù vì sự đau khổ của mình. Còn bà, bà cao hơn thế.
Bà lặng thinh, nuốt giận lời nhận xét ấy. Thầy nói tiếp, từ bà Vũ chuyển sang nhân loại:
- Và sự đau khổ có ý nghĩa gì (thấy nói, vẻ nghĩ ngợi) nếu nó không dạy chúng ta, những người can trường, phải tranh đau khổ cho kẻ khác. Người ta tỏ cho chúng ta biết đau khổ là gì. Người ta cho chúng ta nếm sự cay đắng của nó để chúng ta ước ao đuổi nó ra khỏi thế gian này. Không thế, trần gian này sẽ là địa ngục.
Khi nhớ lại những lời ấy, bà cảm thấy tha thiết được tạo niềm vui cho đôi trẻ. Bà cầm lấy tay Tố Lan đặt vào tay Thế, kết hợp hai người lại với nhau.
Bà Vũ dịu dàng nói:
- Con ạ, bổn phận của con đối với mẹ đã hoàn tất. Con hãy đưa Tố Lan về bên con và ở một mình với nó một lát, rồi sau đó, con hãy đến thăm cha con.
Tay cầm tay, họ dắt nhau đi ra. Bà nhìn theo, rồi ngồi xuống mỉm cười và cầm cái điếu thuốc nhỏ hút một lúc.
Những ngày tiếp đấy, người ta sống giữa một cảnh tưng bừng nhộn nhịp của các buổi lễ trong gia đình. Bà con xa gần ai cũng muốn gặp Thế, và nói chuyện cùng chàng.
Họ hỏi ý kiến chàng vê cuộc chiến tranh mới xảy ra, về việc chính phủ di chuyển vào nội địa, về giá gạo, về hậu quả của mọi sự rối ren ấy. Người ta muốn biết người da trắng đánh giúp cho bọn người lùn miền Đông Hải hay là chống lại chúng. Không ai nghĩ có thể bại trận. Câu hỏi duy nhất được nêu ra là: sẽ có một cuộc kháng chiến công khai bằng vũ khí hay một sự kháng cự bí mật với sự giúp đỡ của thời gian? Vì còn trẻ tuổi nên Thế nghiêm về kháng chiến công khai bằng vũ khí, còn ông Vũ thì vì không biết gì nên hùa theo ý kiến con.
Bà Vũ ngồi hút cái điếu nhỏ, lắng nghe, bà không nói gì trừ ra để bảo lũ đầy tớ bồng một em nhỏ đi nơi khác nếu cần, hoặc bảo một con ở gái rót trà nhẹ tay hơn một chút, và những việc tương tự. Nhưng bà tin chắc rằng chỉ có một cuộc kháng cự bí mật mới có thể với thời gian thắng quân thù này cũng như bao quân thù khác. Bà không bằng lòng khi người ta để cho người ngoại quốc đến giúp đỡ. Nào có ai trên đời này đến giúp đỡ cho một người khác không cùng huyết thống với mình, nếu không phải là để đòi trả công thật hậu? Ngoài vòng thân thuộc, cho mà không nhận là một điều vượt quá giới hạn sự công bình.
Nhưng bà Vũ làm thinh. Ở đây bà chỉ là một người đàn bà, mà là người được kính trọng nhất dưới mái nhà này. Đã lâu, cùng với An-Rê, trong sự tự do này mà chỉ trước mặt thầy bà mới nhận thấy, cả hai người đã tranh luận về bản tính con người.
Bà đã nói:
- Thầy tin ở Chúa, còn tôi, tôi tin ở sự công chính. Thầy cố gắng đạt đến cùng Chúa, còn tôi, tôi cố gắng đạt đến sự công chính.
Và thầy đã trả lời:
- Cũng giống nhau.
Bây giờ, giữa gia đình bà, bà cảm thấy cô độc lạ lùng. An-Rê không đến và sẽ không bao giờ đến nữa.
Bỗng nhiên bà nói với Thế:
- Những người ngoại quốc ấy, nếu họ đến đây, chúng ta có thể đuổi họ đi được không?
- Chúng ta chỉ có thể nghĩ đến chuyện ấy ngay bây giờ, và sớm chừng nào hay chừng nấy.
- Đó không phải là phương thức của dân tộc ta. Bao giờ chúng ta cũng tính từng hàng trăm năm.
- Hàng trăm năm, Thế đáp, thì chúng ta sẽ có thể đuổi họ ra tất cả.
Một hôm, bà đã hỏi An-Rê:
_- Về phần hồn của con người, có phân biệt gì đến màu da không? Có kế gì đến tục lệ, quốc tịch và các sự tương phản không?
Và thầy đáp:
- Không, chỉ có những giai đoạn phát triển. Ở mọi mức độ, người ta gặp mọi linh hồn thuộc mọi dân tộc.
Thế tại sao lại có chiến tranh giữa các quốc gia và dân tộc?
- Chiến tranh bùng nổ giữa những người hạ cấp. Bà xem, trong mỗi nước, đã mấy người thực tâm đi đánh giặc? họ đánh nhau miễn cưỡng, không chú tâm. Chính những người vô học mới ưa thích chiến tranh.
Bà suy nghĩ đến tất cả những điều ấy trong lúc Thế say sưa nói về các sư đoàn, các xe thiết giáp, các phi cơ oanh tạc và những điều bà cho là vô nghĩa. Hồi lâu, bà quên đi và ngáp lớn, khiến mọi người quay lại. Bà mỉm cười nói:
- Xin lỗi, tôi già cả nên ít thích chuyện chiến tranh.
Bà đứng dậy, Giang vội vàng đến bên bà. Bà mỉm cười khẽ chào mọi người và trở về phòng riêng.
Ngày thứ mười một, Thế lại ra đi. Phi cơ lại đến rước chàng, và lần này người ta tụ tập rất đông, những người trong họ và trong thành đến xem chàng bay đi. Bà Vũ không có trong đó. Tất cả những điều Thế đã kể trong mười ngày qua, làm bà mệt nhiều. Bà tự nghĩ, một thanh niên để cuộc đời qua đi trong những chuyện giặc giã chết chóc như vậy là chuyện điên rồ. Điều ấy không đưa lại giá trị gì cho gia đình và cho bản thân cả. Sức mạnh chiến thắng để trả lời cho địch quân và sự chết là: sinh sản, luôn luôn tăng gia sự sinh sản. Nhưng khi bà nói với con trai bà như thế, thì anh ta đã sốt ruột kêu lên:
- Thưa mẹ, mẹ không hiểu!
Trước tiếng kêu thông thường ấy của tuổi thanh niên, bà đã mỉm cười làm thinh. Bà dịu dàng và bình tĩnh từ giã con. Bà nhận lời cám ơn của Thế và để chàng ra đi. Bà không luyến tiếc sự ra đi ấy. Các buổi nói chuyện của chàng đã làm trong nhà rộn ràng và nhất là làm cho em nhỏ chàng sợ hãi. Dân đã trở về rám nắng và mạnh khỏe như một cậu bé nhà quê. Cậu đã lớn hơn ngày ra đi nhiều. Mẹ cậu không hỏi cậu gì nhiều ngoài những câu hỏi han thường lệ, vì bà muốn đợi cho sự rộn ràng lắng xuống, và bà có thể tìm hiểu con bà trong yên tĩnh. Nhưng bà nhận thấy cậu sợ.
Bà ngồi một mình trong nhà bà. Sau khi Thế đã đi rồi, Tố Lan đến gặp bà mẹ chồng. Người thiếu phụ đi vào và quỳ bên bà Vũ, gục đầu lên gối bà. Bà Vũ cảm thấy dòng lệ nóng của nàng thấm ướt lần áo xa tanh của mình.
Bà dịu dàng hỏi:
- Sao con khóc?
Tố Lan thì thầm:
- Chúng con đã được hạnh phúc.
- Vậy là những giọt nước mắt tốt đẹp…
Không nói thêm gì, bà dịu dàng vuốt ve đầu nàng dâu trẻ. Một lát sau, Tố Lan đứng dậy lau nước mắt, mỉm cười và lui ra.
Nếu người ta biết trước sự chết thì làm sao có thể chịu đựng nổi? Cũng trong giờ ấy, cả nhà đang vui mừng yến tiệc, lại bị rơi vào một cái tang hết sức xót xa. Sáng hôm ấy Thế lên phi cơ rất sớm. Non nửa giờ sau, lúc mặt trời mọc, viên quản lý hấp tấp chạy đến cổng nhà họ Vũ. Anh đi vào, theo sau có tất cả các tá điền và những dân quê thuộc nhà họ Vũ. Họ than khóc xen lẫn tiếng gọi tên bà, khiến bà đoán ra ngay.
Bà đứng dậy bước ra khỏi phòng và gặp mọi người đang kéo nhau đến. Ông Vũ đi đầu, hai hàng lệ chảy tràn xuống má. Chính Lài cũng theo sau và những em bé mồ côi ở chùa, người đàn bà già, những đứa tớ trai, những người qua đường, những người láng giềng và một số người đi theo ùa vào các cửa bỏ ngỏ.
- Con trai chúng ta…
Ông Vũ không thể nói tiếp.
Viên quản lý nói thay ông:
- Chúng tôi thấy một đám lửa trên trời như một cơn lốc, rơi nhào xuống đất trên cánh đồng xa tít. Chúng tôi chạy đến để xem cái gì. Than ôi! Thưa bà, vài sợ dây sắt, một bộ máy, những mảnh vụ, những vật kỳ lạ và thế là hết. không còn một cái xác nào cả.
Câu nói ấy đâm vào lòng bà Vũ, nhưng bà đã chờ đợi sẵn.
- Không còn gì cả, dù để chôn cất cũng không! Ông Vũ thều thào.
Ông nhìn vợ, nói như điên dại:
- Tại sao con chúng ta mới cách đây một giờ, đang sống, bây giờ lại không còn nữa!
Bà Vũ đau buồn cho Thế, nhưng ý nghĩ đầu tiên của bà hướng về Tố Lan. Bà nói với ông:
- Bây giờ, vợ nó là người mà chúng ta phải nghĩ đến ngay.
- Phải, phải…
Mọi người tán đồng:
- Có thể cô ấy có thai, người ta nói. Phúc đức quá! Hai người đã chung sống với nhau được mười ngày. Thưa bà, thưa ông, nếu có được một mụn con, thì ông bà cũng đỡ khổ…
Nước mắt ông Vũ ráo dần trước niềm hy vọng ấy. Ông nó với bà:
- Bà hãy đi tìm nó đi. Bà hãy an ủi nó, chúng tôi phó thác cho bà đấy.
Bà Vũ một mình tiến về ngôi nhà của Thế, đám đông dần đần tản mác đi. Ông Vũ cùng Lài trở về nhà riêng và đóng cổng lại. Anh quản lý bảo các người nhà quê trở về đồng ruộng; còn anh, anh đợi lệnh bà Vũ. Anh ngồi trong nhà người gác cổng để đợi bà cho gọi.
Các em bé trở về chùa, ở đó, vị sư già châm hương và lâm râm cầu nguyện cho người thanh niên vừa chết:
"Mấy hôm nay các sự việc xẩy đến quá mau lẹ đối với chúng tôi. Không có thì giờ cầu nguyện cho những người đang hấp hối. Họ sống và không sống nữa, đó là tất cả những điều chúng tôi biết về họ. Hỡi các chư vị là đấng trên các tầng trời, xin hãy tìm linh hồn cậu Thế. Xin hãy tìm cậu, đưa cậu về với những người biết cậu và sẽ an ủi cậu. Rồi khi cậu đầu thai lại, xin cho cậu được sinh ra một lần nữa trong gia đình này".
Trong gian nhà, nơi mà Tố Lan đã hưởng biết bao hạnh phúc, nàng lả người, trán úp và hai bàn tay bà Vũ. Cả hai đều lặng thinh. Biết nói gì? Cả hai đang bị ràng buộc lẫn nhau trong tình yêu và sầu khổ. Bà Vũ thiết tha được thổ lộ với Tố Lan về chính mình, về sự mình chiêm ngưỡng An-Rê, một người đã chết. Nhưng bây giờ bà phải làm thinh và sẽ làm thinh luôn mãi. Nỗi sầu khổ của Tố Lan vượt quá sự tưởng tượng của bà. Bà đã chôn cất xác An-Rê, còn Thế, thì không còn gì cả. Gió đã chiếm lấy tro tươi của chàng tung vãi khắp mặt đất. Gió đã chôn chàng ở chỗ nó muốn. Và Thế còn lưu lại gì cho những người còn sống? Chính bà, mẹ chàng, bà còn nhớ ngày sinh chàng và các giai đoạn phát triển từ đứa hài nhi, qua cậu bé con, rồi đến tuổi trưởng thành. Bà còn nhớ giọng nói chàng khi tranh luận, khi quyết đoán, nhớ khuôn mặt rất đẹp và đầy hăng hái, tin tưởng. Bây giờ bà biết chàng đã chết. Giữa bà và con bà không có gì phát hiện ra ngoài, chỉ còn lại của chàng những gì bà giữ trong chính thể xác bà.
Nhưng chàng còn để lại gì cho Tố Lan? Trong những ngày vừa qua, có gì giữa hai thể xác không? Bây giờ, người thiếu phụ có thể bám víu vào cái thai nhi chăng? Còn sớm quá, chưa hỏi được. Bà Vũ vẫn lặng thinh, không nhúc nhích, và hơi ấm của người bà chuyển sang người thiếu phụ phủ phục lên bà.
Tố Lan là người đầu tiên cử động trước, nàng đứng dậy lau mắt và thôi khóc. Nàng nói:
- Thưa mẹ, con sẽ nhớ mãi mãi, vì trong mười ngày nay chúng con không cãi nhau lấy một tiếng.
Bà Vũ hỏi nàng:
- Bây giờ con có cảm thấy đủ sức sống một mình không?
Bà rất thán phục Tố Lan và tình yêu của bà đối với nàng tăng lên tột bậc.
- Vâng có thể được, Tố Lan nói. Khi nào con cảm thấy cô độc, con sẽ đến hỏi mẹ con phải làm gì.
- Mẹ sẽ luôn luôn đón tiếp con.
Bà Vũ đứng dậy, bằng lòng để Tố Lan đưa tay đỡ bà. Bàn tay ấy nóng ran, nhưng mạnh mẽ và vững chắc.
Bà nhắc lại một lần nữa:
- Cửa phòng mẹ sẽ mở để đón con đêm cũng như ngày.
- Con sẽ không quên.
Bà Vũ đi ra, và nghe tiếng cửa phòng Tố Lan đóng lại. Bà dừng bước và khẽ quay mình. Nàng sẽ không đóng cửa để quyên sinh chứ? Không đâu, bà tự bảo. Tính tình Tố Lan đâu có thế. Có lẽ nàng ngồi yên hoặc nằm dài không ngủ, và một mình, nàng tìm cách trở về với sự sống. Nếu Thế còn sống, có lẽ họ cãi cọ nhau nữa và rất nhiều lần. Cái ân phúc của mười ngày ấy sẽ không kéo dài. Họ bằng nhau quá, họ yêu nhau quá dữ dội. Người nào cũng muốn ngự trị người kia và làm cho người ấy mất tự do. Bây giờ, họ sẽ sống bình an muôn đời.
Mặc dầu không còn thi hài, việc tang ma trong nhà họ Vũ không vì thế mà không cử hành đầy đủ theo lệ tục. Người ta sắm một cỗ quan tài, và khâm liệm những đồ vặt mà Thế yêu thích nhất. Ngày giờ mai táng cũng như các nghi thức để làm vinh dự cho người chết đều do thầy bói trong thành quyết định. Tang lễ cử hành theo ngày đã ấn định. Linh cữu của Thế được chôn ở nghĩa địa gia đình, trên đất ông bà. Trong điện thờ tổ tiên, linh vị của chàng được đặt xen vào giữa các linh vị của những người quá vàng đã đã mấy trăm năm trước.
Trong lúc mọi người đang sửa soạn, thì bà Vũ mặc cho mối buồn khổ bộc lộ khắp nơi. Bà cũng khóc, và trong đau khổ, bà chịu nhận sự giúp đỡ của Khương. Giữa hai gia đình, sự đi lại đã hiếm hoi. Bà Vũ nhận thấy điều đó từ lâu, nhưng bà không còn mong muốn cải thiện. Niềm hứng thú riêng của bà, mối hoài niệm thường xuyên của bà về An-Rê đã khiến bà xa bạn. Vả lại, nhớ đến cái đêm sinh nở của bà Khương, bà vẫn còn ghê tởm. Nhưng, mất một đứa con trai là một việc quá đau khổ, nên không thể để tồn tại một mối bất hòa nào. Hai bà gặp lại nhau, tuy nhiên không được thân mật như xưa. Chính ông Khương cũng đi đưa đám. Không có cái chết này, bà Khương sẽ không tới chân thành như thế. Nhưng bà ta đã quên tất cả và nhiệt thành như bao giờ. Bà vào phòng bà Vũ và khóc lên rõ to:
- Chao ôi! Con cái chúng ta đã cùng lớn lên với nhau! Tôi xem như tôi đã mất đứa con trai vậy!
Bà Vũ không ngờ gì điều ấy. Bà đón tiếp bạn. Hai người ngồi với nhau như xưa kia, bà Khương nài nỉ để được mặc tang phục trong đoàn người đưa đám.
Tuy thế, tình bạn của họ đã hết. Bà Vũ thấy rõ, mặc dầu bà Khương vẫn biết ơn bà, nhưng vì bà đã đi vào quá sâu đời bà ấy, nên bà ấy sẽ không bao giờ tha thứ bà trọn vẹn.
Bà ấy đã bộc lộ lòng biết ơn một cách khoan dung:
- Chị ơi! Nếu chị không đến chiều hôm ấy thì tôi đã chết rồi. Sự sống của tôi là của chị.
Nhưng ngay cả trong những lời nói ấy, nét mặt của bà Khương vẫn tỏ ra ít nhiều dè dặt. Vì mặc dầu bà biết ơn bà Vũ đã cứu sống mình, nhưng lòng biết ơn ấy đã bị sút giảm, vì bà Vũ có mặt vào giờ bà kiệt sức nhất. Do đó, bà giữ một nỗi ghen ghét ngấm ngầm. Thấy vậy, bà Vũ kín đáo tránh xa bạn. Bà Vũ nhận thấy, đối với cái chết của Thế, mặc dầu bà Khương buồn một cách chân thành, bà hẳn không đau xót vì gia đình họ Vũ mất một đứa con trai. Trong cái tang này, bà Khương giữ một vẻ cao cách. Xưa kia, có lẽ điều ấy sẽ làm bà Vũ tức giận, nhưng bây giờ bà hiểu mà không trách sự yếu đuối của bà Khương.
Bà đã từng hỏi An-Rê.
- Chúng ta có dung thứ sự ngu dại và ác tâm của những người thấp kém không?
- Phải dung thứ chứ, vì phá hoại họ tức là phá hoại ta. Không ai trong chúng ta có đủ lòng nhân từ và đại độ để tránh khỏi phá hoại một phần nào chính mình, khi ta phá hoại cho dù chỉ một người mà thôi.
- Thế thì ta chịu đựng họ sao được? Bà đã hỏi và cảm thấy đau nhói ở tim khi nhớ đứa con của một tỳ nữ đã sinh ra trong nhà, và người ta đã hủy bỏ nó đi dưới sự đồng ý của bà. Đó là một đứa con gái dị hình, một quái thai. Giang đã đến báo tin bằng cách giơ tay, ngón tay thẳng ra, và bà đã gật đầu chấp nhận.
An-Rê đã trả lời câu hỏi của bà.
- Không ai trong chúng ta có quyền hủy sự sống của một con người, cho dù là hèn hạ nhất.
Bà không có can đảm nói với thầy về đứa trẻ ấy. Bây giờ, ngồi trong chiếc cáng, giữa những người đi đưa đám con trai bà, bà hối tiếc đã không tỏ niềm tâm sự ấy với An-Rê. Sức nặng của cái bào thai đã chết, đè lên lương tâm bà vào lúc con trai bà mất. Một tư tưởng dị đoan xuyên ngang qua bà như một lưỡi dao găm, phải chăng là quả báo? Rồi bà xua đuổi tư tưởng ấy đi. Bà không tin những mối liên hệ ấy. Ngoài linh hồn ra, mọi sự đều là tình cờ. Các liên quan nhân quả chỉ có trong linh hồn mà thôi. Một đứa bé đã chết có thể gây kết quả gì cho bà? Không gì cả, bà tự nghĩ, vì trong lúc đó bà không hiểu điều bà làm. Nhưng bây giờ bà hiểu, và vì vậy, mặc dù bà bạn già của bà tiểu tâm, bà bẫn không cảm thấy thù ghét.
"Nhưng tôi cũng không thể buộc lòng phải yêu bà ta" bà tự nghĩ một cách bất mãn.
Sự bất mãn ấy lại nhắc bà nhớ đến An-Rê, và một cuộc tranh luận đã xảy ra giữa hai người. Thầy đọc rất chậm vài câu trong quyển Thánh kinh của thầy:
"Con hãy yêu người khác như yêu chính mình con vậy/"
- Yêu! Bà kêu lên. Tiếng ấy mạnh quá!
Bà luôn luôn chỉ trích quyển sách Thánh ấy, có lẽ bà ghen vì thầy đọc nó quá nhiều và,múc ở trong ấy sự khôn ngoan của thầy. Nhưng thầy đã đồng ý!
- Bà nói phải, tiếng yêu không được hợp cho lắm. Nên nói như thế này: Con hãy hiểu người khác như con hiểu chính mình con. Nghĩa là: con hãy hiểu các sự khó khăn, hoàn cảnh của người khác, hãy kiên nhẫn chịu đựng các khuyết điểm của họ, như con chịu đựng các khuyết điểm của con vậy. Đừng đoán xét người khác khi con không đoán xét chính mình con. Thưa bà, đấy là nghĩa của tiếng yêu.
Và thầy đã tiếp tục đọc bằng cái giọng hùng hồn, thâm trầm và dịu dàng, mà bà vẫn nghe mãi âm thanh.
Ngày mai táng, bầu trời xem ra quá đẹp đối với một người chết trẻ như thế. Nước trong veo trong các ao hồ mặt trời chiếu sáng, ấm áp. Chim chóc ca hát líu lo. Ngang qua tấm kính nơi màn cáng, bà Vũ nhìn thấy quang cảnh ấy, nên bà càng buồn khổ hơn. Bà nghĩ đến Tố Lan trong chiếc cáng theo sau. Bà quay nhìn qua tấm kính và tự hỏi không biết Tố Lan có cũng nhìn như vậy không? Nhưng tấm màn buông kín và bà Vũ lại nghĩ đến con trai bà. Sao con bà lại gặp phải cái chết trên không trung? Giữa các đám mây? Anh có biết mình sẽ ra sao không? Bà tin rằng Thế đã say sưa vì tốc độ và tự do ở trên cao. Rồi, chiếc máy bị hỏng… anh quá tin vào máy móc.
Bà đã lo lắng nói với anh trước khi khởi hành:
- Chỉ cái máy tây phương ấy giữ con ở trong không trung, con liệu có thoát khỏi nguy hiểm không?
Anh đã cười sự ngờ nghệch ấy:
- Thưa mẹ, đó là phép ảo thuật.
Phải, anh đã kêu lên như vậy, nhưng trò ảo thuật đã thất bại. Có lẽ anh chỉ được vài giây để cô đọng tất cả những gì đã có trong cuộc sổng của mình. Bà Vũ cảm nhận sự khiếp sợ, cơn điên hoảng của con trai bà, rồi phút kết liễu đời anh; giữa bầu trời bao la, thể xác anh lao xuống đất. Bà gục đầu và đưa hai bàn tay che mắt.
Tang lễ đã tiếp diễn theo tập tục. Trong gia đình đã có nhiều cuộc mai táng, và bà Vũ phải chịu đựng thêm một cuộc mai táng nữa của chính con trai bà. Mùa hè vừa qua, một hôm người ta khiêng linh cữu bà cụ Cố quàn tạm trong chùa, mang ra nghĩa địa của gia đình. Nắp linh cữu là một tấm đá cẩm thạch, cùng một mẫu với nắp linh cữu ông cụ Cố, nhưng nhỏ hơn. Một khoảng đất trống còn lại bên trái mồ ông Cụ, dành cho ông Vũ, và cạnh đó để cho chính bà, còn ở bên kia dành cho Lãng và Mai. Bên kia nữa, người ta đã đào huyệt để mai táng chiếc quan tài trống của Thế. Người ta hạ quan tài xuống, đoạn giết một con gà trống trắng, lấy máu rưới ra mặt đất. Người ta đốt vàng mã, trong đó, có một chiếc phi cơ bằng giấy cũng được hủy ra tro.
Khi làm xong các việc ấy, người ta lấp huyệt lại và cắm những cây cờ bằng giấy trắng trên nấm mồ. Cuộc mai táng đã xong, gia đình ra về, để lại những người khóc mướn đang than vãn kể lể.
Đêm ấy, một mình trong phòng, bà Vũ suy nghĩ về nỗi đau khổ của bà. Khi trở về bà không muốn có ai ở cạnh mình. Bà đoán, có lẽ ông Vũ đi tìm ngay một trò giải trí để tiêu sầu. Còn Tố Lan, nàng sẽ đau khổ cho đến khi vết thương lòng được hàn gắn. Nhưng bà Vũ nằm dài trên giường, nghĩ đến đứa con trai thứ hai và tất cả những đứa con trai có thể do xác thịt bà sinh ra và sẽ không bao giờ được thấy ánh sáng. Bà khóc thương chúng. Bà vô cùng đau xót khi nghĩ có biết bao chỗ trống cho một thế hệ. Khi một người thanh niên chết, có nhiều người chết theo. Bà nguyền rủa những máy móc nguy hiểm của ngoại quốc, giặc giã và những phong tục gây nên cái chết của thanh niên. Bà tự trách đã không giữ tất cả các con trai bà ở nhà để họ sống cuộc sống của họ.
Trên bức màn đen của tâm tư, bà thấy hiển hiện hình bóng to lớn của An-Rê. Một hôm, hai người đã cùng nhau tranh luận về việc học của Phan. Bà đã nói với thầy:
- Nhờ thầy dạy dỗ đứa con thứ ba của tôi, nhưng xin thầy đừng dạy điều gì có thể cướp mất linh hồn nó khỏi chúng tôi.
- Thưa bà, An-Rê đã kêu lên. Nếu bà giam hãm con trai bà, chắc chắn anh ta sẽ thoát khỏi bà, và bà càng cầm giữ anh lại, anh càng trốn thoát!
Bà nói với cái hình ảnh bà đã gợi ra và nổi bật lên rất rõ, trên màn đen của tâm trí bà:
- Thầy lầm, tôi không giam hãm nó; ấy thế mà chính nó lại trốn đi xa hơn hết trong các con trai tôi.
Buổi sáng, bà dậy sớm như mọi khi; ngày vẫn trong suốt như hôm qua; ngày bừng dậy, nhộn nhịp tưng bừng. Miền quê rất đẹp, đến nỗi, mặc dầu rất sầu muộn, bà Vũ vẫn ao ước được ra khỏi những bức tường này. Nhưng biết viện cớ gì để rời khỏi ngôi nhà đang có tang này? Bà đi quanh quẩn trong các gian nhà, tần ngần, nửa muốn đi, nửa muốn ở. Ngôi nhà im lặng, mọi người dậy muộn vì những nổi mệt nhọc của ngày hôm trước. Giang đến hơi trễ, chị ta cũng thế, mặt tái nhợt, mắt đỏ hoe và không còn bép xép như thường lệ. Chị làm việc xong, bà Vũ đuổi chị ra về, rồi bà trở vào thư phòng lấy sách ra đọc.
Từ các cửa sổ mở rộng, không khí tuôn vào, rất êm dịu, đến nỗi bà cảm thấy như có nước hoa trên da thịt mình.
Vào giữa buổi sáng, một tiếng chân làm bà hết mơ mộng; bà ngẩng đầu và nom thấy Dân, cậu con thứ tư của bà ngoài sân.
Cậu chào một cách vụng về, nhưng bà không trách, vì biết cậu đã chào theo lối nhà quê. Bà âu yếm nói:
- Vào đây con.
Bà cầm lấy tay cậu và cảm thấy những ngón tay cứng cáp, trẻ mạnh, chạm vào lồng tay rất êm dịu của bà. Bà ngạc nhiên thấy cậu cũng lớn bằng bà.
- Chà! Con mau lớn thật! bà nói với cậu như là phàn nàn vì việc ấy.
Dân không giống các con trai khác của bà. Tiếng nói cũng như nụ cười không đến với cậu dễ dàng. Nhưng bà thấy cậu có thái độ bình tĩnh, dạn dĩ. Chỉ vì Dân không cố tìm cách làm đẹp lòng ai. Bà buông tay con. Dân đứng trước bà, mình mặc áo vải xanh, chân mang giày nặng, đế bằng nỉ thô. Cậu nói:
- Thưa mẹ, con muốn trở về nông trại. Con không muốn sống ở đây.
Dân có dáng lực lưỡng, tươi tắn, với đôi mắt to, đen, đầu tóc cắt ngắn, rất cứng, hai hàm răng trắng, khiến bà muốn bật cười.
- Con đọc sách đến đâu rồi?
- Thưa mẹ con đã đọc xong Kinh Dịch và học được một phần Tân- Thư rồi.
Ở tuổi Dân, được thế là khá giỏi rồi.
- Nhưng, bây giờ hết chương trình ở Hương trường, con không học thêm nữa sao?
Dân liền đáp:
- Con ghét sách vở lắm.
- Nếu con ghét sách, con cũng sẽ như cha con!
Dân đỏ mặt và cúi nhìn hai chân.
- Không, thưa mẹ, con sẽ không giống ai cả. Nếu mẹ không cho phép con trở về nhà quê, con cũng sẽ trốn đi.
Dân ngước mắt nhìn mẹ, rồi lại cúi xuống. Mặc dầu rất buồn, bà Vũ mỉm cười:
- Có bao giờ mẹ nói với ai trong các con trai mẹ đừng làm điều mình mong ước đâu?
Dân nói:
- Các bức tường này cao quá!
- Phải, chúng cao quá!
- Con muốn đi ngay!
- Mẹ sẽ đi với con.
Dân tỏ vẻ hoài nghi:
- Vậy mẹ sẽ ngủ ở đâu?
- Chiều mẹ sẽ trở về, nhưng mẹ phải đi xem đất đai và chính mẹ phải đến xem chỗ con ở, nói chuyện với thầy giáo dạy con, rồi sau đó mẹ mới an tâm.
Thế rồi Dân đi sửa soạn đồ đạc, bà Vũ truyền đem cáng đến, và không chịu cho Giang đi theo.
Khi Giang trố mắt nhìn bà, bà nói:
- Ở nhà quê, không có chuyện gì xẩy ra đến cho tôi đâu.
Hai người ra đi. Bà ngồi trên cáng còn Dân thì ngồi vắt vẻo trên lưng một con ngựa tơ xám, mà cậu thích nhất. Dọc đường, mọi người đều biết họ là ai, họ đi đâu, và tránh bước đầy cung kính trước sự sang quý của họ.
Khi hai người ra khỏi các bức thành của thị trấn, bà Vũ cảm nhận từ trên cao thấm xuống bà sự yên tĩnh và bát ngát của đồng quê. Ngày hôm ấy, bà gạt mọi sự ra ngoài và nhìn cái vóc dáng lực lưỡng của cậu con út đang tế ngựa trước bà. Dân lên ngựa giỏi, nhưng không có duyên. Cậu ngồi trên yên, chắc chắn như dính liền với con vật. Dân không cảm thấy sợ hãi chút nào, vung cây roi ngựa và hát nghêu ngao. Cậu hài lòng ra mặt. Bà tự hứa ban cho con bà những gì làm nó hạnh phúc. Bà nhận thấy hạnh phúc của chàng trai này cũng như của Lãng, ở trong giới hạn của gia đình.
Hôm ấy, bà Vũ ở lại trong ngôi làng lớn nhất, bà dùng cơm trưa tại nhà viên quản lý và lắng nghe tất cả những người đến hầu chuyện bà. Người này đến cám ơn, người kia đến thỉnh nguyện. Đó là một ngày tốt đẹp. Bà cảm thấy tinh thần sảng khoái vì tính tình chất phác của họ. Họ thông minh, chân thật. Các bà mẹ đem con đến, bà khen da dẻ chúng hồng hào khỏe mạnh. Bà đi thăm đất ruộng làng, xem xét lúa giống. Bà nhìn vào đáy giếng và thấy giếng chưa đủ sâu, cần vét lại. Bà đếm các thúng phân dùng để bón su hào. Bà đến trường nói chuyện với cụ đồ nho. Cụ đồ lấy làm ngạc nhiên và sung sướng được bà đến thăm. Bà cười khi cụ muốn khen Dân chăm học; bà trả lời là bà biết rõ Dân không thích sách vở. Bà xem xét gian phòng Dân ngủ, tại nhà viên quản lý, một gian phòng xinh xắn, tường bằng đất với một chiếc giường rộng và chăn chiếu sạch sẽ. Rồi, trước khi mặt trời lặn, bà từ giã con trai và lên cáng ra về.
Chỉ một lần, bà làm cái việc bà hằng mong ước từ lâu. Trên đồi, bà thấy cây đa cổ thụ mà dưới gốc là mộ phần của An-Rê. Nếu bà dừng lại mà không giải thích, thì việc làm có vẻ kỳ dị ở đồng quê cũng như ở thành phố, và ngay cả ở nhà bà nữa; và bà đi đâu, mọi người đều biết. Không có gì xẩy ra trong nhà họ Vũ có thể giấu kín. Vì vậy bà mạnh dạn nói với ấy người phu cáng:
- Các anh hãy đưa tối đến gần mộ vị giáo sĩ ngoại quốc thầy dạy con trai tôi. Nhân tiện đi qua đây, tôi đến viếng mộ thầy, vì thầy không còn ai thân thích cả.
Họ cáng bà đi không ngạc nhiên, và thầm phục sự lễ độ của bà. Bà xuống khỏi cáng cách xa ngôi mộ một quãng để được đến đây một mình.
Bà đi men theo con đường ruộng nhỏ hẹp, leo lên ngọn đồi và đến dưới bóng cây đại thọ. Gió chiều lay động những chiếc lá nhỏ, và ánh tà dương chiếu qua kẽ lá làm lỗ đỗ đám cỏ dưới bóng cây. Bà Vũ quỳ xuống trước mộ và lạy ba lạy sát đất, trong khi bọn phu cáng đứng rình xa xa. Rồi bà ngồi xuống trên nền đất bao quanh ngôi mộ, khép mắt và hình dung bóng dáng An-Rê. Thầy hiện ra rất chóng, cũng như lúc còn sống, chiếc áo thầy phất phơ quanh chân, gió thổi vào chòm râu. Đôi mắt sáng ngời linh hoạt.
Hơi vui vui, bà Vũ thì thầm: "Bộ râu ấy nó che mặt thầy đi mất. Tôi chưa bao giờ thấy cằm và miệng của thầy".
" Và nữa. thân thể thầy cũng luôn luôn bị che khuất. Chiếc áo chùng thâm phủ kín những đường nét của cái tầm vóc khổng lồ, đôi giày nỉ to tướng, dị dạng, che mất hai bàn chân thầy."
"Hai chân thầy, (bà mỉm cười lẩm nhẩm). Ồ, hai chân thầy làm cho bọn trẻ vui thích làm sao!"
Đúng thế, đôi lần, những khi chiều về, bà đến thăm lũ trẻ mồ côi, chúng kể cho bà nghe, thầy phải làm những cái đế giày to tướng như thế nào. Chúng đưa bàn tay nhỏ xíu, vẽ ra chiều dài với chiều rộng và nói với bà:" như thế này! như thế này!"
Mụ ở già dùng giấy loại và áo rách để cắt đế giày, rồi kiếm nỉ bọc lại. Mụ ấy đã nói với bà rằng:
- Chính tôi, tôi khâu những mũi khó khâu nhất.
Lũ trẻ nói thêm:
- Nhưng tất cả chúng con đều làm giúp.
- Đúng thế, em nào cũng có khâu một vài mũi kim. Ngay những em nhỏ nhất cũng khâu một hay hai mũi trong khi tôi cầm lấy tấm nỉ.
Bà Vũ ngồi như thế một lúc, nghĩ đến thầy, và sau đó bà trở về nhà lòng đầy tràn biết ơn. Trong đời bà, bà may mắn quen biết và yêu thương một người thực sự tốt.
Vài hôm sau, một người thợ khéo ở ngoài phố mang đến cho bà một vật do tay anh ta sáng tạo. Anh đã tạc chân dung An-Rê trên một tấm bạch ngọc.
Bà Vũ ngắm bức chân dung, hơi kinh hoàng.
- Tại sao anh mang đến cho tôi của này?
Bà hỏi, vì bà không sao tin được người ta có thể biết các tình cảm sâu kín nhất của lòng mình như vậy. Và tuy thế, sự khôn ngoan lạ lùng của người vô học là điều quen thuộc đối với bà.
Người đàn ông nói cách chân phác:
- Tôi làm việc vì lòng biết ơn. Một lần, khi tôi bị thất nghiệp, trong nhà tôi có nhiều chuyện buồn phiền, chính ngài đã nuôi chúng tôi, ngài đã chăm nom chúng tôi cho đến khi chúng tôi thoát khỏi cơn tai biến. Tôi đã vẽ chân dung ngài vào lúc ấy, để đừng bao giờ quên ngài. Nhưng hôm nay, nhà tôi bảo tôi:
- Sao chúng ta không đặt tượng này trong ngôi chùa nhà họ Vũ để những em bé mồ côi sống ở đấy nhớ đến ngài như một người cha?
- Đấy, chính vì thế mà tôi mang đến.
Bà Vũ cảm thấy niềm phấn khởi của bà nhụt xuống. Của này không dành để cho bà. Bà đặt tấm bạch ngọc trên bàn. Người đàn ông đã tiện một cái đế bằng gỗ để dựng bức chân dung. Người thợ đã diễn tả đúng nét mặt An-Rê, mặc dầu anh ta có thêm thắt vài chi tiết: đôi mắt giống hình trái hạnh, đôi tay hơi thanh hơn thực thế, thân hình quá mảnh khảnh nhưng dù sao, quả thực là An-Rê!
Bà Vũ hỏi:
- Tôi phải trả anh bao nhiêu?
Người đàn ông nói:
- Tôi xin biếu. Tôi không thể bán.
- Vậy thì tôi nhận cho các trẻ.
Và người đàn ông ra đi. Suốt ngày, bà giữ riêng bức chân dung ấy cho mình, rồi đến chiều bà mang tới chùa. Bọn trẻ đang ăn cơm. Các tượng bụt là những vị canh giữ bức chân dung. Bà Vũ dừng chân ở thềm và thưởng ngoạn cái quanh cảnh trước mắt bà: trên các tượng bụt, trong các chân đèn, những ngọn nến dài, đỏ đang sáng, và khói trầm trên bàn thờ bốc lên nghi ngút. Các tượng bịt to lớn bằng đất sét đang nhìn ngắm lũ trẻ.
Lũ trẻ đã hoàn toàn quen thuộc với chỗ ở. Ban đầu chúng sợ các tượng bụt, nhưng bây giờ chúng không nghĩ đến nữa. Chúng ăn và nói chuyện huyên thiên. Mụ già và vị lão tăng dọn cơm cho chúng, còn những đứa lớn tuổi nhất đút cơm cho các em nhỏ. Tiếng ồn ào nổi lên khi bà Vũ bước vào, bà mỉm cười với cuộc đón tiếp ấy. Thật kỳ cục! Các con đẻ của bà, khi chúng còn nhỏ, bà sợ chạm vào chúng và đôi lúc bà thấy khó chịu khi chúng sờ tay vào bà. Nhưng những em bé này bà không bao giờ ruồng rẫy chúng. Chúng không phải là con bà, cũng không phải là con của An-Rê, nhưng dù sao chúng cũng thuộc về An-Rê vì sự lựa chọn tinh thần, và khi bà ở với thầy. Bà không biết bà sẽ nhận thêm trẻ ngoài nữa hay không. Có thể bà nuôi thêm một vài đứa nữa, nhưng việc giữ nguyên số cũ là chuyện dĩ nhiên.
Bà giơ cao bức chân dung cho lũ trẻ và nói:
- Bà có của này để tặng các con.
Lũ trẻ tránh ra để bà Vũ bước tới, bà đặt tấm bạch ngọc lên bàn thờ, dưới các tượng bụt, và trước cái đỉnh trầm lớn bằng thiết. Từ chỗ ấy, An-Rê nhìn bọn trẻ, còn phần chúng, chúng chiêm ngắm thầy. Ban đầu, mọi người làm thinh, vì các em gái nhỏ chỉ ước ao nhìn ngắm thầy. Đoạn chúng bắt đầu nói chuyện, có những tiếng thở ra, những giọng thì thầm, những tiếng bật cười to.
- Ồ! Đó là cha chúng ta! Ồ! Chính là ngài đó.
Và chúng cứ ngồi nhìn hình ảnh thầy và luyến tiếc thầy. Bà Vũ dịu dàng nói:
- Ngài sẽ mãi mãi ở cạnh các con. Các con có thể nhìn mặt thầy mỗi ngày và buổi tối trước khi đi ngủ.
Rồi bà cho chúng xem phía lưng. Người thợ đã khắc vào đó bốn chữ, và gạch nổi quanh dòng chữ ấy một khung đen. Những chữ ấy là:
"Một người ngoại quốc đáng kính"
Đoạn bà dặt chân dung xuống bàn thờ và từ ấy bức chân dung không xê dịch nữa.
Khi trở về, bà chợt nhớ là đã không gặp Thu Minh trong chùa và tối hôm ấy, bà hỏi Giang:
- Tôi đã cho phép cô hai ở trong chùa với đứa con nhỏ của cô ấy, thế sao tôi không thấy cô ta đâu cả?
Giang đáp:
- Thưa bà, quả cô hai có ở đấy, nhưng cô thường đến chơi với mợ thứ. Hai người đã trở nên bạn hữu, họ an ủi lẫn nhau, vì từ khi cô ba đến – cái cô gái nhà thổ ấy mà – thì cô hai sống như một góa phụ. Ông chủ không khi nào để điếu lại trên bàn.
Tắm xong, bà Vũ không nói gì. Bà im lặng, suy nghĩ trong lúc Giang xức nước hoa cho bà. Trong một gia đình bề thế, những tâm hồn giống nhau gặp nhau, và tự nhiên giữa họ phát sinh những mối dây thân ái. Nếu Thu Minh có thể an ủi được Tố Lan thì càng hay, cũng có thể Tố Lan noi gương nàng, chăm nom lũ trẻ trong chùa, và tìm nguồn an ủi ở đó. Cần phải nghĩ đến việc dạy dỗ lũ trẻ bằng cách này hay cách khác. An-Rê ước mong người ta dạy các em bé biết đọc và biết viết, dạy các em may vá, nấu nướng để chuẩn bị cho chúng cuộc sống của mọi người khắp nơi trên hoàn vũ. Tối hôm ấy, trong khi nằm ngủ, bà phác họa những điều bà sắp làm cho những đứa con gái nhỏ của bà; bà sẽ lập một trường học cho chúng dưới mái nhà của bà. Nhưng bà không bao giờ làm một việc gì mà không suy tính. Các chương trình của bà phải rõ rệt và chuẩn bị từ trước lâu này.