Chương 5 ÁCH GIỮA ĐÀNG
Trong những tích tắc đồng hồ đầu tiên, Văn Bình có cảm tưởng toàn đảo đang lên cơn động đất.
Tương truyền Hạ uy Di là sản phẩm của nữ thần lửa Pelê. Các nhà địa chất không tin dị đoan song họ đều nhìn nhận là toàn đảo từ đáy biển trồi lên một triệu năm trước cùng với phún thạch của núi lửa. Bởi vậy, nếu có động đất thì cũng chẳng có gì lạ…
Sàn trực thăng nghiêng sang bên như thể một người khổng lồ nổi trận tam bành chộp lấy trực thăng và xô đẩy. Kèm theo sự rung chuyển là tiếng nổ ầm ầm. Tiếng nổ rõ ràng được phát ra ở dưới đất, ngay dưới trực thăng.
Văn Bình chỉ bị ngất ngư trong loáng mắt, đầu óc chàng vẫn tỉnh táo, tay chân chàng cũng không thay đổi vị trí. Bị gã y sĩ giả hiệu thôi thúc, chàng phải ngoảnh mặt vào vách trực thăng, tay giơ khỏi đầu. Chàng không nhìn thấy địch, tuy nhiên vành tai tuyệt thính của chàng đã phân biệt được các tiếng động hỗn tạp.
Nếu quả là địa chấn hoặc hỏa diệm sơn phun lửa thì sự rung chuyển khó thể ngưng nghỉ. Đằng này nó ngưng nghỉ tức khắc. Aloha ngã úp mặt xuống nền máy bay. Nhờ tấm thảm len khá dầy, nàng không bị thương. Văn Bình nghe tiếng nàng kêu « Chúa ơi ». Ngay sau đó là tiếng quát bực bội « ô kìa … » của gã đàn ông gầy nhom cầm súng.
Tại sao địch kêu « ô kìa »? Câu hỏi này được đặt ra trong óc chàng. Khi ấy óc chàng như óc điện tử IBM. Những câu hỏi hóc búa có thể được tìm ra đáp số với tốc độ của lằn chớp xẹt. Địch kêu « ô kìa » vì trong khi bị tung khỏi băng-ca, Aloha đã ôm nhằm chân hắn. Sàn trực thăng đang chệch 45 độ, hắn tạm mất thăng bằng, lại bị nàng túm ống chân thế tất hắn phải lảo đảo.
Văn Bình nghe rõ mồn một như được khuếch đại bằng loa ghi âm tiếng chân trượt trên thảm len. Hắn chỉ trượt chân nhẹ song Văn Bình đã biết tận dụng nhược điểm trời cho ấy.
Chàng đoán biết khẩu Bê-rét-ta nặng khoảng 700 gram, nghĩa là không lấy gì làm nặng, đã hạ thấp. Nòng nó tạm rời khỏi mục tiêu vì địch đang loạng choạng. Thân thể mất điểm tựa rất dễ bị quật ngã. Nếu chàng phản công đúng lúc và đúng chỗ, địch sẽ khó tiếp tục nắm giữ ưu thế.
Chàng bèn quay người nửa vòng, đồng thời hai chân chàng phóng ra.
Thế đá song phi hồ điệp này là một trong các đòn ruột của điệp viên Z.28. Chàng thường tung cước không cần nhắm. Và trong mọi trường hợp đều trúng mục phiêu. Gã y sĩ giả hiệu nhìn thấy hai ngọn cước hung hãn, nhìn thấy mà không thể nào ngáng đỡ. Dầu vậy, nhờ tài nghệ điêu luyện, và phản ứng thanh niên nhậm lẹ, hắn đã tránh được cái đá nhằm vào yết hầu, cái đá khả dĩ làm hắn vỡ nát cuống họng mà chết.
Hắn chỉ khỏi chết chứ không khỏi nằm bệnh viện để bó bột một thời gian dài vì ngọn cước chân trái của Văn Bình đã choang bả vai phải của địch. Ví thử xương quai xanh của hắn được đúc bằng xi măng trộn đá dăm và thép cứng cũng bị tiện phăng một miếng, huống hồ chỉ là xương thịt được luyện tập nhì nhằng. Bởi vậy, hắn chỉ kịp kêu ối một tiếng thảm thiết.
Rồi ôm vai đã gẫy nát khuỵu xuống sàn trực thăng.
Văn Bình nắm tay Aloha. Kinh mạch nàng vẫn bình thường. Nàng không bị hề hấn sau khi bị hất tung khỏi băng-ca.
Chàng hỏi:
-Em bị đau không?
Chàng cần hỏi vậy đề phòng trường hợp gẫy xương sống, chàng bế nàng xuống đất có thể làm nàng thiệt mạng oan uổng. Nạn nhân gẫy xương sống, nhất là gẫy đốt xương cổ, thường không có triệu chứng trầm trọng ngay sau khi gặp tai nạn. Sự kiện này hay xảy ra trên xa lộ, hai xe hơi đâm nhau, nạn nhân văng ra ngoài xe, nằm mê man trên đường. Những người đến cứu vội vàng khiêng đi, nếu xương sống bị thương nặng thì sự thiếu cẩn trọng này sẽ khiến nạn nhân bị tê liệt hoặc thần kinh hư hại trọn đời, hoặc chết. Do đó, trước khi chở nạn nhân, người tiếp cứu thường dò hỏi tình trạng của họ. Họ bất tỉnh thì phải rón tay nhẹ, và không được kinh động đến xương sống.
Aloha đáp:
-Không, em chỉ bị choáng váng sơ sài thôi. Bây giờ em đã khỏe.
Văn Bình ngồi xuống:
-Em chịu khó một phút. Để anh bế em.
Nàng từ chối:
-Phiền anh quá, em còn đi được.
-Không nên. Hơi nitrôgen đang tụ trong máu, em cần …
Ggiọng Aloha bỗng pha vẻ sửng sốt:
-Anh kìa … anh kìa…
Nàng chỉ tay ra bãi đậu trực thăng. Khi ấy ánh trăng chiếu xuống thật sáng nên chàng thấy rõ một người đàn ông béo và lùn đang lê bước khập khiễng. Người đàn ông này là Naha. Té ra hắn bị thương nơi chân. Tại sao hắn bị thương? Chắc là bị thương khá nặng vì hắn chỉ cà nhót được vài bước là ngã xụm xuống nền đất cứng.
Văn Bình nhảy phóc đến bên mình Naha. Sàn trực thăng cách mặt đất một xải tay rộng, Naha lại nằm cách 4 mét, vậy mà gót giày của chàng được thả xuống nhẹ nhàng. Đến chàng cũng không hiểu tại sao chàng lại hạ chân êm ái như vậy vì chàng vẫn còn đang mệt mỏi. Chất độc của sò chưa được tống xuất ra khỏi cơ thể của chàng …
Nguyên nhân khiến chàng đạt được thành tích khinh công tuyệt vời có lẽ là sự nôn nóng muốn hạch hỏi Naha để khám phá những bí ẩn. Dầu muốn dầu không, hắn chính là đầu mối của nội vụ. Hắn chở dụng cụ bơi lặn đến bãi Na-Pali. Những dụng cụ này bị phá hoại, mọi người suýt chết. Hắn quay về thị trấn, liên lạc với bệnh viện và công ty hàng không để thuê trực thăng. Và kết quả là một bọn gian nào đó, xuất hiện giả dạng hoa tiêu, y sĩ để bắt cóc Aloha, bắt cóc luôn cả chàng.
Chàng dự định tra hỏi Naha. Chỉ có hắn mới trả lời được những câu hỏi hóc búa. Bọn gian này là ai?
Nghe Aloha nói, Văn Bình lờ mờ đoán biết tung tích của bọn gian. Nàng nhắc đến Phòng 3 Joho Kyoku. Phòng 3 ở đây nghĩa là Phòng 3 trong cơ quan gián điệp của hải quân Nhật bản. Nhưng tổ chức Joho Kyoku đã bị giải tán sau đại chiến thứ hai, nước Nhật bị thua trận phải đầu hàng vô điều kiện, và bị quân lực Hoa Kỳ chiếm đóng. Vậy Joho Kyoku nào?
A, đúng rồi… nàng nhắc đến chiến dịch Z. Đó là một cuộc hành quân phối hợp tình báo với hải không quân Nhật nhằm đánh úp Trân châu cảng. Song cuộc hành quân Z đã được thực hiện. Trân châu cảng đã bị Nhật tấn công bất thần. Mấy chục năm trôi qua…
Có thể nào Aloha mới trên 20 xuân xanh lại liên hệ đến những hoạt động chiến tranh và điệp báo đã xảy ra từ 30 năm trước được không?
Naha, gã đàn ông béo lùn Naha trở nên báu vật đối với Văn Bình. Hắn nằm sóng sượt trên đất, gương mặt nhợt nhạt. Thấy chàng, hắn thều thào:
-Tôi bị trọng thương …
Văn Bình ngó vũng máu đỏ lòm dưới lưng hắn:
-Vì vụ nổ?
-Vâng. Tôi lấy lựu đạn, rút chốt, ném vào gầm trực thăng với ý định giúp ông đoạt súng của bọn chúng. Ông thành công, tôi mừng quá … nhưng chẳng may tôi lại trúng miểng…
-Cắm vào đâu?
-Chân. Chắc xương bị gẫy. Tôi mất nhiều máu quá, không khéo tôi chết, ông ơi.
-Chẳng sao, mất máu thì người ta truyền máu vào. Anh vịn vai tôi đi nổi không?
-Không nổi cũng phải nổi. Nhưng phải có xe đã.
-Xe của họ có đến chở không?
-Có. Tài xế đang ngồi đợi. Ông đi hết ruộng mía này, đụng con đường nhỏ lót đá sỏi đàng hoàng. Đường nhỏ độ 2 mét. Một bên là mía. Bên kia là đồng trống. Tài xế đậu xe cách khúc rẽ gần 50 mét. Trời gió nhiều, ruộng mía lại rậm rạp, tài xế không nghe được tiếng nổ đâu. Cho dầu hắn nghe được cũng chẳng sao. Hắn còn trẻ măng, khoảng 18-19 thôi…
-Hắn có súng?
-Chắc không. Nhưng tôi nghĩ là hắn sẽ không nghi ngờ. Tôi vừa dặn hắn cho máy xe nổ.
-Cám ơn anh. Anh chịu khó một lát. Tôi sẽ lái xe lại đón anh và cô Aloha.
Naha tỏ dấu ưng thuận bằng tiếng rên não nuột. Văn Bình chưa khám vết thương của hắn, nhưng căn cứ vào số máu đọng thành vũng, chàng đoán biết là hắn rất mệt. Còn đau đớn hay không lại là chuyện khác. Hắn vốn mắc bệnh ba hoa chích chòe, khỏe như vâm hắn còn kêu la oai oái, phương chi cặp giò đầy thịt của hắn lại bị miểng sắt xuyên thủng. Nếu hắn không bị thương, chàng đã bắt hắn khai hết. Thật phiền… dầu sao hắn cũng là anh họ của Aloha. Vuốt mặt phải nể mũi…
Vả lại, Aloha đang cần được đưa vào bệnh viện cứu cấp.
Chàng bèn nhún vai, bước về nơi đậu xe hơi.
Những cây mía dài, cong, lớn gần bằng cánh tay, xếp thành bức tường màu đỏ kiên cố, gió đồi luồn qua kêu vi vu. Mai đây, rừng mía um tùm sẽ bị chặt sát gốc chở về nhà máy ép đường. Diện tích hàng chục mẫu bị trơ trụi không khác cô gái quen mặc quần áo che phủ tấm thân gầy guộc mà bị thoát y miễn cưỡng.
Đột nhiên chàng sống lại quá khứ.
Quá khứ của Văn Bình là con sông nước lũ để bơi lội quanh năm, là những cánh rừng đầy rắn rết, thú dữ để săn bắn thỏa thích. Nhưng quá khứ của chàng cũng là những rừng mía, hàng ngàn hàng vạn bụi mía vàng đỏ san sát chạy dài trên mấy cây số giữa một vùng có nhiều đồi núi hiểm trở. Ban ngày nóng chảy mỡ, ban đêm lạnh thấu xương tủy. Nhiều khi có những sợi tuyết trắng rơi lác đác trên đỉnh núi.
Nơi trồng mía này là một phần quê hương của chàng. Hồi nhỏ, cậu bé Văn Bình thụ giáo một ông thày võ nghiêm khắc. Hà khắc có lẽ đúng hơn. Dường như thày võ này là bạn của phụ thân chàng. Ông thày không nói, phụ thân chàng cũng không nói, và chàng cũng không hỏi. Thật ra, chàng muốn hỏi nhiều lần mà không dám mở miệng vì ông thày chúa ghét sự tò mò, nhất là sự tò mò không cần thiết, và không đúng chỗ.
Trường võ được dựng bên rừng nên hầu hết các môn dạy của ông thày lập dị đều không nhiều thì ít đượm mùi mía. Môn ruột của ông là hội công, hao hao với võ karatê Xung thằng. Ông không sai môn đệ đánh vỡ gạch ngói, hoặc đá. Môn sinh từ lớp dưới lên lớp trên phải trải qua những kỳ sát hạch … chặt mía. Ông thày cho một số giây phút nhất nhất định, tối thiểu là phải dùng sống tay để đốn ngã bao nhiêu cây mía. Thoạt đầu, nhiều cậu tưởng bở, con nít cũng bẻ được mía huống hồ thiếu niên võ sinh. Đặc điểm của mía là ròn. Mía càng ngon thì thân nó càng ròn.
Eo ôi, mía của ông thày chẳng ròn tí nào. Không riêng gì chàng, mọi võ sinh khinh địch đều đinh ninh nó là mía Triệu Tường (1), chỉ búng nhẹ là gẫy răng rắc. Không dè nó dai. Dai vô tả. Dao bén phải biết cách xử dụng chặt loại mía dai này mới chịu đứt. Đằng này chém bằng cạnh bàn tay thì thất bại là cái chắc. Trong khi ấy, ông thày già lụ khụ đưa bàn tay nhẹ nhàng, nhẹ nhàng như vuốt ve, nhẹ nhàng như đùa bỡn là cây mía đứt làm đôi.
Phép chặt mía kỳ lạ này được ông thày gọi là cam giá công. Kể ra danh từ cam giá công không do ông thày sáng tác. Nghệ thuật đẵn mía không cần dao phát xuất từ một sắc dân thiểu số giòng giõi Trung hoa, sinh sống tại miền rừng rú Việt bắc. Ông thày được học cam giá công từ một bậc chân truyền, rồi ông thày rút lên núi, mai danh ẩn tích, luyện cam giá công thành một võ công vô địch (2).
Văn Bình là học trò giỏi nhất, ông thày thương yêu hết mực song ông vẫn chưa bằng lòng vì theo lời ông, ông đã đến tuổi gần đất xa trời mà chàng chỉ hấp thụ được một phần nhỏ của cam giá công.
Một hôm kia ông đau nặng. Biết không còn sống bao lâu nữa, ông cho mời phụ thân của Văn Bình đến dặn dò. Trời trăng lờn lợt, bọn học trò tụ tập bên đống lửa lách tách và vườn mía xum xuê. Ông thày nằm trên cái chõng, sai Văn Bình vận công chém đứt mấy bụi mía gần đó.
Ông thày chọn ba cụm khác nhau, khác từ màu sắc đến kích thước. Văn Bình tiện phăng những thân mía lớn một cách ngon ơ. Nhưng đến khi đối phó với cụm mía nhỏ còn lại, chàng thất bại. Hệt như buổi đầu chàng đến trường thụ huấn. Thân mía khẳng khiu mà mềm mại khác thường. Chàng chạm vào là nó bung ra chỗ khác. Chàng chặt luôn một hồi, bồ hôi vã đầm đìa, nó vẫn lượn khúc dưới gió, nghênh ngang trêu tức chàng.
Ông thày ra lệnh cho Văn Bình thu quyền về rồi phán:
-Con đừng ráng thêm nữa, vô ích, không chặt được đâu. Chặt được 2 trong 3 cụm, như vậy là con đã học được của ta 2 phần 3 kỳ thuật cam giá công rồi. Chỉ học 1 phần 3 đã có thể đoạt ngôi vô địch, phương chi con đạt những 2 phần 3. Ba cụm mía con vừa đánh, thứ lớn nhất tục gọi là mía tây, vỏ vàng, ruột mềm, chặt nó khó hơn mía rừng vỏ đỏ, thân cũng lớn không kém và đốt ngắn ngủn. Cụm thứ ba, cụm con chặt không đứt là cụm mía de, nhỏ leo teo trông như cây sậy, cho nên người ta còn gọi là mía lau. Thế mà mía lau bé tí, mía lau ốm nhách lại là thứ mía khó chặt. Ta chẳng còn gì để truyền cho con nữa vì ta sắp từ giã cõi đời. Ta chỉ muốn mượn 3 cụm mía tây, mía rừng và mía de để nhắc nhở các con một điều nên ghi nhớ nằm lòng: ấy là kẻ địch càng mảnh khảnh, càng bé nhỏ thì nó càng nguy hiểm. Trong đời, việc càng có bề ngoài giản dị thì đi sâu vào càng phức tạp…
Ông thày võ khả kính của cậu bé Văn Bình đã đi về cõi đất. Ông tạ thế năm nào, chàng không nhớ rõ vì sau buổi họp mặt dưới trăng ấy, trường võ được giải tán, ai về nhà nấy. Ông thày tuy mất nhưng lời ông dạy vẫn còn.
Văn Bình hơi rùng mình…
Ánh trăng đêm nay đang chiếu xuống rừng mía, và con đường trải đá dăm cũng từa tựa như ánh trăng của dĩ vãng. Hừ, bề ngoài những việc xảy ra chẳng có gì rắc rối, kỳ thật nó quá rắc rối.
Con đường rộng 2 mét mà Naha nói mở rộng trước mắt chàng. Đúng như hắn nói, một bên là mía, rặt một thứ mía de. Mảnh khảnh. Bé nhỏ…
Mía de rất ngọt, dùng để ép đường thì tuyệt. Nhưng mật ngọt … chết ruồi… Văn Bình nhìn muốn toét mắt mà không thấy chiếc xe hơi đậu sẵn và thằng tài xế trẻ măng ở đâu. Con đường thẳng băng, chạy dọc theo ruộng mía có đến nửa cây số, không bị gò đồng hoặc khuỷu quẹo nào ngăn chặn. Nhỡn tuyến của chàng sáng quắc, một chiếc xe hơi nhỏ xíu cho trẻ con chơi cũng được ống kính thiên văn nhạy cảm trong mắt chàng chụp rõ từng nét, phương chi chiếc xe Hoa Kỳ khổng lồ, nặng hơn tấn rưỡi và sơn đen lù lù trên đường trắng xóa.
Bên tay phải Văn Bình là đồng trống. Đúng ra là sườn đồi thoai thoải. Chân đồi xa tít đằng xa, lấp lánh ánh đèn. Nó phẳng lì và trơn bóng. Khoảng rộng bát ngát này không được trồng trọt. Rặt cỏ non, một loại cỏ xanh tươi, mềm mại, cắt thật sát. Thì ra đây là sân « gôn ». Hạ uy Di có cỏ non rất đẹp, sân « gôn » nhan nhản, ở đâu cũng thấy. Sân nào cũng trải cỏ non. Dưới ánh trăng, thảm cỏ ngoan ngoãn bỗng tạo cho Văn Bình một cảm nghĩ khác thường. Chàng bỗng nhớ đến làn da mát rợi của đàn bà đẹp.
Làn da của Aloha không trắng trẻo. Đền bù lại, nó có khả năng ướp lạnh. Những buổi trưa nắng chang chang, và những đêm dài nóng bức không có gió, được ôm cái máy lạnh êm ái này vào lòng thì …
Văn Bình không thể tiếp tục dòng tư tưởng lãng mạn. Chàng đang thèm cơn lạnh dễ thương thì đây khí lạnh ghê gớm dâng đầy tạng phủ.
Chàng lẩm bẩm:
-Không khéo mình bị …
Một tiếng nổ lớn vang rần sau lưng chàng. Nơi phát ra tiếng nổ là bãi đậu trực thăng.
Chàng quay phắt lại. Hai chân chàng phóng nhanh không thua nước rút con tuấn mã vô địch. Trong giây phút, chàng đã về đến nơi Naha nằm chờ hồi nãy.
Hồi nãy, nghĩa là cách đó chưa đầy 2 phút…
Mới 2 phút đồng hồ mà quang cảnh đã hoàn toàn đổi khác. Nơi Naha oằn oại, rên rỉ, chỉ còn lại vũng máu.
Naha đã biến đâu mất.
Hắn nói bị miểng lựu đạn xuyên bắp chân, đứng không nổi chứ đừng nói là đi nữa. Vậy mà hắn đã vù một mạch. Hắn bị bắt ư? Có thể. Bọn gian chờ chàng đi khuất sau đường rẽ rồi xuất hiện. Naha đã bị liệt phần dưới, không thể nào kháng cự hữu hiệu.
Nhưng … nhưng nếu bọn gian trở lại để bắt Naha, tại sao chúng không tiếp cứu đồng lõa của chúng còn mắc kẹt trên trực thăng?
Tiếng nổ chàng vừa nghe là một trái lựu đạn. Lựu đạn được ném vào thùng xăng nên chiếc trực thăng tối tân trở thành lo lửa. Lửa sáng rực một vùng. Văn Bình chạy lại gần. Chàng rún người sửa soạn nhảy lên trực thăng. Aloha ở trên đó. Cho dẫu chàng bị phỏng, cho dẫu trực thăng có thể nổ tung, chàng cũng không được quyền khước từ. Chàng phải cứu nàng. Cho dẫu hy sinh tính mạng…
Nhờ đống lửa sáng như ban ngày, chàng nhìn thấy rõ mồn một. Ô kìa, cái băng-ca bằng vải kaki dầy màu lục được đặt gần cửa trực thăng đã không cánh mà bay. Cả Aloha cũng không cánh mà bay.
Chỉ còn lại hai khối thịt nằm vật trên sàn máy bay trải nệm len hãm thanh màu sặc sỡ. Văn Bình nhắm lại một mắt cũng không thể nhìn sai. Hai khối thịt tênh hênh này là gã hoa tiêu trực thăng to con và gã y sĩ giả hiệu gầy nhom. Một tên đã chết đứ đừ. Gã gầy nhom mặc áo choàng trắng còn sống. Những lưỡi lửa đỏ ối đã bắt đầu liếm thân áo bờ-lu của gã gầy nhom. Văn Bình thấy hắn lồng lộn, vùng vẫy mạnh mẽ. Như vậy, nghĩa là hắn thật còn sống. Bạn hắn tiếp tục nằm thẳng đơ, mặc cho thần hỏa hoành hành…
Văn Bình đang nghĩ phương kế đưa gã gầy nhom ra khỏi lò lửa tàn khốc thì một tiếng nổ khác nổi lên. Chàng phải quăng mình, dán ngực xuống nền đất. Chiếc trực thăng rùng mình thật mạnh. Rồi tan ra làm nhiều mảnh. May chàng nằm sát gần bụi mía, nếu không những khúc sắt bén nhọn từ trực thăng văng ra đã cắt đứt xương thịt chàng. Một cái ghế lớn còn nguyên dây lưng da an toàn bay vèo qua đầu chàng, chỉ cách trũng gáy một gang tay.
Đùng đùng… đoàng đoàng… Nhiều tiếng nổ lớn nối đuôi nhau. Văn Bình chờ loạt nổ im lặng mới ngồi nhỏm dậy.
Chàng không còn thắc mắc gì nữa: cả Naha lẫn Aloha đều không cánh mà bay.
Chàng cần Naha, nhưng giả thử hắn biến mất cũng chẳng sao. Chứ còn Aloha… Bệnh trạng nàng còn trầm trọng khả dĩ đe dọa đến tính mạng nữa. Tuy nhiên, nàng phải có mặt tại bệnh viện càng sớm càng tốt. Bằng không, nàng có thể bị tê liệt một phần cơ thể.
Chàng chạy thật nhanh ra đầu bên kia bãi đậu trực thăng. Nơi ấy cũng là sườn đồi. Nhưng không phải là sân chơi « gôn » trồng cỏ non tươm tất. Văn Bình thấy một con đường ngoằn ngoèo. Một chiếc xe hơi đen đang chạy ở lưng chừng đồi. Con đường uốn khúc chữ chi nhiều lần nên tuy chiếc xe hơi đen không cách bãi đậu bao xa mà tính theo chiều dài con lộ thì đến một cây số. Trên xe chắc có Aloha, và anh họ béo lùn bô lô ba la của nàng. Bọn gian cùng đi gồm những ai? Văn Bình không biết. Naha bị bắt hay đã tự ý hợp tác với bọn gian, chàng cũng không biết Naha thật lòng hay đòn phép.
Về câu hỏi này, Văn Bình có thể giải đáp: Naha chẳng thật lòng chút nào. Chiếc xe đậu một nơi, hắn lại dặn chàng một ngả. Chàng nghiến răng tức tối. Phen này gặp hắn, chàng sẽ bẻ gẫy chân hắn. Thì ra hắn chẳng hề bị thương. Hắn giả vờ bị trúng miểng lựu đạn để phỉnh gạt chàng. Kế hắn chơi chàng xưa như trái đất: đó là kế « điệu hổ ly sơn ». Chàng tung hoành từ đông sang tây trong bao nhiêu năm, mái tóc sửa soạn lấm chấm muối tiêu, vậy mà Naha dùng cái kế tầm thường ấy qua mặt chàng một cách dễ dàng.
Chàng mắm môi, đập nắm tay trái vào lòng bàn tay phải. Bãi đậu vắng tanh. Rừng mía vắng tanh. Sân « gôn » vắng tanh. Con đường ngoằn ngoèo dẫn xuống đồng bằng, làng mạc trù phú và ngoại ô thị trấn Trân châu cảng bên dưới cũng vắng tanh.
Chàng thấy bóng xe hơi. Nhưng ở tít đằng xa. Chàng không còn cách nào khác, ngoài cách đếm bước xuống đồi một mình. Mắt chàng đột nhiên thả đom đóm màu đen. Chàng sực nhớ. Chết rồi… bao tử chàng đã trống không, con tì con vị của chàng vốn là những bộ phận khó bảo. Chúng nó đang kêu rên ầm ầm. Đói khát, đói khát… Giá chàng lạc trong rừng thì còn chịu đựng được. Chàng lại đang phây phây gần thị trấn Trân châu cảng và Honolulu, thiên đàng hạ giới của sự ăn và sự uống…
Con đường toàn bụi là bụi. Bụi đất đỏ bốc lên theo bước chân của chàng. Khổ một nỗi, gió lại thổi ngược nên mỗi lần có chút đông phong phây phẩy mang theo hơi mát thần dược của biển rộng thì đống bụi vô tận lại bay ào ào, tấp đầy quần áo chàng, mái tóc chàng, và dĩ nhiên nó không quên mắt chàng, tai chàng, mũi chàng và miệng chàng.
Chàng bách bộ được nửa cây số thì trông thấy đường lớn. Chàng chưa có cơ hội dừng lại để lau bụi thì bọn bụi đỏ khốn khiếp lại ùa tới. Lần này, hai lỗ mũi của chàng bị nút kín. Bụi chui cả vào cuống họng làm chàng ho sặc sụa, và lần này gió xoáy cuốn như báo hiệu cơn bão. Bụi bốc càng nhiều hơn. Chàng đành rẽ vào ruộng mía.
Núp sau hàng rào lá mía dầy đặc, Văn Bình rũ gột hồi lâu mà không hết bụi. Mùi mía ngọt làm chàng rệu nước miếng. Chàng vốn sòng phẳng, không thích lươn lẹo của ai nhưng nghĩ kỹ thì ăn vụng vài cây mía do công ty Mỹ tư bản làm chủ cũng chẳng sao nên chàng chọn bụi ngon và ròn, dùng tay bẻ răng rắc, tự giải khát.
Vầng trăng giờ đây khá tròn và sáng. Đêm sắp khuya rồi đó, mình có bách bộ về thành phố thì xụm xương mới hy vọng đến nơi. Dân đảo không ưa thức khuya, 12 giờ đêm là tối đa. Đó là giờ đóng cửa những nơi chè chén và giải trí. Chứ nếu là tư nhân thì còn sớm hơn nhiều. Hạ uy Di là xứ của tình yêu thiên nhiên trên sóng vỗ, dưới khóm dừa, trong rừng mía, rừng thơm ngọt ngào. Hoặc trong phòng kín đáo và đam mê. Hạ uy Di không phải là xứ lấy đêm làm ngày. Những ai muốn làm con vạc ăn sương thì đừng bén mảng đến Hạ uy Di.
Văn Bình nghĩ thầm, xe buýt đã ngừng chạy, mấy chú taxi đã an vị trong nhà, xe hơi tư nhân còn chạy qua chạy lại rần rần trên đường song đừng hòng vẫy họ đậu lại. Trừ phi mình là mỹ nhân. Sau nhiều vụ đón đường hoặc dí súng làm tiền, các ông đực rựa bắt đầu ngán cả những bông hoa biết nói mĩ miều ban đêm đứng trên xa lộ để xin đi nhờ xe. Nói tóm lại, mình chẳng hy vọng về được trung tâm thủ đô bằng xe hơi. Chi bằng mình tạm nghỉ trong ruộng mía. Kế cận ruộng mía là ruộng dứa thơm phức. Mặc dầu ăn dứa rát miệng nhưng có ăn vẫn hơn.
Nghĩ vậy chàng thực hành liền.
Chàng đói ngủ đã lâu. Được dịp ngả lưng, chàng bèn kéo một giấc.
Thật ra, chàng không định ngủ đường, ngủ chợ. Nơi chàng ngủ phải là căn phòng đại lữ quán, nệm mút êm ái, cửa sổ mở thẳng ra biển mát rì rầm. Nhưng chàng không còn nhớ gì nữa.
Dựa lưng vào cụm mía, điệp viên Z.28 ngủ lúc nào không biết…
Những tia sáng rạng đông chiếu xuyên qua rừng mía lôi Văn Bình ra khỏi cơn mơ bất đắc dĩ. Chàng cảm thấy xấu hổ như cô gái nhà lành trốn đi ngủ đậu lần đầu. Mặc dầu nghề của chàng ngủ đậu là chuyện cơm bữa. Trong quá khứ, chàng từng ngủ đứng trên thang, chòm cây, ngủ ngồi trong kẹt đá, trong hầm phi cơ, ngủ bờ ngủ bụi thì có sao đâu?
Sở dĩ chàng ngượng ngùng vì công việc đang lỡ dở, lẽ ra chàng không được quyền ngủ. Nhưng thật ra không phải chàng muốn ngủ. Cơ thể chàng cần ngủ giống như tiềm thủy đĩnh ở đáy sâu cần ngoi lên mặt nước để xạc lại các bình điện đã cạn. Tại bãi biển Na-Pali, chàng bị sò độc chích, và chàng vận công tống độc. Tống độc không khác với đàn bà. Đây không phải là cách nói ví von, chớt nhả mà sự thật là vậy. Sau cơn hoan lạc, người đàn ông thường mệt phờ râu tôm, phần nhiều là quay mặt vào tường ngủ như chết. Ngủ như thế người ta gọi là ngủ bù. Sau khi vận công loại trừ chất độc của sò ra khỏi máu, Văn Bình bắt buộc phải ngủ bù. Chàng làm luôn một lèo 6 tiếng đồng hồ. Nhìn cườm tay trái chàng phát ớn lạnh.
Đã hơn 7 giờ sáng…
Nằm trong rừng mía cũng kín đáo như nằm trong phòng điều hòa khí hậu. Những bụi lá ngang dọc um tùm che gần hết ánh nắng mặt trời. Chàng nằm trong rừng mía Hạ uy Di, chứ ở nơi khác thì khốn to. Ở đây, kỹ nghệ ép mía được làm bằng máy, chừng nào mía mọc cao là người ta đốn luôn một lượt. Nhân công bản xứ lại rất … văn nghệ, nghĩa là lên giường ngủ thì thật sớm mà xuống giường ra đồng làm lụng thì lại thật muộn…
Bởi vậy, giấc ngủ triền miên của Văn Bình không hề bị quấy rầy. Chàng vẫn ngủ say kinh khủng nếu chàng không nghe tiếng síp-lê cảnh sát và kèn xe cấp cứu từ xa chạy đến nơi phát ra tiếng nổ và trực thăng bị cháy.
Văn Bình ngáp một cái suýt trẹo quai hàm. Chàng đã tự chế ngự mà tiếng ngáp cũng làm rừng mía sột soạt như thể một trận gió mạnh thổi qua. Hoảng hồn, chàng vội đứng dậy. Hạ uy Di rất hiếm rắn độc và côn trùng độc. Lệ thường, rừng mía ở đâu cũng có rắn. Mà rắn ở rừng mía lại dữ hơn rắn ngoài đồng trống. Nếu có rắn thì suốt đêm qua thì nó đã ăn chàng, và biết đâu khi mặt trời thức dậy, điệp viên lực lưỡng Z.28 chỉ còn lại cái xác không hồn…
Cổ chàng, cánh tay trần của chàng chạm phải lá mía. Trời, lá mía nổi tiếng sắc. Văn Bình bị quẹt ngang dọc nhiều đường dài. Bồ hôi đổ ra, những vết cứa này làm chàng son sót… Bất giác, chàng lại nhớ đến ông thày võ hồi chàng còn nhỏ. Chàng không biết tên thật của ông, ngay cả tên hiệu của ông cũng không có nốt. Dân trong vùng, và học trò của ông đều gọi ông là « ông thày Mía ». Ngoài nghệ thuật cam giá công dạy học trò đẵn mía bằng sống bàn tay, « ông thày Mía » còn bày vẽ nhiều trò khác liên quan đến mía nữa.
Sau nhà ông -một căn lều vắt vẻo trên sườn đồi đầy mây trắng, tứ phía trống hốc trống hoác không có tường, không có đồ đạc, ngoại trừ cái chõng tre ông dùng làm giường, và cái lư trầm ngày đêm khói tỏa nghi ngút để môn sinh khấu đầu lễ Tổ- có một khu vườn mía đặc biệt. Khu vườn này được rào lại cẩn thận bằng tre vầu vót nhọn, chỉ có một cổng ra vào độc nhất do đệ tử ruột của ông canh gác cẩn mật, không ai được đặt chân tới. Khí hậu trên đồi luôn luôn lạnh giá, ba tháng mùa đông thì lạnh giá hết chỗ nói. Hàn thử biểu lên đến 10 độ bách phân đã là ấm áp lắm rồi vậy mà những đêm rét buốt căm căm, « ông thày Mía » tập họp học trò ra sân để luyện tập. Riêng Văn Bình và một số ít thiếu niên khác được coi là ưu tú thì phải thao diễn cho đến khi mệt nhoài, bồ hôi vã ra đầm đìa mới được phép ngừng tay.
Và ngừng tay không phải là được vào trong lều nằm nghỉ. « Ông thày mía » dẫn cả bọn vào vườn mía đặc biệt sau nhà. Rồi ông ra lệnh cho học trò tiếp tục song đấu, quần đấu: hai người đánh với nhau, hoặc cả tốp xúm lại đánh đòn hội chợ một người. Người thường được ăn dòn hội chợ nhiều nhất vẫn là Văn Bình vì chàng được coi là môn sinh xuất sắc.
Những cuộc đấu phải diễn ra bên trong các bụi mía. Cậu nào cậu nấy bị lá mía cứa đứt da thịt, máu chảy dầm dề. Sau mỗi lần đấu trong vườn mía đặc biệt là ông thày cho khóa cửa vườn lại một thời gian để sửa sang lại những cụm mía gẫy đổ và vun sới cho những cụm mía mới mọc lên. Chừng nào vườn mía trở lại tươi tốt, um tùm như cũ thì ông thày lại tái diễn những trận đấu... kỳ quặc.
Cho dẫu không cần sửa sang lại vườn thì các môn sinh cũng hết xíu quách. Vì một vài ngày sau cuộc đấu, da thịt cậu nào cũng nổi lên những mảng đỏ dày cộm, ngứa ghê gớm, gãi thì chảy nước vàng ri rỉ. Có cậu da thịt còn căng mủ phải nằm mọp trong lều, nách và háng đầy hạch. Môn sinh nào có nhọt mủ thì được miễn tập trong vườn mía đặc biệt. Hồi đó, cậu nào được tha tập là sung sướng tột độ vì thức khuya, chịu rét đã quá khổ, thân thể sưng vù, đầy mủ còn khổ gấp mấy chục lần.
Văn Bình chỉ bị đỏ da chứ không căng mủ. Và chàng chỉ bị ngứa một tuần là khỏi. Kết quả là chàng được tuyển lựa để tham dự những trận song đấu, quần đấu kế tiếp. Gần một năm sau, con số võ sinh được tuyển lựa tuột xuống còn vỏn vẹn một mình Văn Bình. Không còn ai tập võ với chàng, « ông thày Mía » bèn song đấu với chàng.
Ông thày không giải thích tại sao lại bắt học trò tập luyện một cách kỳ quặc như vậy. Mãi sau này trở về nhà, Văn Bình thuật lại cho phụ thân nghe và phụ thân chàng giảng rõ đầu cua tai nheo chàng mới hiểu. Thì ra phương pháp tập luyện kỳ quặc ấy chẳng có gì là kỳ quặc. Những cụm mía sau nhà ông thày võ được trồng bón bằng thứ đất riêng tẩm rễ cây, vỏ cây, lá cây độc. Cây mía hút chất độc ghê gớm này để nuôi thân nó là mía-độc. Ông thày cho rào kín và canh kỹ là vì thế. Chất độc tụ dưới đất hợp với chất đường ngọt cố hữu của mía thành một hợp chất độc nhất vô nhị. Ông thày bắt môn sinh đấu trong rừng mía để da thịt chúng làm quen với chất độc.
Sau này khi Văn Bình trở thành điệp viên có hạng trong Sở Mật Vụ của ông Hoàng, vấn đề làm quen với độc chất cũng được đặt ra, và không riêng chàng, bất cứ nhân viên hành động nào của Sở cũng phải làm quen như chàng. Nhờ chàng được « ông thày Mía » tập luyện làm quen với độc chất từ thuở thiếu niên nên cơ thể chàng đã có sẵn rất nhiều kháng tố, và do đó chàng khỏi mất nhiều thời giờ và công phu tập luyện thêm.
Văn Bình rẽ lá mía chui ra ngoài…
Nơi chàng đứng vẫn ở lưng chừng đồi, và trước mặt, sau lưng bên trái, bên phải vẫn là rừng mía. Mía ở đây được chở về nhà máy ép đường E-oa ở sát bờ biển, bên kia Trân châu cảng. Nhà máy này khá lớn, du khách thường ghé thăm. Mỗi lần tạt qua đảo chàng đều không quên qua E-oa, chẳng phải vì chàng khoái ngắm những dụng cụ tối tân đồ sộ của nó, hoặc khoái học kỹ thuật làm đường được quay thành phim, chiếu cho du khách xem. Mà chỉ vì cái eo mỏng lét của một cô gái đa tình làm việc tại đó.
Eo của Aloha đã nhỏ, song còn thua eo cô gái ép đường. Văn Bình thè lưỡi liếm mép. Miệng chàng đắng chát. Được ngủ đẫy giấc, chàng khỏe dội ra. Tuy vậy, bước chân của chàng vẫn thiếu cứng cát vì từ hồi đêm đến giờ bao tử chàng chỉ đựng toàn trái cây (hệt như bao tử các ông tu sĩ), hết dứa qua mía, hết mía lại qua dứa…
Con đường lọt thỏm giữa rừng mía là con đường duy nhất xe cộ chạy được, nối liền vùng đồi núi hiểm trở ở trung bộ với cảng Trân châu. Nó được gọi là đường 99. Từ Oa-hia-oa (3) và căn cứ không lực Huy-lơ (4), nghĩa là từ trung bộ đảo đến cảng chỉ xa khoảng 10 cây số. Văn Bình nhẩn nha đi bộ một lát là đến nơi vì trực thăng đã đáp xuống ở nửa đường. Nhưng chàng lại không thích vận động cặp giò, có lẽ vì đang đói meo, đói muốn té xỉu. Chàng đành nép vào lề đường, kiên nhẫn chờ xe.
Xe cộ qua lại rần rần. Đợi một lát, thấy một chiếc xe buýt cao tồng ngồng. Chàng không vẫy taxi mặc dầu túi chàng đầy ắp giấy bạc lớn nhỏ. Taxi chạy nhanh gấp mấy lần xe buýt, thích hợp với công việc hỏa tốc của chàng. Nguyên nhân cũng dễ hiểu: chàng có vẫy mỏi tay, hoặc có la đứt cuống họng, taxi cũng không ngừng lại. Không tốp, không phải là tài xế taxi khinh miệt hành khách. Mà vì luật lệ ở đây, khác với luật lệ ở Sàigòn cũng như nhiều thị trấn khác trên thế giới, taxi không rước khách khơi khơi. Họ chỉ đậu hàng dẫy tại những bến nhất định. Muốn xài taxi thì chịu khó dời gót ngọc ra tận bến, hoặc gọi điện thoại.
Vé xe buýt là 25 xu Mỹ. Tài xế lái « suya » đã đành, họ còn khả ái nữa là khác. Xe buýt lại không có cảnh lèn như cá hộp nên Văn Bình thường đi xe buýt ở Hạ uy Di, hoặc thuê xe riêng. Năm thì mười họa chàng mới leo lên taxi.
Xe buýt chạy thẳng một lèo, đến cảng chàng sang chuyến khác, trực chỉ thủ đô Honolulu. Ngủ mấy tiếng đồng hồ rồi, chàng vẫn thích lim dim cặp mắt, dựa đầu vào thành ghế, không để ý đến những thắng tích và những tòa cao ốc ngất trời nối đuôi nhau hai bên đường.
Honolulu. Bến lành. Giống như cô gái ở tuổi lớn như thổi. Mới đó còn bé tí tẹo, mặc quần thủng đít, thấy « chú » đến chơi thì làm nũng đói chú bế ra vườn để tè và mua cà-rem, giờ đây đã thành giai nhân căng cứng, tròn trịa, cái gì cũng hấp dẫn, cái gì cũng tràn trề nhựa sống khiến người chú ngày xưa phải há hốc miệng… sửng sốt, kinh phục và … thèm rệu nước miếng.
Đảo Oahu nhỏ xíu, thủ đô Bến Lành bị kẹt cứng giữa biển và núi nên muốn bành trướng chỉ có hai lối thoát: theo chiều dài và chiều cao. Thoạt đầu là bành trướng theo chiều dài, cứ kéo mãi, kéo mãi nhưng chỉ được 40 cây số thì tắc tị, muốn lùi sâu vào đất liền thì bị những rặng núi trùng điệp ngăn cản nên người ta đua nhau xây nhà thật cao, cứ hàng chục tầng trở lên.
Khách sạn của Văn Bình tọa lạc trên đường Kalia. Đó là Làng Hiu-tơn (5). Lữ quán ở đây không giống những nơi khác, diện tích xây cất từ mấy mẫu trở lên, giữa vườn rộng um tùm, lưng đấu với biển cả xanh biếc. Ở Sàigòn hoa lệ, lữ quán hơn 100 phòng đã là thành tích chết khiếp, lữ quán của đảo mía lại có số phòng nhiều gấp chục lần.
Làng Hiu-tơn choán 8 mẫu tây đất, chỉ đi thăm cho hết đã rạc cẳng. Văn Bình ưa đến đây vì quen biết nhân viên trong ban giám đốc. Họ đã hiểu rõ tính tình chàng nên sẵn sàng chiều chuộng những lúc chàng bốc đồng. Chứ thật ra nói về sang trọng nó chưa phải là hotel hạng nhất. Mà chàng vốn là thân chủ độc quyền của các hotel hạng nhất bất cứ tại đâu. Giới hotel quốc tế mới liệt kê nó vào hạng bốn sao. Đứng trên nó còn loại 5 sao. Như đại lữ quán Ala Moana, cao xêm xêm 36 tầng, xoàng hơn nữa cũng phải là lữ quán Ilikai 27 tầng với hơn một ngàn phòng. Nếu chàng không khoái, chàng vẫn phải đến Hiu-tơn. Danh sách những nơi chàng trọ trên bờ biển Thái bình dương đã được văn phòng của Sở ghi rõ theo thứ tự ưu tiên, cái nào là số một, cái nào là số hai, chàng không được lấy phòng lung tung. Lý do vì an ninh. Ông Hoàng cần biết địa chỉ của chàng mỗi chuyến xuất ngoại để có thể liên lạc kịp thời…
Nói cho đúng, ông Hoàng chọn Hiu-tơn cũng không đến nỗi quá nghiệt ngã: nó gồm những 1.736 phòng được điều hòa khí hậu đàng hoàng, kèm theo bãi biển riêng và 6 hồ tắm đơ-luých. Ăn uống thì món nào cũng ngon lành, nấu kiểu nào cũng có, đó là chưa kể lữ quán chứa đựng đầy đủ tiện nghi thể thao, giải trí, tiệm bách hóa, bưu điện, và nơi cho thuê xe hơi nữa. Văn Bình là chúa lười, ở nơi nào được nằm liền tù tì trên giường, vươn nhẹ tay bấm chuông có mọi thứ là chàng hoan hô… cả tơi lẫn nón.
Quần áo của chàng không lấy gì làm tươm tất sau một đêm làm bạn với bụi đỏ và rừng mía. Tuy nhiên, dân chúng bản xứ, cũng như du khách đều thờ chủ nghĩa ăn mặc lè phè nên chàng lên phòng một cách trơn tru, không bị ai hỏi thăm « sức khỏe ».
Ách giữa đàng bỗng dưng dại dột quàng vào cổ, nếu không vướng mắc cô gái da ngăm ngăm tuyệt vời Aloha thì Văn Bình đã kiếm một nữ lưu trẻ đẹp, ôm ngang eo ếch nàng, ra bãi biển Oai-kiki nô đùa, yêu đương cho bõ những ngày, những đêm vất vả. Đằng này Aloha bị nạn. Hai lần bị nạn. Chàng đành tạm gác chương trình du hí để liên lạc với các bệnh viện tìm nàng. Sau đó là vụ « hành quân Z ».
Chàng tắm một trận đã đời trước khi gọi bồi. Mới 9 rưỡi sáng mà chàng đã còm-măng bữa ăn trưa vì chàng phải báo thù mười mấy tiếng đồng hồ đằng đẵng bao tử bị thất nghiệp.
Để báo thù đúng mức, chàng gọi món cá mahi-mahi được coi là ngon số dách. Mahi-mahi tức là món cá heo. Ghé đảo mà quên ăn cá heo khác nào người Việt ghé Cái Bè quên ăn cam sành, ghé Lái Thiêu quên ăn măng cụt vậy. Huýt ky nhập cảng chính gốc rất hợp ý với cá heo, và sau đó tráng miệng bằng măng cụt mới đã. Hạ uy Di là quê hương của dứa và mía, nhưng trái cây đoạt giải khôi nguyên phải là măng cụt. Nó đậm đà hơn măng cụt Lái Thiêu. Nó lại được trồng rất ít, không đủ để bán lẻ ra ngoài, dân bản xứ cũng không có mà ăn.
Văn Bình trịnh trọng cầm từng trái măng tròn trịa vừa được bồi bưng lên để ngắm nghía. Đĩa đựng bằng sứ màu cà-phê sữa thật loãng sóng nhịp với làn da nâu sẫm bóng loáng của trái măng. Chẳng hiểu sao nó lại bắt chàng mường tượng đến Aloha. Có lẽ vì thân thể nàng cũng có những múi cân đối tiết ra cảm giác ngòn ngọt, chua chua, mằn mặn.
Ruột gan chàng bỗng nóng ran. Cơn đói đang cào cấu dạ dầy chàng bị đẩy lui một cách đột ngột.
Chàng hừm một tiếng rồi lẩm bẩm:
-Khổ quá, mình phải kêu đại tá Pit, nhờ hắn giới thiệu với công an mới được…
Công an liên bang FBI là cơ quan bảo vệ an ninh khá hữu hiệu trên đảo. Nhiều lần qua đây, Văn Bình không còn là khuôn mặt lạ hoắc đối với các nhân viên cao cấp, nhưng chàng không mấy thân với họ. Và họ nể chàng, họ giữ miếng chàng thì đúng hơn. Bởi vậy, nếu thiếu sự đùm bọc của đại tá Pit, chàng ít có hy vọng được họ giúp đỡ để tìm ra nơi Aloha bị giam giữ.
Chàng gạt đĩa mahi-mahi khói bốc nghi ngút sang bên, sửa soạn bước lại bàn đêm đặt chiếc máy điện thoại xinh xẻo và nõn nà như cô gái dậy thì mặc bikini hở hang thì chuông điện thoại reng reng.
Văn Bình tần ngần một giây. Không ai biết chàng thuê phòng tại Làng Hiu-tơn. Ngoại trừ ông tổng giám đốc và Aloha. Về phần ông Hoàng, ông đã dứt khoát nói rõ là thời gian xả hơi của chàng chưa chấm dứt, và dầu có điệp vụ quang trọng đến đâu, ông vẫn cho phép chàng tiếp tục đổi gió.
Nhưng còn Aloha?
Chàng không tin là nàng gọi dây nói cho chàng. Giác quan thứ sáu nhậy cảm của chàng chớp lóe rần rần trong óc.
Chàng có ấn tượng tại họa lớn đang xảy ra…
Chú thích:
(1) mía Triệu Tường là một loại mía được trồng tại Thanh Hóa. Gốc nó đỏ chói, rất ròn, ngày xưa được dùng để tiến vua.
(2) trong chữ Hán, cam giá là cây mía.
(3) Wahiawa.
(4) Wheeler Air Force Base.
(5) Làng Hiu-tơn –Hilton Village Hotel, 2005 Kalia Road.