← Quay lại trang sách

Chương IX Tai nạn dây chuyền

Bụng đói như cào, Văn Bình trèo bậc cấp lên hàng hiên nhà trọ. Nhà trọ này cũng giống hàng chục công quán khác được xây cất và tồn tại từ đời Anh thuộc, sơ sài gần như trần trụi. Trời nắng như thiêu đốt, hơn nửa giờ đồng hồ xe hơi, mặc dầu phóng nhanh, cửa mở rộng gió thổi vù vù đã làm thân thể chàng khô nước. Chàng có cảm giác như ngồi bên là nướng bánh. Vì vậy, chàng đói meo, đói muốn hoa mắt, song chàng không thèm ăn bằng thèm uống. Hễ đã thèm uống chàng khó thể chấp nhận món giải khát nào ngoài rượu huýt ky. Khốn nỗi, rượu mạnh là đồ quốc cấm…

Nhưng Tuyết Lê đã lo liệu giùm chàng. Cửa phòng trọ đóng lại, chàng chưa rửa mặt xong nàng đã nhí nhảnh bước vào với chai huýt ky chưa khui.

Trong gian phòng lữ quán khá rộng chỉ có hai người. Tuyết Lê và chàng. Trừ phi chàng là đàn ông hiđờra (xem « Hận vàng Ấn độ ») và nàng xấu hơn Chung vô Diệm một bậc, chàng mới chịu án binh bất động. Bởi vậy chàng chỉ cho phép nàng đặt chai rượu xuống bàn, rồi ôm nàng, kéo nàng sát ngực, hôn như điên vào mặt nàng.

Người Ấn phân loại phụ nữ làm 4: xử nữ, đàn bà lấy chồng hai lần, gái lầu xanh và gái bao. 4 loại này thường mang lại cho đàn ông nhiều khoái cảm vật chất. Quý nhất là xử nữ, con gái còn trinh. Rồi đến đàn bà hai đời chồng. Xử nữ là con cừu non khờ khạo, còn đàn bà hai đời chồng là kho tàng kinh nghiệm phong phú như Tuyết Lê vừa là xử nữ vừa là đàn bà hai đời chồng. Bên cạnh sự khờ khạo đáng nhớ, nàng còn có thêm những kinh nghiệm phong phú đáng yêu. Chàng đã cố dằn lòng, chàng không thể tiếp tục chay tịnh thêm nữa. (1)

Chàng khóa cửa phòng song Tuyết Lê ngăn cản:

-Đừng anh. Có khách.

Chàng hơi sửng sốt:

-Khách nào?

-Nagúpta.

-Trời, Nagúpta. Hắn dám vác mặt đến tận đây nữa ư? Hắn chờ ở đâu?

-Em không biết. Hồi nãy em gặp quản lý để mua chai rượu thì hắn nói Nagúpta từ thủ đô gọi điện thoại nhờ báo tin sắp đến bằng máy bay riêng.

Cơn hứng tình vừa dâng lên phừng phực trong lòng Văn Bình bỗng xẹp xuống. Chàng không còn bụng dạ nào tơ tưởng đến người đẹp da bánh mật nữa. Nhiều tai nạn xảy ra theo hình thức dây chuyền từ khi chàng ghé Ấn độ. Ngoài Nagúpta ra, không còn ai khả nghi hơn. Thế mà Nagúpta nghênh ngang đáp phi cơ đến tận đền Khạ gặp chàng…

Cử chỉ lẳng lơ, Tuyết Lê bưng ly rượu lên miệng cho chàng. Trước khi chàng cầm lấy, nàng đã ghé môi uống rồi ngước nhìn chàng bằng cặp mắt đầy ý nghĩa.

Thôi, chàng đành liều. Chừng nào Nagúpta đập cửa sẽ liệu. Giờ phút này chàng phải bắt chước thần tình yêu Siva. Không chần chừ, chàng kéo nàng xuống giường.

Ác hại thay, Tuyết Lê mới nằm xuống, cười duyên với chàng thì có tiếng đập cửa. Chàng nghe giọng nói khàn khàn như vịt đực của gã phụ tá quản lý:

-Thưa sahib, có khách.

Văn Bình cau mặt. Chưa biết thằng chó chết Nagúpta sẽ nói những gì, nói bằng miệng lưỡi, bằng tay chân quyền cước, hay bằng súng sắt và đạn đồng, chàng phải đánh phủ đầu cho hắn một đòn nên thân.

Chàng gắt um:

-Ai đó, chờ một lát. Đang bận.

Nhưng « khách » đứng bên ngoài không chịu « chờ một lát ». Cửa được xô bật vào, bộ mặt méo mó như trái táo tàu khô của gã phụ tá quản lý xuất hiện. Hai bàn tay của hắn chắp vào nhau, sửa soạn thi lễ. Thường lệ, chàng đã ghét bộ mặt hãm tài của hắn. Khi ấy, chàng lại ghét gấp bội. Chàng đứng dậy sửa soạn tặng hắn một bài học. Chàng đánh hắn trước, sau đó chàng sẽ đánh Nagúpta.

Văn Bình vội khựng lại. Cánh tay chàng vừa giơ lên vội hạ xuống. Chàng cảm thấy ngượng ngập khác thường. Vì « khách » cùng đi với gã phụ tá quản lý đáng ghét không phải là Nagúpta, đối phương ác ôn của chàng.

Mà là đàn bà. Đàn bà đáng yêu.

Thoạt nhìn, chàng biết nàng là Myriam. Chàng muốn bật ra tiếng « trời ơi ». Vì Myriam trong những bức hình chàng được ngắm nghía ở Sàigòn trước khi lên đường và Myriam bằng xương bằng thịt là hai thái cực. Trong ảnh, nàng chẳng có nét gì đặc sắc. Nàng không xấu, song nàng không thể được coi là đẹp. Nàng còn có vẻ lạt lẽo và vô duyên nữa là khác.

Khi ấy, Văn Bình đâm ra ghen bóng, ghen gió với thiếu tướng Kôvic. Thảo nào Kôvic cương quyết đòi được Myriam mới chịu « chọn tự do ». Hừ, hắn khôn như ranh. Ngày nào chàng quá tuổi ngũ tuần như Kôvic, và kiếm được một cô gái 24, 25 xuân xanh như Myriam thì ông Hoàng chỉ làm mích lòng chàng tí ti, chàng cũng sẽ « chọn tự do » là cái chắc. Chàng sẽ cặp kè người đẹp, tìm một xó xỉnh nên thơ nào đó để an hưởng chuỗi ngày còn lại…

Myriam không nói gì. Nàng đứng trên ngưỡng cửa, và ngó Tuyết Lê trân trân. Gã phụ tá quản lý chào lúng búng trong cuống họng rồi biến nhanh như sao chổi.

Văn Bình kéo ghế mời Myriam:

-Tôi biết cô là ai. Tại sao cô biết tôi ở đây? Tôi là đại tá Văn Bình Z.28. Cô đến gặp tôi với mục đích gì?

Hết quan sát Tuyết Lê xong, Myriam chuyển luồng nhỡn tuyến soi mói Văn Bình. Nàng đến gần chàng và dõng dạc:

-Yêu cầu ông há miệng.

Trời đất, trong cuộc đời hồ hải đã có lần chàng bị giai nhân hạ lệnh cởi bỏ quần áo để tìm dấu vết nhận diện. Nàng bắt chàng há miệng để đếm xem chàng có bao nhiêu cái răng vàng ư?

Chàng bèn hỏi:

-Cô đếm răng?

Myriam đáp:

-Vâng.

Văn Bình há lớn miệng. Myriam vụt reo lên:

-Được rồi. Ông đúng là đại tá Văn Bình Z.28.

Văn Bình cười:

-Cô đừng chê tôi bẩn nhé. Tôi có hai cái răng hàm bị sâu ăn lung tung mà chưa có dịp đi chữa.

Tuyết Lê hỏi Myriam:

-Căn cứ vào đặc điểm nào cô biết ông này là đại tá Z.28?

Myriam đáp, giọng tự tin:

-Kôvic dặn tôi. Kôvic nói là trên trái đất chỉ có một số rất ít người có trên 32 cái răng. Đại tá Z.28 khác người ở chỗ có những 36 cái răng.

Văn Bình nói:

-Hừ…tôi lắp răng giả, cô ơi!

Myriam lắc đầu:

-Răng giả là răng giả, không thể đánh lừa được những người có kiến thức khoa học đàng hoàng. Sở dĩ tôi phải yêu cầu ông há miệng để kiểm soát răng là vì cách đây hai giờ đồng hồ có người đã đội lốt ông kiếm cách tiếp xúc với tôi…

-Cũng có người đội lốt cô nữa…

-Vâng, sự kiện phiền phức này đòi hỏi tôi phải gia tăng thận trọng. Nhưng về phần ông…tôi không thấy ông kiểm soát gì hết. Giả sử tôi là gian phi đội lốt thì sao?

Văn Bình chỉ Tuyết Lê:

-Nhờ cô bạn này, tôi không thể lầm lẫn.

Tuyết Lê cười, ngón tay chỉ vào pho tượng thần Ganét bằng ngà voi đeo lủng lẳng trên cái ức trắng ngần của Myriam:

-Vì cây đoản thương trên tay thần Ganét…

Mặt Myriam bỗng bần thần pha lẫn u buồn:

-Chắc là cô được nghe chuyện này tại tòa đại sứ Liên sô. Vâng, trong một chuyến hành hương Bênarét, và tắm nước sông Thần giang, người ta nói là tôi mua một tho tượng Ganét đem cho các nữ tu bà-la-môn ngồi trên bờ để làm phép và họ đã khuyên tôi cắt bỏ cây đoản thương thần cầm nơi tay… Thật ra, câu chuyện không hẳn như thế. Tôi đã sống thời hoa niên ở Ấn, song thân tôi đã từng dẫn tôi đến Thần giang… Là người ngoại quốc, không ai không giành thời giờ vãn cảnh Thần giang vì đó là nơi đẹp nhất và thiêng liêng nhất. Thành phố Bênarét được đặt tên là «ánh sáng của Ấn độ» cũng như Ba Lê là « kinh đô ánh sáng ». Nhưng các nữ tu bà-la-môn không hề khuyên tôi bẻ gẫy bức tượng vì sự thật nó là tượng của mẹ tôi, tượng do mẹ tôi để lại. Nó là kết quả của một mối tình vô vọng… Mối tình vô vọng giữa mẹ tôi và con người ngày nay được gọi là thiếu tướng Kôvic…

Tuyết Lê buột miệng:

-Trời ơi, tôi cứ tưởng…

-Kôvic là ý trung nhân của mẹ tôi… Tôi chỉ có quyền coi Kôvic là dượng, là người thân, rất thân, và chỉ có thế thôi. Cha tôi ngày xưa theo đạo Phật, mặc dầu là công dân Liên sô. Muốn giữ chức vụ cao cấp trong guồng máy ngoại giao phải theo lý tưởng vô thần. Sau khi được bổ nhiệm tại Ấn, cha tôi dẫn cả gia đình đến vùng Bênarét. Người ta đồn đãi về pho tượng Ganét có lẽ vì thế. Gần đó có một thắng cảnh Phật giáo gọi là Lâm-bì-ni, nơi Phật đản sinh, và cũng là nơi có nhiều cây bồ đề, tượng trưng cho đạo Phật. Cha tôi ghé Lâm-bì-ni thăm xứ Phật, và trên về ngừng lại ở Sangam…

-Sangam…cái tên nghe quen quá…

-Sangam là nơi hai con sông thiêng nhất Ấn độ gặp nhau. Hai con sông này là Jumna và Gange (Thánh giang). Gia đình tôi đến nhằm lễ hội mùa xuân (2) giữa lúc những người hành hương ngồi thành hàng dài cho thợ cạo đầu trước khi xuống sông dầm nước thánh. Đàn bà thì quăng những cánh hoa hồng để cầu phước. Cha tôi theo đám người hành hương đi tắm, mẹ tôi tản bộ quanh vùng để chụp hình thì gặp chàng…

-Kôvic?

-Vâng. Kôvic tặng mẹ tôi pho tượng Ganét. Kôvic nói rằng xứ Ấn có hàng ngàn pho tượng khác nhau, tượng đẹp không thiếu, nhưng vì chàng gặp mẹ tôi tại Bênarét, nơi thờ thần Siva nên chàng muốn có một tặng vật liên hệ đến ái tình. Cũng như Ganét bướng bỉnh, dám cưỡng lệnh phụ thân Siva đến nỗi bị beng đầu, chàng và mẹ tôi chống lại định mạng nên trọn đời đau khổ.

Tượng Ganét do Kôvic tặng mẹ tôi không phải thứ tượng bán ngoài đường. Chàng đã mua lại của một lãnh tụ sát-hu (3).

Nó được phù phép nhiều lần. Ai đeo vào thì tránh được bệnh nan y, khỏi bị căng mạch máu, bị mỡ dư ở bụng, bị cảm cúm, lại gặp được nhiều phúc lành. Quả thật, mẹ tôi không mắc phải những bệnh vặt từ khi đeo tượng. Nhưng bà lại mang một bệnh khác. Bệnh trong tâm. Và mẹ tôi từ trần vì tâm bệnh ấy.

Văn Bình nhìn quanh phòng một lượt rồi hỏi Myriam, giọng băn khoăn:

-Cô đã biết tôi đến đây vì việc gì. Theo chỉ thị, tôi gặp cô, cô dẫn tôi đến gặp Kôvic tại một địa điểm gọi là Snac. Nếu cô không thấy trở ngại, tôi đề nghị khởi hành ngay đến Snac. Vì một người tên là Nagúpta sắp tới. Trong hoàn cảnh hiện thời, gặp hắn bất tiện. Cô nghe nói đến hắn không?

Myriam chậm rãi đáp:

-Ông vừa đặt ra hai câu hỏi. Thứ nhất, địa điểm Snac. Thứ hai, vai trò của Nagúpta. Muốn trả lời rành rọt, thiết tưởng ông nên cho phép tôi kể lại từ đầu. Trước hết, tôi xin nhấn mạnh rằng cuộc đi của Kôvic không phải là ngẫu hứng mà là một công trình được sắp đặt chu đáo, tỉ mỉ. Mặt khác, cũng để đánh tan mọi sự hoài nghi của Sở Mật Vụ do ông đại diện, tôi đã được Kôvic ủy thác tuyên bố là Kôvic thật tâm muốn rời Liên sô với sự giúp đỡ của ông. Tôi xin lặp lại, thật tâm hoàn toàn. Kôvic không hề có ý nghĩ hoặc hành động nào ngược lại sự thật tâm này. Nhưng nói như vậy không phải là KGB không biết.

-Một phần kế hoạch « chọn tự do » đã được trình báo KGB?

-Trên nguyên tắc, toàn bộ kế hoạch do trung ương KGB… soạn thảo và thực hiện. Ông đã biết Kôvic là yếu nhân an ninh sô viết. Tuy nhiên, ảnh hưởng và chức vị của Kôvic đã bị lung lay tận gốc sau ngày có sự đổi thay trong guồng máy lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Hồng quân và KGB. Từ 4 năm nay, Kôvic nghiên cứu kế hoạch thoát ly. Kôvic không có cách nào thát thân vì bị theo dõi từng bước. Phe lãnh đạo mới của KGB muốn loại Kôvic vĩnh viễn song chưa tìm ra cơ hội. Trước kia, hồi Sít-ta-lin còn sống, việc loại trừ đối thủ chính trị bị thất sủng không có gì khó. Chỉ một chữ ký của bí thư chấp hành Trung ương Đảng, hoặc đôi khi một cú điện thoại từ điện Cẩm Linh cũng đủ. Từ ngày Sít qua đời, Cút-sép và ban lãnh đạo tập thể nắm quyền, nạn thanh trừng công khai không còn nữa, nhường lối cho những âm mưu thanh trừng kín đáo. Nhân một chuyến tôi về thăm nhà, Kôvic đem kế hoạch thoát thân ra bàn, nhờ tôi tiếp tay. Đối với Kôvic, nếu phải hy sinh mạng sống tôi cũng không từ nan, cho nên tôi đồng ý liền.

Trong thời gian phục vụ tại Ba Tư, tôi quen một nhân viên trung cấp của sứ quán sô viết, tên hắn là Avalốp. Hắn chỉ giữ chức vụ tầm thường, trưởng phòng thông hành. Ông tính, mỗi tháng sứ quán chỉ xét cấp nhiều nhất là một vụ chiếu khán thông hành nên chức trưởng phòng hầu như vô quyền. Thời giờ còn lại để lo điếu đóm cho ông đại sứ và các tham vụ đàn anh. Tôi không dè sự đối xử nhã nhặn của tôi làm Avalốp cảm kích. Hắn đâm ra mê tôi, mê một cách kinh khủng.

Về đến Mạc tư khoa, tôi mới phăng ra vai trò đích thật của hắn. Hắn không phải là anh trưởng phòng thông hành tồi tàn. Hắn chính là phó giám đốc ban 13, tức ban Thủy vụ (4), đặc trách ám sát bên trong tổng hành doanh KGB. Hắn qua Ba Tư để đích thân chỉ huy một thủy vụ. Công việc xong xuôi, hắn về nước, trở lại chức phó giám đốc. Avalốp có nhiều thế lực vì quan thày hắn là tướng Kôrôvin (5), giám đốc ban 13.

Với sự chỉ dẫn của Kôvic, tôi bắt bồ với Avalốp và lôi hắn vào tròng. Avalốp mê tôi đến độ mù quáng. Hắn can thiệp với cấp trên cho tôi kéo dài thời gian nghỉ phép tại Mạc tư khoa. Ngày nào hắn cũng đến nhà tôi, và khi nhìn thấy ảnh Kôvic trên bàn, hắn nổi cơn ghen. Tôi giải thích rằng Kôvic nâng đỡ tôi trong bước đầu gia nhập KGB cho nên tôi hàm ơn, luôn luôn nghĩ đến cơ hội đền ơn.

Tôi bố trí cho Avalốp đọc được một lá thư của Kôvic giả viết cho tôi, giục tôi nhận lời làm vợ. Avalốp sồng sộc đến tận phòng tắm của tôi, yêu cầu tôi chọn lựa giữa hai người, hắn hoặc Kôvic. Tôi chọn hắn, dĩ nhiên, phải không ông? Nhưng lại nói là không muốn vong ân bội nghĩa. Thế là cá cắn câu. Tôi bèn xúi hắn trọng dụng Kôvic, rồi đưa Kôvic vào một công tác nguy hiểm, chỉ có đi, không có về.

Khốn nỗi ban 13 chuyên về ám sát, không có công tác nào nguy hiểm bằng ám sát, mà công tác này lại chỉ có thể giao cho những nhân viên từ thiếu tá trở xuống. Kôvic đeo lon thiếu tướng, thuyên chuyển chàng về ban 13 đã là chuyện không ổn chứ đừng nói đến giao việc ám sát cho chàng. Tôi liền bày mưu cho Avalốp: Kôvic « chọn tự do ». Một viên đạn bắn chết 2 con chim. Avalốp có thể nhân cơ hội loại trừ tình địch Kôvic, đồng thời phá hoại hệ thống điệp báo tây phương.

Tướng Kôrôvin hoàn toàn chấp nhận kế hoạch hành động với Avalốp. Theo kế hoạch này, cả Kôvic lẫn điệp báo tây phương sẽ bị lôi vào xiếc. Sở dĩ Kôvic liên lạc với ông Hoàng để « chọn tự do » chứ không liên lạc với CIA, hoặc MI-6, hoặc một sở tình báo nào khác của tây phương vì những lý do sau: thứ nhất, Kôvic từng quen biết đại tá Z.28 trong thời gian ở Luân đôn ; thứ hai, đại tá Z.28 là chiến lợi phẩm vô cùng đắt giá, nếu bắt sống hoặc giết được Z.28 thì KGB sẵn sàng chịu đựng những hy sinh lớn lao nhất ; thứ ba, tôi đang phục vụ tại nhiệm sở Ấn độ, Kôvic cũng từng phục vụ tại Ấn độ, tại đó lại có Nagúpta vừa hợp tác với KGB, vừa hợp tác với ông Hoàng, và trước kia Nagúpta đã hoạt động dưới quyền Kôvic.

Vừa rồi, ông nhắc đến Nagúpta. Tôi chưa quen hắn nhưng đọc kỹ hồ sơ về hắn. Qua trung gian của Nagúpta, KGB báo tin Kôvic muốn thoát ly cho ông Hoàng. Dầu Nagúpta được ông Hoàng hứa thưởng công hậu hĩ sau khi công việc hoàn thành tốt đẹp, tôi vẫn nghĩ Nagúpta trung thành nhiều hơn với KGB. Một phần vì họ không tiếc tiền, phần khác hắn bị tình cảm cá nhân chi phối. Trung ương KGB đã nắm gọn hắn trong tay nhờ một người đàn bà tên Pisa…

-Cô cho phép tôi ngắt lời…Cô là nhân viên KGB, vẫn biết cô hết lòng vì Kôvic, nhưng cô thử nghĩ coi, Avalốp quá đam mê có thể mù quáng, lẽ nào đồng nghiệp của hắn cũng mù quáng như hắn, và nhất là tướng Kôrôvin, con cáo già điệp báo quốc tế?

-Vâng, ông thắc mắc rất đúng. Khi gặp Kôvic, tôi cũng tỏ ra thắc mắc như ông. Có lẽ còn thắc mắc hơn ông nữa. Vì tôi ở trong KGB, tôi biết rõ guồng máy phỉnh gạt tinh tế của họ. Tôi lại biết rõ Avalốp, Kôrôvin và những nhân viên trong ban 13 trực tiếp hoặc gián tiếp điều khiển vụ Kôvic « chọn tự do ». Kôvic đã trả lời như sau: « My chơi phé bao giờ chưa? Đây là một cuộc đánh phé. Phải chờ lật con tẩy lên mới biết ai thua hay được. My yên tâm. Mai đây gặp đại tá Z.28, My hãy thay tôi bảo đảm rằng Kôvic đã nắm được con tẩy « thượng hạng ».

-Còn Nagúpta?

-Pisa, người yêu của Nagúpta, hoạt động dưới quyền của Avalốp. Nagúpta chỉ biết một phần nhỏ của nội vụ, vai trò chính là Pisa. Về phần tôi, tôi có nhiệm vụ dùng đường bộ từ thủ đô đến đền Khạ, ở lại tới khi nào ông xuất hiện, rồi sau đó dẫn ông đi tìm Kôvic. Mọi phương tiện sẽ do Nagúpta cung cấp.

-Như vậycó khác nào trói chặt tay chân cho KGB và Avalốp làm thịt?

-Bí quyết của con bài tẩy là ở đó là. Phải làm cách nào cho KGB có cảm tưởng nắm chắc phần thắng thì Kôvic mới có hy vọng thoát thân. Hiện thời Kôvic đang nằm đợi tin tức tại một thị trấn nhỏ xíu dưới chân núi Pamir, ở vùng cực nam Liên Sô, cách biên giới không bao xa. Thị trấn này có tính chất chiến lược đặc biệt: nó giống cái túi thắt miệng, lọt thỏm giữa biên giới Liên Sô, Trung Hoa, A phú Hãn, Pa kít Tăng và Cát-sơ-mia thuộc Ấn độ. Chỉ khi nào Nagúpta điện về báo cáo ông đã khởi hành với hắn kè kè một bên, Kôvic mới được phép vượt biên giới vào Cát-sơ-mia. Vì vậy, nếu thiếu sự hợp tác của Nagúpta, ông và tôi sẽ thất bại. Ông và tôi thất bại thì không sao, ông sẽ trở về Sàigòn, tôi được Avalốp che chở. Riêng Kôvic không được quyền thất bại. Thất bại là chết…

-Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra trên phần đất Cát-sơ-mia dưới sự canh chừng và vây hãm của KGB. Trong hoàn cảnh ấy, Kôvic trù liệu đối phó ra sao?

-Theo sự tính toán của Kôvic, muốn chọc thủng vòng vây KGB phải giỏi võ, thật giỏi võ. Kôvic tin tưởng tài ba xuất chúng của ông sẽ lật ngược tình thế vào phút chót.

-Ai chặn bắt cô gần đền Khạ?

-Họ xưng là thuộc viên một nhân vật lừng lẫy uy quyền hỗn danh « xã trưởng Giang Chung ».

-Hiểu rồi. Những người chặn bắt cô hoạt động cho Quốc tế Tình báo Sở.

-Trung quốc?

-Phải. Tình báo Sở của Trung hoa cộng sản. Và xã trưởng Giang Chung là Chu đại Bình (6). Hắn xuất thân làm xã trưởng Giang Chung ở Mãn Châu. Hắn lớn hơn Kôvic 15, 16 tuổi, và cũng như Kôvic, là chuyên viên tình báo từ thuở thanh niên. Trong cuộc chiến tranh Hoa-Nhật, họ Chu đã giữ chức vụ tình báo cao cấp, và từ năm 954 hắn chuyển sang ngành tình báo ngoại giao. Đến năm 1961 thì hắn trở thành chúa trùm, nghĩa là Chu giữ những chức vụ điều khiển tương đương với thiếu tướng Kôvic trong KGB. Chỉ khác là Kôvic bị thất sủng, có thể bị tù đầy, chết chóc, còn hắn thì vẫn tiếp tục vững như bàn thạch.

-Ông cũng quen Chu đại Bình?

-Không. Về niên kỷ, Chu thuộc thành phần đàn anh. Tôi chưa hề gặp mặt hắn, nhưng đã nghiên cứu khá nhiều về hắn. Hắn xấp xỉ 70 song diện mạo khá trẻ, thanh niên đừng hòng ăn đứt, ấy là chưa nói đến bản lãnh võ thuật của hắn được liệt vào bậc thượng thừa. Nếu có Chu xía vào mọi việc sẽ trở nên gay cấn. Tuy nhiên, vấn đề chính là ở Kôvic. Thiếu tướng Kôvic tự ý « chọn tự do », chúng tôi không bó buộc. Trừ phi…

Văn Bình ngưng nói.

Có tiếng xe hơi thắng gấp trước cửa công quán. Nhìn qua cửa sổ mở rộng, Văn Bình thấy lườn xe đầy bùn đỏ bầy nhầy ẩm ướt. Trời ở đây vẫn khô ráo, và nóng bức, không biết xe của Nagúpta ở đâu tới để gặp mưa thật lớn, đường sá mới biến thành bùn lỏng.

Nagúpta xê dịch sang trọng và oai vệ không kém tiểu vương maharaja. Xe hắn không chạy một mình mà họp thành đoàn công-voa khệnh khạng gồm đúng 4 chiếc. Dẫn đầu là xe Land Rover sơn màu kaki. Chạy sau cùng cũng là xe Land Rover. Phía giữa là 2 chiếc Rolls Royce cao cẳng và vuông vức như cái hộp, giới kỳ bẻo Việt gọi xe hơi là « xế hộp » rất đúng.

Eo ôi, xe của Nagúpta là kiểu Phantom VI, ra đời năm 1963 với 4 ngọn đèn pha sáng như hải đăng. Giá tiền 45 ngàn mỹ kim, dân chơi có hạng mới sắm nổi. Ấy mà Nagúptalại dùng những hai chiếc, sơn màu kaki trông tồi tàn như xe Land Rover. Ngồi một chiếc, chạy không một chiếc, Nagúpta giống chàng công tử Bạc Liêu thời xưa, nhưng công tử của ta chỉ dám thuê hai xích-lô rong phố, còn Nagúpta dám xài luôn hai Phantom VI trên con đường khỉ ho cò gáy..

Đoàn tùy tùng của hắn khá đông. Từ chiếc Land Rover dẫn đầu thót xuống 5 mạng. Đúng hơn, 5 núi thịt. Với số kilô thịt của xe này không thôi, hắn đã đủ gây sự e dè, phương chi trên ba xe còn lại đàn em của hắn đang còn nhung nhúc như giòi.

Trước sau Văn Bình đếm được 10 mạng. Nagúpta đặt chân xuống sau chót. Hắn cao lêu nghêu, tay chân dài như tay chân khỉ, vượn. Nếu da hắn không ngăm ngăm, mặt hắn không choắt và không sặc mùi lưu manh thì nhiều người có thể tưởng lầm hắn là chàng « sếu vườn » Lê Diệp của Sở Mật Vụ, bạn con chấy cắn đôi của Văn Bình. Hắn có những ngón tay vuông và sần sùi như đốt mía, không khác ngón tay Lê Diệp, ngón tay của võ sĩ phóng dao lành nghề. Văn Bình đoán hắn sinh trưởng tại Cát-sơ-mia, dáng người cao dong dỏng mà bắp thịt rắn chắc chứng tỏ hắn là dân đô-gờ-rát, một sắc dân chuyên về trồng trọt và chăn nuôi hoặc …luyện tập võ nghệ. Võ sĩ đô-gờ-rát nổi danh về tay và chân. Đa số có đặc điểm thiên bẩm chạy nhanh, chạy xa không biết mệt. Thường họ giỏi cước pháp và khinh công.

Văn Bình chưa có cơ hội đọ sức với võ sĩ đô-gờ-rát (7).

Chàng nghe đồn nhiều bậc thày Thiếu Lâm mầy mò vượt lãnh thổ Trung quốc qua Cát-sơ-mia tỉ thí đều bị đánh bại. Nếu Nagúpta quả thật xuất thân từ dân thiểu số đô-gờ-rát thì cuộc phiêu lưu lần này của Văn Bình sẽ kết thúc trong bầu không khí căng thẳng. Chàng chưa biết đó là hên hay xui. Nhưng không hiểu sao sự hiện diện của Nagúpta, đồng minh trên nguyên tắc của chàng, lại làm chàng nghèn nghẹn cuống họng.

Đoàn tùy tùng của Nagúpta được chia làm 2 toán. Một toán ở lại canh gác, bàn tay thọc túi quần. Toán thứ hai thì theo Nagúpta vào bên trong quán.

Văn Bình ngó Myriam bằng đuôi mắt. Nàng thản nhiên lục sắc, tay lấy son phấn ra làm đẹp. Nàng tô chì xanh và thoa son thoăn thoắt. Nagúpta mở cửa phòng thì nàng đang dốc ve nước hoa thơm ngát bôi lên vành tai.

Nagúpta không tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy trong phòng có thêm hai người đàn bà. Hắn không đến nỗi xí trai như Văn Bình tưởng. Đành rằng hắn không đẹp trai, nhưng nhìn kỹ hắn vẫn có duyên dáng, một thứ duyên dáng từng trải dễ làm lung lạc phụ nữ nai tơ.

Nagúpta mở miệng rộng hoác cười như thể hắn quen biết mọi người từ lâu.

Cùng vào với hắn có hai cận vệ. Bọn này có nước da đen bóng như mọi Phi châu. Dường như trên thân thể đều được trát bi-ăn-ti. Chúng mặc âu phục, áo sơ mi ngắn tay thả ngoài thắt lưng, quần ống chân voi dài quét đất, giày mang số 5 là ít. Giống toán cận vệ bên ngoài, chúng đều giấu bàn tay trong túi quần.

Dĩ nhiên là trong túi quần có súng.

Nhưng miệng cười hềnh hệch của Nagúpta vội mím lại. Vì giai nhân Tuyết Lê đã xấn lên.

Cầm trong tay cái bật lửa Ronson bằng vàng, nàng quát nhỏ nhưng dõng dạc:

-Nagúpta, tại sao ông lừa giết tôi?

Quẹt máy Ronson này thật ra là khẩu súng tối tân.

Chú thích:

(1) loại đàn bà cung cấp ái ân này được gọi là nayika. Có người chia làm 5, 6, 7 hoặc 8 loại, nhưng các tác giả hữu danh về tình dục Ấn chỉ chia làm 4 mà thôi.

(2) lễ hội mùa xuân này là Magh Mola, ở tỉnh Allahabad. Cứ 12 năm một lần, lễ Magh Mola được tổ chức thập phần long trọng gọi là lễ Kumbh Mola, với sự tham dự của hàng triệu thiện nam tín nữ trảy hội.

(3) sát-hu (sadhu) là người sống khắc khổ, chay tịnh, chuyên tu luyện. Họ gồm chừng 6 triệu người, trong số này độ 1/20 là sát-hu chính hiệu, còn lại là sát-hu lưu manh. Những sát-hu chính hiệu tu luyện trong rừng sâu, trên núi cao. Họ giỏi võ nghệ, pháp thuật, hoặc chuyên về đạo giáo.

(4) tiếng Nga, ban này là Mokryie Dela. Mokryie có nghĩa là ẩm ướt như nước, nên người ta gọi là ban Thủy vụ. Trước kia, ban 13 được đặt là Spetsburo.

(5) Kôrôvin (Korovin) là bí danh của tướng Nokolai B. Rodin trong thời gian phục vụ tại sứ quán sô viết ở Luân đôn (1953-1981). Sau đó, Kôrôvin được triệu hồi về Nga và được bổ nhiệm làm giám đốc ban ám sát số 13 trong KGB.

(6) tức là Tson-ta-pong. Tson hiện là phụ tá tin cậy của hai lãnh tụ tối cao điệp báo Hoa lục, là tổng giám đốc Khang Chong, và phó tổng giám đốc Li Ko Houng (đã từ trần).

(7) dân đô-gờ-rát (dogras) nói tiếng đô-gờ-ri (dogri), một thổ ngữ pha trộn giữa tiếng phạn, tiếng Ba Tư và tiếng Bắc Ấn. Ngoài dân dogras, hai sắc dân thiểu số khác trong vùng là Gaddi (gát-đi) và Pahari, sống trên núi cao, cũng rất cường tráng, và khá giỏi võ.