← Quay lại trang sách

Chương XI Núi mộng Thuyền hoa

Trên đường ngự giá, vua Jahangir, một trong những ông vua lừng lẫy nhất của lịch sử Ấn độ, bỗng thọ bệnh, và sắp lâm chung. Quần thần tụ họp bên long sàng xin được biết di chiếu của nhà vua. Trước giờ băng hà, nhà vua rên rỉ, và mở mắt, đôi môi mấp máy. Biết ngài trăn trối, quan tể tướng bèn phủ phục:

-Tâu bệ hạ muốn gì?

Nhà vua đáp:

-Cát-sơ-mia… Trẫm đến chơi Cát-sơ-mia lần cuối mới có thể yên tâm nhắm mắt.

Nhưng nhà vua đã nhắm mắt trước khi có cơ hội trở lại Cát-sơ-mia. Nơi đó phải là địa đàng đầy rẫy thú vui và cảnh đẹp nên vua Jahangir mới đòi được viếng thăm vĩnh biệt. Trên thực tế, đó là một thung lũng xanh tươi trồng toàn hoa thơm cỏ quý, giữa những giòng sông và hồ nước trong veo, tứ phía bao bọc núi tuyết cao vòi vọi. Từ ngàn xưa, người ta đã đặt tên cho xứ Cát-sơ-mia là « thung lũng hạnh phúc ».

Nền văn minh cơ khí tây phương đã xâm nhập mọi nơi trên trái đất, đặc biệt ở những nước bị ngoại thuộc. Tuy tiểu lục địa Ấn bị đặt dưới nền đô hộ của Anh quốc mà Cát-sơ-mia vẫn giữ nguyên những nét trinh tiết thần tiên. Cho đến ngày Ấn giành lại độc lập sau thế chiến thứ hai, Cát-sơ-mia là một vùng bán tự trị, do một maharaját cai trị. Người Âu không không được phép mua đất, ngay cả xây cất tại đó, thành ra ảnh hưởng của tây phương đã bị chặn lại bên này rặng Hy mã lạp sơn.

Dân chúng gồm khoảng 4 triệu người, phân chia thành 2 đẳng cấp: giới thông thái và nông dân theo đạo Hồi. Dùng đường bộ chỉ có một lối xuyên sơn duy nhất vào thung lũng hạnh phúc. Lối xuyên sơn này là lại cái hầm ở trên độ cao 3 ngàn mét, mùa lạnh tuyết trắng phủ kín. Qua khỏi hầm, chỉ vượt 160 cây số là đến thủ đô Sờri-naga nằm lọt thỏm giữa rặng núi cao ngất trời. Hệ thống công lộ gồm những con đường rộng, hai bên trồng cây dương trắng đồ sộ từ mấy trăm năm trước. Ở đâu cũng thấy hoa và nước…

Rạng đông hôm ấy, phi cơ chỏ Văn Bình và các bạn đồng hành mới cất cánh khỏi trường bay Săng-đi-gác.

Những trận gió lớn đột ngột thổi qua. Trời đang sáng trăng, bỗng dưng những đám mây đen sì kéo tới ùn ùn, án khuất mặt nguyệt, che kín luôn vòm trời. Tiếp theo là sấm nổ chớp xẹt. Nhưng chỉ có sấm chớp chứ không mưa. Sau đó đến gió, những cơn gió chở thêm khí lạnh thâm niên của rừng núi đầy tuyết phía bắc.

Săng-đi-gác là thị trấn tân tạo, dưới bàn tay tuyệt vời của kiến trúc sư Pháp Le Corbusier, nên phố sá, dinh thự đều mới và đẹp, cộng với vẻ đẹp thiên nhiên của giải núi Si-oa-líc, hai con sông kèm bên như cặp rồng chầu. Tuy nhiên, những cơn gió khuya bất thần đã tạo cho Văn Bình cái cảm tưởng kỳ lạ lạc lõng trong thế giới đầy hoa và mộng của thời tiền sử xa xăm…

Phi cơ bay qua không phận Simla. Quả thật đây là thế giới đầy hoa và mộng vì vua chúa ngày xưa sai trồng những vườn hoa thần tiên để mang giai nhân tới ăn uống, đàn hát. Văn Bình như còn ngửi thấy mùi hoa dạ hương thơm ngát. Dạ hương là loài hoa mọc nhiều ở Simla. Nó mang tên « dạ hương » vì ban đêm nó mới tỏa hương. Dạ hương ở Simla lại thơm đặc biệt, thơm như thể được pha trộn mùi da thịt người đẹp thanh tân.

Đường bộ đi Simla toàn đèo, giốc ngoằn ngoèo, hiểm trở, xểnh tay lái có thể lọt xuống vực thẳm không đáy. Nhưng sự nguy nan đường trường đã được đền bù bằng nhan sắc mặn mà của các thiếu nữ địa phương. Người nào không đẹp diện mạo thì có sức khỏe dẻo dai và uyển chuyển nhờ chuyên nhảy múa trong các hội hè, đình đám.

Dưới thời đô hộ, Simla là nơi nghỉ mát hàng năm của phó vương. Các maharaját tiền rừng bạc biển cũng đua nhau lên Simla để ngắm cảnh mặt trời mọc trên những đỉnh núi tuyết không bao giờ tan. Một cảnh đẹp độc nhất vô nhị.

Hồi trước qua Simla, Văn Bình lái một mạch lên miền bắc đến tận Kulu và những vùng xa hơn, trước khi quẹo trái vào tỉnh Cát-sơ-mia. Giờ đây, phi cơ chỉ mất một khắc đồng hồ ngắn ngủi, ngon ơ. Khi ấy Văn Bình đổ bồ hôi suốt ngày mà Kulu vẫn chưa ló dạng trong đám sương mù dầy đặc, một bên là vách đá sừng sững như vươn cao đến trời, bên kia là sông và thác nước chảy ào ào, tiếng dội ngân vang trong núi làm du khách yếu tim rùng mình, sởn gáy.

Nhưng đến khi vượt khỏi con đường độc đạo được xẻ đục qua núi thì du khách yếu tim còn rùng mình hơn nữa. Chỉ khác là rùng mình vì cảnh đẹp. Chứ không phải rùng mình vì sợ. Trước mắt du khách là một thung lũng tròn trịa, xanh tươi, rực rỡ. Người ta gọi là « thung lũng thần linh » cũng không quá đáng.

Quanh năm suốt tháng ở đây đều có hoa. Cuối xuân thì hoa hạnh màu hồng nở tung khắp chốn. Trên những phiến đá cheo leo tạo hóa đã trồng sẵn cây sơn lựu khổng lồ, hoa đỏ chói lớn bằng cái đĩa ăn xúp, xa trông lên như thấy hàng trăm cây đèn giấy. Đầu mùa hè hoa dẻ nở đầy, hàng triệu con ong kéo nhau tới hẹn hò. Đàn ông chẳng phải làm gì. Họ ở nhà quăng thoi, dệt vải ấm còn đàn bà trồng trọt ở ngoài đồng. Sở dĩ Văn Bình mầy mò đến « thung lũng thần linh » là để quan sát tại chỗ nếp sống của người người đàn ông được coi là có giá và lên hương nhất nhì thế giới. Còn gì sung sướng bằng thay đổi vị trí: đàn ông canh cửi, đàn bà đồng áng. Chắc chắn nhiều người không đồng ý với Văn Bình (và tác giả Người thứ Tám). Song trước khi không đồng ý, ta đừng quên là đàn bà làm việc ngoài trời thường khỏe mạnh, cặp giò thường dài ngoằng và giẻo như kẹo kéo (đến giòng này, các bạn đã đồng ý với Văn Bình và Người thứ Tám chưa?)

Xa hơn nữa, trên ranh giới tây-bắc, sát Cát-sơ-mia, là « thung lũng mật ong », tứ thời chỉ có một mùa xuân rực nắng giữa những rặng tùng, bách đồ sộ và những đồng cỏ ngọc bích, một giống cỏ màu lục tươi mịn màng. Phong cảnh mùa xuân đã đành, dân cư cũng đượm mùa xuân. Đàn bà con gái ở đây nổi tiếng về tài múa nhảy, và khuôn mặt rất đẹp. Điều đáng nói là khuôn mặt họ rất đẹp mà thân thể họ lại thon nhỏ. Cũng thon nhỏ như những con báo tuyết ẩn hiện trên đỉnh núi. Loài báo tuyết nhảy suốt ngày từ mỏm núi này sang mỏm núi khác không mệt. Coi chừng… họ cũng không biết mệt như con báo tuyết thường được dân thiện xạ lặn lội trèo đèo, lội suối bắn hạ, đem về lột da, nhồi bông, bày biện trong phòng khách.

Mặt trời bắt đầu nhô lên sau rặng núi hùng vĩ trắng xóa thì phi cơ bớt máy và giảm độ cao. Sự kiện này làm Văn Bình ngạc nhiên vì tính tốc lực và kinh nghiệm phi hành, chàng biết chắc mới được nửa đường. Già lắm là đến Pa-tan-kốt (Pathankot), trạm địa đầu của tỉnh Cát-sơ-mia, nghĩa là còn cách Sờri-naga gần 400 cây số nữa.

Mà phi cơ bớt máy và giảm độ cao để sửa soạn đáp xuống thật. Chàng bèn hỏi Nagúpta:

-Bị trục trặc?

Nagúpta đáp:

-Không.

-Tại sao hạ cánh tại Pa-tan-kốt?

-Vì điều kiện an ninh. Vẫn biết mình chỉ ngừng lại một lát ở Tân Đề Li, tôi nghĩ nên thận trọng hơn nữa. Địch có thể ghi số máy bay, biết trước đường bay. Nơi này toàn núi và rừng, phi cơ nhẹ của địch có thể phục kích dọc đường bay, và đẹt, đẹt…chỉ một tràng đại liên là xong…

-Phi cơ nhẹ ở đâu mà dễ kiếm như vậy?

-Chẳng khó. Vì đây sát nách biên giới.

Nagúpta vừa vô tình tiết lộ một chi tiết quan trọng. Văn Bình bèn hỏi dồn đột ngột:

-Sợ phi cơ Trung hoa hả?

Nagúpta đáp ngay:

-Dĩ nhiên.

Cóc chỉ mở miệng khi trời giông bão, Pisa cất tiếng bổ khuyết:

-Ông Nagúpta chỉ mới nhắc đến một khía cạnh của vấn đề. Địch ở đây không nhất thiết là Quốc tế Tình báo Sở Trung hoa, mà là tất cả những ai liên hệ gần xa tới vụ Kôvic. Chúng ta sợ phi cơ Trung hoa vì chỉ cách biên giới 200 cây số. Trong quá khứ, phi cơ Tình báo Sở đã nhiều lần xâm nhập vùng trời lén lút như vậy. Nhưng theo thiển ý, KGB cũng đáng sợ không kém.

-Biên giới Liên Sô còn xa?

-Không, tôi muốn nói đến cô Myriam nhiều hơn. Dầu sao Myriam cũng là viên chức ngoại giao kiêm KGB. Nàng bỏ KGB theo tướng Kôvic. Nếu KGB khám phá ra, họ sẽ chẳng ngần ngại áp dụng biện pháp mạnh, chẳng hạn chặn bắt dọc đường, đặt cao xạ do vô tuyến và hồng ngoại tuyến điều khiển trên đỉnh núi. Hoặc giản dị mà hữu hiệu hơn hết là bố trí bắt giữ, hạ sát tại Sờri-naga. Bởi vậy, tôi đề nghị đáp xuống Pa-tan-kốt, thay phi cơ khác. Phái đoàn sẽ tách làm đôi. Dẫu bọn KGB chờ sẵn ở Sờri-naga, họ cũng chẳng làm được gì. Theo ông, sự thận trọng của chúng tôi có quá vô ích hay không?

-Không. Sự thận trọng này rất hữu lý.

Nghe Văn Bình đáp, Pisa tủm tỉm cười. Từ lúc rời Chattarpur đến giờ, nàng mới tủm tỉm cười hai lần. Văn Bình lấy làm lạ ở điểm nàng không cười to, nàng cũng không cười lâu và cười thành tiếng. Dường như những động tác này làm hao tổn nhiệt lượng cơ thể nên Pisa cố tình dè sẻn. Mới cười đó, mặt nàng đã trở nên nghiêm trang.

Mọi việc xảy ra tại Pa-tan-kốt đều đặn, đúng khớp như bánh răng cưa của bộ máy. Phi cơ đậu lại, Nagúpta ra lệnh bằng thổ ngữ cho bọn nhân viên rồi nhanh nhẹn xuống sân bay để để hướng dẫn lên một chiếc phi cơ nhỏ khác, cũng của hãng hàng không Ấn độ trên sườn vẽ hình ông maharaját đội khăn rế kếch sù và để cặp râu ghi-đông vểnh.

Trời đã sáng rực, mây xanh và đẹp nên ngồi trên phi cơ Văn Bình có thể ngắm cảnh bên dưới. Toàn núi là núi, và đỉnh núi nào cũng phủ tuyết trắng. Khi bay phía trên con đường độc đạo xuyên sơn ngoằn ngoèo như rắn lấp lánh ánh nắng, Myriam bỗng buột miệng:

-Thảo nào!

Văn Bình hiểu ngay ý nghĩa của hai tiếng nói ngắn ngủi. Thật ra nàng muốn nói « thảo nào, KGB chọn Sờri-naga làm địa điểm cho Kôvic « chọn tư do », song nàng đã ngậm miệng kịp thời. Thảo nào, thảo nào… vì « thung lũng hạnh phúc » Cát-sơ-mia không còn lối thoát nào khác ngoài con đường độc đạo, gọi là đường đèo Ba-ni-hal cao ba ngàn mét. Đường đèo này lại chui qua hầm núi, chỉ phục một tay súng là hết lối đào tẩu…

Trừ phi mọc cánh, Kôvic mới qua khỏi rặng núi vòng chảo. Trèo qua không phải dễ, thứ nhất phải quen nghề, thứ hai phải trang bị dụng cụ đầy đủ, và thứ ba phải thuộc đường. Ngay cả trong trường hợp hội đủ 3 điều kiện này, Kôvic vẫn có rất ít hy vọng vì hắn phải mất vài ngày mới xuống được bên kia chân núi. Đối phương chỉ mất vài giờ đồng hồ bằng phi cơ nhẹ, rồi thả xuống khu vực ẩn núp một loại tạc đạn đặc biệt, tạc đạn gây âm thanh. Tiếng dội vách đá của loại tạc đạn gây âm thanh sẽ làm núi lở, dẫn đến tai nạn chết người.

Ngày xưa, xa giá của nhà vua qua đèo Ba-ni-hal phải ngậm tăm, hoàn toàn nín lặng. Các nhà phù thủy nói sự ồn ào làm sơn thần nổi cơn tức giận và ra oai, tác hại. Sau đó, một ông vua ngang ngược (1), bất chấp lời dặn của tiên đế, sai quân hầu đánh trống, gõ chiêng để dọa sơn thần. Rốt cuộc đá lở, đoàn xa giá bị nạn, và nhà vua suýt bị chôn sống trên sườn núi.

KGB tỏ ra khôn ngoan kinh khủng. Họ chọn vùng Cát-sơ-mia vào tháng cuối xuân, mùa của nhiều trận bão tuyết. Nếu Kôvic trốn khỏi thủ đô, lội suối băng đèo xuống đồng bằng, trực thăng KGB bị mất hút thì KGB vẫn còn có thể trông cậy vào một đồng minh vô cùng đắc lực của tạo hoá, đó là bão tuyết. Gặp bão tuyết ở lưng chừng núi thì Kôvic toi mạng như chơi…

-Thảo nào…

Myriam buột miệng « thảo nào », gương mặt hơi tái.

Nagúpta vội quay lại:

-Cô nói gì?

Văn Bình đỡ lời nàng:

-Cô Myriam khen cảnh bên dưới đẹp ghê!

Nagúpta gật gù:

-Vâng, tháng này là một trong những tháng phong cảnh đẹp nhất. Ra khỏi đường đèo Ba-ni-hal, thì chỉ hơn trăm cây số đến Sờri-naga. Chắc ông đã ghé Thụy Sĩ, cảnh đồi núi ở đó tuyệt đẹp, nhưng so sánh với Sờri-naga thì còn thua xa vì Thụy Sĩ không có cảnh trên bến dưới thuyền thi vị. Phi cơ đang xuống thấp, ông bắt đầu nhìn thấy mái nhà rồi đấy. Mái nhà ở đây thật lạ lùng. Nó được trát bằng đất, mùa đông thì tuyết và mưa làm ẩm ướt, bước sang xuân thì cỏ mọc xanh rì, sau đó đến hoa nở, đủ loại hoa sặc sỡ…

Văn Bình bắt chước gật gù theo Nagúpta. Bằng đuôi mắt, chàng nhận thấy Myriam đang liếc trộm chàng. Chàng đọc được tia mắt biết ơn của nàng. Nàng biết ơn vì chàng đã cứu nàng đúng lúc. Tự dưng, chàng cảm thấy cõi lòng xao động.

Giòng sông Jờ-hê-lum hiện ra dưới cánh phi cơ. Thị trấn Sờri-naga nằm ngang trên hai nhánh sông nước đục lờ đờ với 9 cây cầu gỗ hình thù cổ quái. Những ngôi nhà nhỏ xíu như búp-bề nối đuôi nhau dọc bờ sông, thuyền bè chạy san sát. Bên tay phải, một ngọn đồi hiểm trở vươn lên vòm trời ngập nắng. Văn Bình thấy rõ cầu thang đá và ngôi đền xinh xắn. Đây là đền thờ thần Tình yêu Sankaracharya. Hơn mười thế kỷ trước đạo Phật trong vùng thì thần ghé thăm và truyền bá tình đạo. Cát-sơ-mia đã là xứ tình yêu, nay lại thêm tình yêu của thần Siva nữa nên ai đã đến nơi khó thể trở về.

Phi cơ lượn nghiêng, mặt nước hồ Dal trong vắt như thủy tinh nổi bật trước mắt. Sông Jờ-hê-lum đục lờ lờ, nhưng nước hồ lại trong vắt vì gồm toàn nước suối. Hàng chục, hàng trăm sikara chen chúc trên hồ. Sikara là một loại thuyền nhỏ có thể chở được 4 người. Thuở xưa, các tiểu vương cấm ngoại kiều tậu nhà nên họ sống trên loại thuyền khác, những con thuyền lớn đầy đủ tiện nghi.

Bỗng Nagúpta cất tiếng:

-Ông đại tá ơi, ngay bên trái đấy, ông nhìn thấy chưa?

Nhìn thấy gì, hắn chưa nói rõ với chàng. Myriam ghé mắt sát ô cửa kính. Nagúpta giải thích:

-Hồ Dal rộng trên 30 cây số vuông, trên phi cơ nhìn xuống nó có vẻ nhỏ, nhưng đến nơi mấy thấy lớn. Chúng ta vừa bay qua vườn Tình, xưa kia hoàng hậu sai làm để nghỉ ngơi, và thưởng hoa. Xa hơn nữa là vườn Khoái Lạc, chỗ này nước còn trong hơn cả lọc, màu núi xanh biếc phù hợp với màu nước xanh biếc. Bờ hồ bên kia là suối Vua. Còn núi Lõa thể ở sau cánh phi cơ nên ta không nhìn thấy. May quá…phi cơ vừa đổi hướng. Núi này ở cách Sờri-naga những trăm cây số. Ở đây nhìn thấy vì nó rất cao, cao đúng 8 cây số. Trèo lên đỉnh là có thể quan sát được toàn vùng. Trước khi đến đó, ta phải qua hồ U-la (Wular), hồ lớn nhất không thua hồ Giơ-neo bên Thụy Sĩ. Công việc xong xuôi, nếu không gặp trở ngại, tôi xin tình nguyện dẫn ông đến vãn cảnh. Ở đó có một giống cá bay thật lạ, và những đàn chim ó nhiều màu sắc, trông cũng lạ. Lạ nhất là rừng thông…không phải rừng thông như ở các bãi biển đâu. Thông ở đây cao ba, bốn chục mét. Người ta đồn đãi các vì tiên ở trong rừng thông, luyện linh đan từ nhiều kiếp. Ai gặp được tiên thì sống mãi không già…

-Tại sao lại đặt tên núi là núi Lõa thể?

-Dường như đỉnh cao của nó giống tấm thân phụ nữ trần truồng.

-Ông lên tận đỉnh lần nào chưa?

-Chưa. Tôi trèo vài ba lần, và lần nào cũng đầu hàng vô điều kiện. Núi Lõa thể trèo rất khó, trèo trong tháng này còn khó gấp bội vì những tảng băng bắt đầu tan thành nước, không thể phân biệt được đâu là vực sâu. Nhiều người đã sẩy chân và mất mạng (2).

Bánh cao su chạm phi đạo bê-tông, con chim sắt chạy rần rần một quãng rồi đứng lại.

Thủ đô Sờri-naga.

Ngoại trừ chiếc phi cơ thuê bao của Nagúpta, sân bay hoàn toàn vắng vẻ. Khí hậu Cát-sơ-mia chỉ mát mẻ từ cuối xuân trở đi. Mùa đông tháng rét hàn thử biểu tụt xuống dưới không độ là thường. Bởi vậy, mùa hè cũng là mùa du lịch. Văn Bình đến nơi một ngày cuối xuân, tuy trời đã nóng nhưng du khách còn quá thưa thớt.

Vào phòng đợi, Nagúpta hỏi Myriam:

-Tôi giữ phòng trước tại Oberoi. Cô về khách sạn nghỉ ngơi một lát rồi hướng dẫn chúng tôi đến gặp tướng Kôvic được không?

Myriam đáp:

-Như thế càng tiện cho tôi. Vì Kôvic hẹn tôi tại đó.

Nagúpta trố mắt:

-Tại Oberoi?

Rồi không đợi nàng trả lời, hắn càu nhàu:

-Chết tôi rồi… hẹn tại Oberoi mà cô không chịu báo trước. Nhân viên địch túc trực ở đó nhan nhản. Để tôi liên lạc điện thoại ngay với quản lý. Hắn quen tôi khá thân.

Nagúpta hối hả tiến lại quầy điện thoại. Khách sạn tân tiến này tọa lạc cách sân bay 20 cây số, và cách trung tâm thành phố 7 cây số trong một khu vườn lớn, dọc một con đường, mệnh danh là đường Đại lộ (Boulevard Road). Công ty Oberoi mua nó của một tiểu vương. Nó gồm 76 phòng, ban đêm có khiêu vũ. Có cả nơi tắm riêng biệt và sân chơi « gôn » riêng biệt ở bờ hồ. Và nó được coi là khách sạn sang trọng bậc nhất.

Bọn cận vệ của Nagúpta chia nhau đứng rải rác, vẻ mặt lầm lì nghiêm trọng. Nagúpta hỏi tên đứng gần nhất, da dẻ đen thui, lông lá phủ đầy tay:

-Có gì lạ không?

Gã thuộc viên lắc đầu:

-Thưa không.

Cả ba chiếc xe hơi đậu sẵn bên ngoài phi cảng đều thuộc kiểu Hin-man vuông vức, và thấp lè tè do Anh quốc sản xuất. Cả ba đều sơn màu kaki. Và đều cũ kỹ như nhau. Nhưng khi nghe tiếng máy nổ, Văn Bình biết đây là loại xe tốt, có thể phóng nhanh không thua Mét-xê-đét của Đức. Chàng nghĩ thầm « xe KGB sô viết có khác… ».

Bọn cận vệ ngồi chồng chất trong hai xe hơi đầu và cuối, chiếc xe giữa được giành cho Văn Bình, Myriam, Pisa và Nagúpta. Dường như Myriam cố ý trì chậm, chưa chịu trèo lên để được ngồi sát Văn Bình ở băng sau.

Tài xế chạy chậm nên Văn Bình tha hồ quan sát cảnh vật. Chàng không lạ gì Cát-sơ-mia nhưng đây là lần đầu chàng được thảnh thơi ngắm nghía những cây hạnh nở hoa đỏ và những cái hồ lớn nước trong xanh nở đầy hoa sen, sen hồng sen trắng chen nhau. Sen ở đất Thần kinh bên nhà nổi tiếng tròn trịa và xinh đẹp, song về kích thước thì thua xa sen ở đây. Hương thơm của hoa sen quyện vào không khí một mùi vị đặc biệt khiến lồng ngực Văn Bình trở nên nhẹ nhõm.

Tuy thời tiết đã chuyển sang mùa hạ, khí trời bắt đầu dễ chịu, đồng ruộng hai bên đường vẫn vắng người canh tác. Cát-sơ-mia là « thung lũng hạnh phúc » có khác, dân cư chỉ nghĩ đến hạnh phúc nên đâm ra lười biếng.

Xe hơi bóp còi inh ỏi để tránh một đoàn tông-ga đang nghênh ngang giữa đường. Tông-ga là xe do ngựa kéo. Tài xế thắng lại, rồi gài số một, chạy rè rè một quãng đoàn tông-ga khệnh khạng mới chịu dạt sang bên. Myriam ngó đầu ra ngoài cửa xe nhìn thấy mấy gã đàn ông cởi trần trùng trục, hút thuốc phì phèo, trên lưng có những vết trầy trụa như từng bị phỏng lửa. Nàng tỏ vẻ sửng sốt, và nắm tay Văn Bình:

-Họ là tù khổ sai, phải không anh?

Bộ mã đồ sộ của bọn đàn ông cởi trần trùng trục đang ngồi nghênh ngang trên đoàn xe tông-ga làm mọi người chú ý. Họ đều cao như người Bắc Âu, đứng bên họ Văn Bình chưa thấm tháp vào đâu. Văn Bình đoán họ là dân bộ lạc đô-gờ-rát, nghĩa là cùng gốc gác với Nagúpta. Khỏe mạnh. Dai sức. Và giỏi võ.

Nagúpta trả lời thay Văn Bình:

-Bậy nào. Họ đâu phải là tù khổ sai.

Myriam nói một cách ngây thơ:

-Thấy họ ở trần, lưng đầy vết thẹo ngang dọc nên tôi tưởng họ là tù khổ sai bị đánh đập…

Nagúpta cười ròn:

-Không phải đâu. Phần đông nông dân ở đây đều mang lưng thẹo như họ. Mùa đông Cát-sơ-mia rất lạnh nên muốn chống lạnh, họ phải đeo kăn-gri trên lưng. Kăn-gri là lò sưởi tí hon làm bằng cái rổ đan sơ sài, bên trong lót tôn kẽm, và đựng than hồng. Nông dân thường đeo lò sưởi kăn-gri mỗi khi ra ruộng. Sức nóng của miếng tôn kẽm làm da lưng trầy trục thành thẹo.

-Trời ơi, thiếu gì cách mà phải làm như vậy?

-Vì đây là xứ nghèo lại chậm tiến. Vả lại, họ mặc đồ len chăng nữa cũng vẫn lạnh như thường. Hẳn cô đã nghe danh đồ len bằng lông dê cái Cát-sơ-mia. Lông dê cái tỏa sức nóng kinh khủng. Lông bụng nó còn tỏa sức nóng kinh khủng hơn nữa. Thế mà đồ len bằng lông bụng dê cái chỉ là trò hề trước khí lạnh ở đây. Chỉ có lửa than mới chống lại nổi … Hồi còn trẻ, tôi cũng đeo lò sưởi trên lưng như họ, và tôi rất khoái. Tuy nhiên, nếu chỉ bị thẹo lưng mà giỏi môn nội công thì bất cứ ai cũng khoái.

Myriam hơi kinh ngạc:

-Những vết thẹo do than cháy đỏ gây ra trên lưng cũng liên hệ đến môn nội công trong võ thuật ư?

Nagúpta vẫn cười ròn:

-Người ta đồn đại Cát-sơ-mia là xứ có nhiều bí mật kỳ quặc. Lời đồn này không ngoa chút nào. Một trong các bí mật kỳ quặc và lý thú là thói quen đeo kăn-gri. Nhờ đeo lò sưởi kăn-gri, nông dân đô-gờ-rát đã tạo được lớp da chai lì, véo đánh không biết đau. Những võ sĩ luyện nội công dùng kăn-gri nóng bỏng áp vào các huyệt xúc cảm, dần dà các huyệt này trở nên chai lì như làn da trên lưng, dẫu bị đánh atêmi cũng không bị thương tích. Do đó, võ sĩ đô-gờ-rát rất giỏi chịu đau và giao đấu dai bền hơn võ sĩ các nơi khác.

-Ông cũng là võ sĩ đô-gờ-rát?

-Dùng danh từ võ sĩ e hơi quá đáng. Tôi chỉ ti toe vài ba đường quyền, và am hiểu cách vận công sơ đẳng, thế thôi. Cô đừng ca ngợi tôi, trò múa rìu qua mắt thợ ấy làm tôi xấu hổ.

-Ông là võ sĩ cừ khôi, đáng được khen, có gì ông xấu hổ.

-Xấu hổ lắm chứ! Vì tài nghệ của tôi chưa đáng làm môn sinh của đại tá Z.28.

Văn Bình nhún vai:

-Hừ, đừng nói nhảm.

Nagúpta tỏ vẻ khoái trá, vung bàn tay đập vào đùi Văn Bình. Không biết hắn cố ý hay vô tình chạm da thịt chàng. Sự cọ sát này cho thấy Nagúpta là cao thủ về ngoại công. Pisa lừ mắt trách móc Nagúpta. Hắn vội rụt tay, miệng suýt soa:

-Xin lỗi đại tá.

Văn Bình không đáp vì đoàn xe đã đến nơi. Oberoi là lữ quán hạng nhất, lại tọa lạc ở nơi yên lặng, có phong cảnh hữu tình nên du khách ngoại quốc thường thuê phòng tại đó, mặc dầu sự hấu hạ, cũng như giá trị của thực đơn của nó chẳng hơn gì mấy lữ quán hạng nhì, rẻ tiền hơn, như Nêdu gồm 91 phòng, và Park 30 phòng.

Các khách sạn ở đây mở cửa đón khách từ đầu mùa hè đến cuối mùa thu. Bọn Văn Bình đến vào đầu xuân nên tứ phía còn vắng vẻ, ngoại trừ 3 chiếc xe Hin-man vuông vức sơn màu kaki ra, không thấy xe hơi nào khác của du khách.

Bọn cận vệ của Nagúpta dàn thành hình vòng cung, như để làm lá chắn chống lại cuộc tấn công của kẻ địch vô hình. Một số phòng ở lầu nhất đã được dọn sẵn. Phòng giành cho hai người đàn bà, Myriam và Pisa, ở mút hành lang, nhìn ra hồ nước xanh. Phòng của Văn Bình mang số 15, kế cận phòng của Nagúpta. Khi được biết số phòng của Văn Bình, Myriam bỗng giẫy nẩy:

-Không chịu đâu… Anh phải lấy phòng khác, tôi mới bằng lòng.

Thái độ của Myriam làm mọi người ngạc nhiên. Văn Bình là người ngạc nhiên hơn hết, song như thường lệ chàng không để lộ ra mặt cảm nghĩ của chàng. Chàng chưa hề bàn bạc với Myriam là sẽ chọn phòng nào trong lữ quán Oberoi. Trong thời gian từ khu đền đài cổ xưa lên Cát-sơ-mia, sự giao thiệp giữa hai người chỉ được đóng khung trong bầu không khí lịch sự, gần như khách sáo. Chàng chưa hề có ngôn ngữ hoặc cử chỉ nào thân mật quá trớn. Tại sao Myriam nũng nịu đòi chàng đổi số phòng?

Myriam liến thoắng giải thích với Nagúpta:

-Sự thật như thế này… đại tá Văn Bình đánh cuộc với tôi, trong trường hợp phòng trọ mang số nếu đúng là số 15 thì tôi thua gấp 10, tức là tôi phải trả đại tá những 500 mỹ kim…Tôi tưởng đại tá chơi trò may rủi, ngờ đâu các ông đàn ông đã ngầm thỏa thuận với nhau…

Nagúpta nhăn mặt biện bạch:

-Phòng của ông Văn Bình mang số 15 chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Vâng, hoàn toàn ngẫu nhiên… chứ không do sắp xếp. Xin cô đừng nghi oan tôi, tội nghiệp…

Không riêng Nagúpta, cả Văn Bình cũng rước cái oan Thị Kính vào người. Chàng muốn cắn Myriam một miếng cho đứt « cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo » ấy, song phải lặng thinh khi thấy nàng mếu máo. Nàng đóng kịch tài tình đến nỗi Văn Bình biết rõ thủ đoạn mà vẫn xúc động. Té ra Myriam không phải là phụ nữ tay mơ…

Nhưng nàng không muốn chàng trọ tại phòng mang số 15 với mục đích gì?

Pisa xen vào dàn xếp:

-Tôi xác nhận là việc chia phòng hoàn toàn ngẫu nhiên. Chính tôi chọn phòng số 15 cho đại tá Văn Bình, Nagúpta không dính dáng tới và ông đại tá cũng không yêu cầu gì cả.

Quay sang Văn Bình, Pisa hơi nghiêm giọng:

-Dầu sao tôi cũng buồn lòng về việc ông đánh cuộc bằng tiền bạc với Myriam giữa lúc nguy hiểm ghê gớm có thể xảy ra. Từ 10 đến 20 thì ông thắng, nhưng từ bao nhiêu đến bao nhiêu thì Myriam thắng?

Văn Bình cứng họng không thể trả lời. Đánh cuộc 50 hoặc 500 đô la chỉ là sự bịa đặt trơ trẽn của Myriam. Song chàng không thể phanh phui sự thật. Pisa nhìn giữa mặt Myriam, giọng bắt đầu gay gắt:

-Đấy, cô tha hồ lựa chọn. Cô muốn nhường phòng nào cho ông đại tá?

Mặt Myriam tươi rói như mặt đứa trẻ làm nũng được quà:

-Phòng 25.

Pisa hỏi Văn Bình:

-Ông nghĩ sao?

Văn Bình cười trừ:

-Thì tôi lấy phòng 25. Tôi chẳng nghĩ sao cả.

Myriam thoăn thoắt trèo thang lầu. Nagúpta chắt lưỡi nói với Văn Bình:

-Lạ thật…nhiều lúc cô Myriam ngây thơ như con nít.

Văn Bình bước rảo theo Myriam. Chàng lướt qua mặt nàng, và lườm nguýt nàng. Nàng nhoẻn miệng cười và nói nhỏ, chỉ vừa đủ chàng nghe:

-Buồng tắm.

Chú thích:

(1) ông vua ngang ngược này là Aurangzeb (1658-1707), giòng giõi Mông cổ, xâm chiếm Ấn độ từ năm 1526 và mãi đến 1738 mới bị loại trừ.

(2) người ta chỉ có thể khắc phục được nó vào năm 1853. Trước đó đã có nhiều nhà trèo núi tử nạn.