Chương 6 VĂN BÌNH DẠI GÁI ?
Văn Bình vốn là quán quân của sự bình tĩnh mà khi áp ống nghe vào tai, chàng lại hồi hộp, tim đập nhanh như khi chàng chạy đua nước rút. Chàng mong người gọi điện thoại là Aloha. Tuy vậy, lý trí cũng như linh giác của chàng lại đoan quyết là Aloha còn tuyệt vô âm tín.
Chàng thở phào vì ở cuối đường dây là giọng nói quen thuộc của một nữ nhân viên lữ quán. Nàng từng bị giải phẫu cuống họng sau một tai nạn xe hơi nên giọng nói trở nên rất trầm, hầu như khàn khàn:
-Thưa, ông có thư đặc biệt. Lẽ ra em sai bồi mang lên phòng cho ông. Xin lỗi đã làm rộn ông là vì tên người nhận đề ngoài bì thư không phù hợp với tên ông trong sổ thông hành nên …
Rầy rà ghê. Văn Bình hy vọng là người nhận không phải là chàng. Chàng không muốn nhân viên khách sạn biết tên thật của chàng.
Chàng bèn chép miệng nói dãn ra:
-Họ lộn rồi, cô ơi … từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, tôi chỉ có mỗi một tên.
-Thưa … em cũng giải thích như vậy. Em nói rằng ông đã ghé vào hàng chục lần, và lần nào cũng thuê phòng tại đây. Ông không còn cái tên nào khác ngoài tên ghi trong sổ thông hành. Nhưng người ta cứ khẩn khoản yêu cầu em hỏi lại ông. Nếu ông đúng là đại tá Z.28 thì chuyển thư lên.
-Đáng tiếc. Tôi không phải là đại tá Z.28.
-Thưa … thưa…
-Cám ơn cô. Phiền cô trả lại thư cho người gửi.
Văn Bình cúp điện đàm. Chàng ngồi bần thần giây lâu, đĩa mahi-mahi đang thơm ngạt ngào bỗng trở nên tanh tưởi. Chàng vớ chai huýt ky, khiệng luôn mấy ngụm. Uống hết góc chai, chàng đốt Salem, dựa lưng vào ghế bành, thở những vòng khói thơm mùi bạc hà lên trần phòng.
Cửa mở.
Gã bồi bưng cái khay bạc nhỏ xíu nghiêng đầu chào chàng. Bồi ở đây được huấn luyện đúng nề nếp, nghênh tiếp quốc tế, lễ độ mà không hèn mọn, vui tươi mà không chớt nhả. Hắn chìa cái khay bạc trên có phong thư. Chàng ném cho hắn tờ bạc một đồng. Lữ quán ở đây chỉ tính thêm 4 phần trăm tiền thuế. Sự sống theo lối Mỹ đặt nhẹ vấn đề buộc-boa nên Văn Bình thưởng công cho gã bồi một đô la đã là cử chỉ xộp. Chàng không tự nhận là đại tá Z.28, cô gái tổng đài điện thoại cứ phớt ăng-lê trao cho chàng. Đền bù lại, chàng cứ mở đại ra đọc (dầu sao, Z.28 chính là chàng đứt đuôi con nòng nọc. Chàng còn gì để phải thắc mắc nữa. Z.28 rõ lẩn thẩn)…
Bì thư bằng giấy trắng dầy, không đề tên người gửi, chỉ có một hàng chữ duy nhất viết tay khá bay bướm:
« Kính gửi đại tá Z.28, phòng … đại lữ quán Hiu-tơn ».
Bóc ra, thư đựng bên trong là tờ giấy màu hồng nhạt cũng viết tay. Tuồng chữ ngả khá bay bướm, với thữ t cao lênh khênh và chữ g móc tròn phía dưới…
« Anh Z.28 yêu dấu…
Chưa đọc anh đã biết người gửi là ai. Là em. Tên em dài giằng dặc nên anh đặt tên em là Aloha, cái tên ấy nghe hay ghê. Nhưng em viết thư cho anh hôm nay chẳng phải để khen ngợi hoặc cám ơn anh. Mà là để nói một chuyện khẩn cấp và quan trọng.
Đáng tiếc, em chỉ biết tên thật của anh khi đã quá muộn. Giá sau khi gặp gỡ anh, nhìn nhận anh là Z.28 thì đỡ lận đận cho em biết mấy. Dầu sao nếu anh là ai kia, không phải Z.28 thì em đã chẳng viết thư này. Anh là Z.28 tất thấy em bị chuyện không may, anh sẽ mạnh dạn can thiệp. Thiên hạ đã nói nhiều về anh, họ nói rằng càng nguy hiểm anh càng lăn xả vào.
Nhưng anh ơi, em lại không muốn anh làm gì cả. Về sức khỏe em gần bình phục hoàn toàn. Để anh khỏi băn khoăn, em nói rõ là em được đưa thẳng vào quân y viện Tripler’s, và em phải nằm ở đó hai giờ đồng hồ. Y sĩ điều trị cho biết tạng phủ em không bị hư hại, và sau một tuần lễ tĩnh dưỡng, em sẽ có thể lặn sâu đáy biển như cũ.
Những chuyện đã xảy ra không dính dấp đến chính trị hoặc một sự thù hằn nào. Em đã phỉnh gạt anh. Chắc anh không hẹp lòng mà sẵn sàng tha thứ.
Nguyên do của những chuyện này rất giản dị. Trên giấy tờ em chưa có chồng, song trên thực tế em đã ăn ở với nhiều người, và người chồng không chính thức gần đây nhất có bệnh ghen tuông nặng, hễ em lăng nhăng với ai là tìm cách mưu hại…
Lần này, em tưởng chồng em cũng chỉ ghen tuông như các lần trước. Em không ngờ ông ta đã bố trí giết cả em lẫn anh. Hồi hôm, Naha bị chồng em chặn đường dọa giết nên Naha đành phải đi theo bọn đàn em của ông ta đến Na-Pali giả làm nhân viên hãng trực thăng thương mãi để lừa bắt anh vào rừng mía gần cảng Trân châu để hạ sát. Kế hoạch ghê tởm này bị thất bại, nhưng chồng em đã nhanh tay đến bãi trực thăng áp đảo em và Naha.
Giờ đây em đã trở về với chồng em, và em đã cam kết bỏ thói trăng hoa bậy bạ. Anh đừng tìm kiếm em vô ích vì 2 lẽ sau đây. Thứ nhất, tính em không thích cái gì lâu bền, em yêu ai không được lâu, em lại hay quên, em có cảm tình đằm thắm với anh thật đấy, song trước anh, em cũng đã rung động hàng chục lần như vậy. Em sẽ quên anh như em đã quên hàng chục cuộc động cỡn đã diễn ra trong quá khứ.
Thứ hai, em sẽ quên anh. Nếu em không muốn quên thì chồng em cũng có đủ áp lực để bắt em vâng lời. Anh ơi, chiếc vòng san hô gia bảo em đánh mất dưới biển không phải là chiếc vòng thật. Chồng em đã tráo đồ giả từ lâu mà em không hay. Ông ta nói khi nào và chỉ khi nào anh rời đảo thì nó mới được quy hoàn. Hẳn anh đã rõ chiếc vòng này là sinh mạng của em, thiếu nó thì em sống cũng như chết.
Đọc tới đây, chắc anh đã biết em muốn gì, và em tin anh không làm cho em thất vọng.
Nếu anh còn nghĩ đến em thông cảm hoàn cảnh éo le của em, xin anh ra ngay phi thường. Máy bay ở đây cất cánh bất cứ giờ nào. Có nhiều công ty hàng không quốc tế hoạt động ở đây nên mua vé rất dễ dàng, chỗ ngồi luôn luôn dư dả. Em sợ phật lòng anh nên không dám mua vé trước. Em chỉ mạn phép giữ chỗ cho anh trên chuyến PAA đi Hoa Kỳ cất cánh trong vòng 45 phút, và trên chuyến JAL (1) đi Đông Kinh trong vòng 55 phút để tùy anh chọn, muốn qua Mỹ hay qua Nhật.
Trong trường hợp anh không rời đảo, em sẽ phải gánh chịu hậu quả. Em không nói rõ hậu quả ra sao song chắc anh thừa hiểu. Chồng em có sẵn tai mắt ở phi trường nên em thành khẩn yêu cầu anh đừng chọn những chuyến bay nội địa. Mặc dầu mỗi ngày có gần 100 chuyến bay từ thủ đô đến các đảo thuộc nội địa, chồng vẫn có thể kiểm soát một cách nhanh chóng và chính xác.
Hôn anh và…
…cám ơn anh.
Người đàn bà bất hạnh được anh đặt tên là Aloha ».
Văn Bình bâng khuâng buông lá thơ xuống nền phòng. Chàng vất điếu thuốc Salem, dí gót giày cho nát bét rồi thẫn thờ gấp tờ giấy lại làm tư.
Chàng uống thêm ly huýt ky đầy ắp, đứng tựa tủ gương đựng quần áo, nhìn qua cửa kính ra biển. Gian phòng được điều hòa khí hậu tối tân nên ngoài trời nắng chói chan mà trong phòng vẫn mát rợi. Bãi biển riêng của đại lữ quán Hiu-tơn được coi là một trong những viên ngọc quý trên bãi biển Oai-kiki thần tiên từ trong phòng nhìn ra. Văn Bình bỗng cảm thấy cuộc đời chàng nhỏ bé hẳn lại, và chàng như được chắp cánh bay bổng lên cõi thiên đàng, những chiếc cánh màu hồng như hàng hàng lớp lớp của những chiếc thuyền nhỏ màu hồng, căng buồm sọc, đang nhầp nhô trên là sóng biếc xa xa…
Văn Bình vốn thích chèo con thuyền buồm nhỏ, loại thuyền du lịch gồm hai người, một nam một nữ. Những buổi trời nắng như thiêu đốt trên bờ chạm cát là da thịt cháy bỏng mà khi ra khơi nước biển vô cùng dịu hiền. Hai người tìm mỏm đá vắng vẻ, kín đáo để buộc thuyền rồi tha hồ ngụp lặn yêu đương…
Chèo thuyền cũng như đọc truyện nhi đồng Tintin. Tờ báo trẻ em Tintin của Pháp thường tự hào bất cứ tuổi nào đọc cũng khoái, vì vậy ngoài bìa tờ báo được ghi giòng chữ « phục vụ bạn trẻ từ 7 đến 77 tuổi ». Chèo thuyền là thú vui thích hợp với người từ 7 đến 77 tuổi, càng lớn tuổi càng thấy cảnh trời cao biển rộng quyến rũ. Trẻ khỏe thì chèo thuyền nặng, già yếu thì chuyển qua thuyền nhẹ ai ai cũng chơi được. Ngoài lý do vận động thân thể, Văn Bình còn lý do thầm kín và hùng hồn để mê chèo thuyền: vì nó là phương pháp hữu hiệu nhất để giúp chàng duy trì bản lãnh đối với phái đẹp…
Nghĩ đến đó chàng bất giác mỉm cười một mình.
Tiếng chuông điện thoại cắt đứt giòng tư tưởng rí rỏm của chàng. 5 phút trước, chàng yêu cầu tổng đài lữ quán liên lạc với trung tâm viễn thông quân sự trên đảo Kau-ai. Chàng cần nói chuyện với đại tá Pit.
Cầm ống nghe, Văn Bình không alô, alô như thường lệ. Chàng cũng không xưng tên và hỏi người ở đầu dây là ai vì chàng biết rành rọt hắn là gã đại tá CIA được ông Sì-mít, cưng như trứng mỏng, và khét tiếng trong giới đồng nghiệp về vợ đẻ năm một sồn sồn như heo Viễn đông.
Chàng cười hể hả:
-Thế nào, đến đứa con trai thứ mấy rồi, đại tá?
Đại tá Pit có đôi tai nhớ được giọng nói mọi người. Giọng nói của Văn Bình đã trở thành một phần đời của Pit. Trong quá khứ, Văn Bình chỉ thốt tiếng ừ hoặc tiếng không cộc lốc, Pit cũng nhận được ngay. Thế mà lần này chàng tuôn cả tràng dài mà hắn vẫn im phăng phắc như cái ghế xi măng kê ngoài sân gần cửa sổ.
Một phút yên lặng.
Một phút dài bằng 10 phút.
Rồi từ đầu dây có tiếng đàn ông Mỹ, khô khan gần như thiếu học thức, từ nhỏ đến lớn chỉ quen nói tiếng lóng của giới chăn bò Viễn Tây:
-Tôi là Holơ, đại tá Holơ ở trung tâm viễn thông. Ông hỏi ai?
Văn Bình giật mình:
-Pit. Tôi hỏi đại tá Pit.
-Ông là ai?
-Là ai, thiết tưởng ông không nên biết làm gì.
-Xin lỗi. Tôi cần biết…
-Mất thời giờ quá. Pit ở đâu, phiền ông kêu hắn đến máy. Số điện thoại hắn cho tôi là số riêng của hắn. Của cái máy được đặt ngay trong phòng làm việc chỉ có hắn được dùng. Hắn đi vắng rồi hả?
-Thưa … thưa…
Gã đại tá Holơ bắt đầu biết thưa gửi đàng hoàng như con người văn minh. Văn Bình không còn duyên cớ để gắt gỏng nữa…
Chàng bèn dịu giọng:
-Nếu đại tá Pit không có mặt ở văn phòng thì chắc đang ở nhà. Phiền ông báo tin cho Pit là có bạn thân kêu. Bạn người Việt rất thân, ông chỉ cần nói vậy là hắn hiểu. Có thế thôi, kiếu ông nhé.
Văn Bình toan cúp, đại tá Holơ đã réo trong điện thoại:
-Thong thả, thong thả… ông ơi. Ông là … bạn thân của anh Pit… Vâng, tôi cũng là bạn thân và làm phụ tá cho anh Pit tại đây. Ông là … là… đại tá Z.28, phải không?
Đến lượt Văn Bình choáng váng. Chàng chưa hề vỗ ngực khai chàng là Z.28. Điều này có nghĩa là trục trặc đã xảy ra. Đại tá Holơ dường nhưng bị xúc động quá độ, bằng chứng là hơi thở của hắn mỗi lúc một thêm rồn rập trong điện thoại siêu tần số. Kể ra chàng cũng sửng sốt không thua hắn. Song le chàng có nhiều kinh nghiệm hơn, chàng lại biết chế ngự hỉ nộ ai lạc nên giọng nói của chàng vẫn bình thường.
Chàng đáp gọn:
-Phải.
Holơ cuống quít:
-Vậy anh là Z.28. Trời đất ơi, bọn tôi đang chờ anh muốn chết từ đêm qua đến giờ. Anh hiện ở đâu?
-Lữ quán Hiu-tơn.
-Đề nghị anh khóa chặt cửa phòng, lấy sẵn súng, nạp đạn. Tuyệt đối không mở cửa cho ai.
-Không sao đâu, anh Holơ ơi. Anh muốn tôi bế môn tỏa cảng để làm gì?
-Tôi không tiện nói hết trong điện thoại. Trong vòng 15 phút, tôi sẽ gõ cửa phòng anh. Đây, tướng mạo của tôi: cao 1m84, cân nặng 90 kí, 34 tuổi, tóc hung cắt ngắn, đeo kính cận thị gọng bạc, mặc thường phục sơ mi ngắn, xọc xanh, bỏ ngoài, quần trắng ống rộng, giày bố trắng…
Văn Bình muốn cắt lời hắn, song hắn có lối nói dính chùm lòng thòng nên chàng đành phải chờ hắn dứt câu.
Chàng nghiêm giọng:
-Anh Holơ, từ trung tâm viễn thông trên đảo Kau-ai, anh làm cách nào đến được phòng tôi trong vòng 15 phút?
Holơ đáp ngay:
-15 phút, đó là lo xa dọc đường bị kẹt xe. Tôi có thể đến sớm hơn nữa. Anh yên tâm, tôi sẽ ra lệnh cho cảnh sát rú kèn mở đường, nghĩa là tôi có mặt trước phòng anh trong vòng 10 phút.
-Anh đang có mặt ở đây?
-Vâng. Điện thoại kêu về trung tâm và tổng đài tại đó chuyển cho tôi. Chào anh.
Văn Bình đốt điếu Salem mới. Những điều Holơ vừa nói hé lộ cho chàng thấy một sự thật không có gì là khích lệ. Chàng phỏng đoán một bất hạnh nào đó đã giáng xuống đầu đại tá Pit. Chàng nhún vai mở cửa phòng. Holơ không thể biết rằng chàng không có tấc sắt trong mình. Dẫu có, chàng cũng không dùng.
Chàng nhìn dọc theo hành lang. Lữ quán rộng mênh mông, chàng chẳng thấy ai. Du khách còn đang bận ngủ, bận tắm biển, hoặc bận lang thang thở không khí mát lành trên đường phố, ít người ngấp nghé ngoài hành lang khách sạn. Văn Bình ung dung mở cửa phòng đối diện. Cửa được khóa đàng hoàng bằng ổ khóa tự động của Mỹ. Tuy nhiên, Văn Bình đã mở ngon ơ. Chàng khép hờ, rồi đứng nép bên trong nhìn ra.
Chàng khỏi phải đợi lâu. Kẻ địch vô danh đã hiện thành 2 gã thanh niên mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao vừa từ cầu thang bước lên. Qua khe cửa, Văn Bình thấy chúng rõ từ đầu đến xuống chân. Họ là người Hạ uy Di lai Nhật. Mới lai một đời vì những nét đặc điểm của người Nhật chính quốc vẫn còn nguyên vẹn. Họ trạc 25, 26 tuổi, bước đi nhẹ nhàng chứng tỏ được tập luyện võ nghệ. Dáng dấp họ cũng đầy vẻ tự tin, nghĩa là thuộc hàng cao thủ khi lăn xả vào nghề đấm đá chưa hề thua ai, hoặc chỉ thua rất ít.
Thời tiết trên đảo luôn luôn nóng nực, chẳng hiểu sao họ lại giam mình trong bộ com-lê. Dầu là hàng têrilen nhạt và mỏng không giữ nắng, họ cũng đổ bồ hôi xối xả. Nếu là quý ông tỉ phú già khằng hoặc mấy ngài trung niên bụng bự cần áo vét-tông để giấu thùng nước lèo vĩ đại thì còn có thể giải thích được, đằng này họ còn trẻ măng, họ mặc com-lê cũng không phải để trưng diện vì nếu trưng diện tại sao lại may rộng thùng thình như áo đàn bà mang thai. Chi tiết hơi khác thường này bắt Văn Bình suy nghĩ.
Tuy nhiên, chàng không có thời giờ tự hỏi và tự trả lời vì hai gã mặc com-lê đã gần đến phòng chàng. Tên mặc đồ xanh giang tay ra hiệu cho tên mặc đồ hung dừng lại. Cách ra hiệu chắc nịch này đã cho Văn Bình thấy hắn là kẻ chỉ huy.
Hắn chỉ cho bạn hắn cửa phòng Văn Bình, đoạn hắn nheo mắt, dường như ngầm dặn « mày đừng lo, có tao túc trực một bên ». Tên mặc đồ hung rụt rè một giây rồi tiến lại. Trong khi ấy tên chỉ huy đi lộn về phía cầu thang, có lẽ để kiểm soát hành lang hầu giúp cho đàn em mặc com-lê hung có thể thảnh thơi hành động.
Hành động thế nào?
Địch chưa hành động, Văn Bình đã biết. Hai gã lai Nhật chưa khai tông tích chàng cũng biết là tay sai của địch. Tên mặc đồ hung hơi khựng lại khi thấy cánh cửa khép hờ. Khép hờ, không khóa như hắn trù liệu. Hắn quay lưng như muốn kêu gã chỉ huy xin ý kiến nhưng xếp hắn đã biến dạng. Hắn đành đẩy cửa, bước thẳng vào hang hùm.
May cho Văn Bình, riềm che cửa đã được kéo kín. Căn phòng nhỏ đầy đủ tiện nghi này trở thành một giang sơn riêng biệt, trong và ngoài không nhìn thấy nhau. Trong phòng mở nhạc rốc đến rách màng nhĩ thì bên ngoài cũng vị tất nghe lọt. Văn Bình tủm tỉm cười. Chàng chỉ cần biểu diễn một vài động tác nhỏ. Chắc tiếng động sẽ không lấy gì làm lớn. Vả lại,…
Trong phòng tối om, địch đứng lại một phút sau khi xập cửa. Hắn đóng lại đàng hoàng chứ không khép hờ như chàng. Hắn đứng lại để làm quen với bóng tối. Văn Bình nghe rõ tiếng hơi thở của hắn. Hắn lọt vào trong tầm đánh của chàng song chàng vẫn án binh bất động. Chàng muốn đình hoãn cuộc tấn công để xem hắn làm gì.
À ra hắn bật đèn.
Làn sáng đèn nê-ông dịu hiền tràn ngập căn phòng. Tường sơn hồng, xám và vàng lợt, bàn ghế và màn cửa toàn bằng màu đậm. Thoạt trông có vẻ đối chọi nhau chan chát, kỳ thật ăn ý nhau hết chỗ chê. Cảnh trí thơ mộng này được dùng làm nơi hẹn hò yêu đương thì sung sung sướng biết bao!
Chàng chống nạnh sau lưng hắn. Hắn xây mặt lại, miệng há hốc khi nhận ra chàng. Thân hình hắn khá cao, giá như vai hắn không dầy, tay không khuỳnh khuỳnh, hắn có vẻ còn cao hơn nữa. Song le, cảm tưởng đầu tiên khi chàng đối diện hắn lại là sự khinh miệt. Văn Bình vốn có tinh thần võ sĩ đạo. Chàng luôn luôn trọng nể kẻ thù dẫu lát nữa chàng sẽ phóng atêmi vào huyệt chết. Và tuy hoạt động trong nghề gián điệp được coi là nghề của những kẻ không tim, những kẻ chuyên đi ngang về tắt, chàng vẫn ưa sự chính danh quân tử. Ngược lại, chàng khinh miệt bọn tiểu nhân, những kẻ tham sinh húy tử chưa đánh đã khai, chưa xung trận đã quy hàng vô điều kiện.
Sở dĩ chàng khinh miệt tên địch mặc com-lê màu hung vì hắn có tướng mạo phản phúc: mình mẩy to bự mà khuôn mặt nhỏ xíu khiến chàng có thể lầm tưởng hắn mượn đầu con nít lắp vào. Bọn người thân to đầu nhỏ này chỉ quen liếm gót, sớm đầu tối đánh…
Chàng khinh miệt hắn nên không thèm ra tay trước. Chàng đinh ninh hắn co vòi chạy trốn.
Điều chàng không dè là hắn tấn công sấm sét ngay sau khi thấy chàng. Và nếu chàng lách chậm một li đồng hồ -một li nghĩa là phần trăm một giây- chàng đã bị quất sụm. Bằng một đòn giản dị mà ly kỳ. Một đòn rất thông thường mà rất khó học của nhu đạo.
Giới trong nghề gọi là đón uki-otoshi.
Uki- otoshi nghĩa là quăng ngã đối thủ. Võ Nhật gồm hàng trăm thế quăng ngã khác nhau, nhưng phải đến cuối thế kỷ XVI, nhờ tài ba của sư tổ nhu đạo Kanô (2), 40 thế căn bản mới được gạn lọc. Bất cứ đai đen nào cũng am tường 40 thế suất-đảo -nghĩa là quăng ngã- Tuy nhiên, con số đai đen nắm vững được toàn vẹn tinh hoa của phép suất-đảo uki-otoshi chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay từ hơn nửa thế kỷ qua.
Uki-otoshi có thể được dịch nôm na là quăng ngã như gió lốc, hoặc quăng ngã như máy bay nhào lộn, hoặc dịch một cách văn vẻ là phong-đảo hoặc phi-đảo. Căn bản của phép phi-đảo rất giản dị và thông thường: lừa chộp hai cánh tay đối thủ như trong mọi cuộc đấu nhu đạo bình thường, rồi bố trí cho đối thủ hỗng chân phải trước khi quăng ngã đối thủ một cách nhẹ nhàng. Đối thủ bị ngã tréo, ném nhẹ thì gẫy xương, còn ném mạnh thì mất mạng như chơi.
Nó giản dị và thông thường, song lại ly kỳ và khó học vì ai cũng biết cách đánh, cách đỡ, cách phản công. Ấy thế mà rất ít võ sĩ từ đệ tam, đệ tứ trở lên dám xử dụng nó trong các cuộc tranh tài. Bằng chứng cụ thể là trong số 10 ngàn cuộc tranh tài nhu đạo để lên đai ở nước Nhật, chỉ có 5 hoặc 6 cuộc được kết thúc thắng lợi với đòn phi-đảo.
Trong 10 ngàn võ sĩ mới kiếm nổi 6 võ sĩ dám xài món phi-đảo hữu hiệu, vậy mà tên địch mặc com-lê hung đã xuất trận với bàn chân trái lùi gấp ra sau, đồng thời níu cánh tay phải của chàng xuống, nghĩa là áp dụng những động tác cơ bản của đòn phi-đảo nhằm phá thế quân bình trước khi quăng ngã. (3)
Đòn này đòi hỏi sự phối hợp mật thiết giữa tay chân, thân thể và thần kinh, hai tay khoanh lại thật êm ái như lái vô-lăng xe hơi, không được giật mạnh cũng như dùng sức. Nói tóm lại phải phóng đòn như trò đùa.
Suýt nữa Văn Bình bị quất xụm vì chàng bỏ phí một phần tích tắc vô cùng quý báu để sửng sốt và bàng hoàng. Lẽ ra phải hóa giải cấp tốc thì chàng lại trù trừ khi thấy ngón uki-otoshi của địch là đòn chân truyền, phát xuất từ bậc thày của toàn thể đai đen nhu đạo Phù tang và thế giới, và cũng là võ sư độc nhất trên trái đất sáng tạo phép đánh phi-đảo toàn thắng trăm phần trăm.
Bậc thày siêu đẳng này là Mifunê (4)…
Văn Bình kính mến võ sư Mifunê. Ngay sau khi thế chiến chấm dứt với sự đầu hàng của Nhật, Văn Bình -một thanh niên đầy nhiệt huyết và tinh thần lãng tử, đam mê mỹ nhân không kém đam mê võ thuật- đã cất công sang tận Đông kinh để gặp con người vừa được tôn vinh làm đệ thập đẳng đai đỏ nhu đạo. Mifunê khi ấy đã trên lục tuần vậy mà không võ sĩ nào đánh bại được ông. Trọn đời, ông luôn luôn không bị đánh bại.
Bí quyết của ông: nắm vững đã tinh hoa của nhu đạo, điển hình là đòn quăng ngã uki-otoshi.
Văn Bình đã thụ giáo các bậc thày Nhật bản. Chàng giành nhiều thời gian và tâm huyết để hoàn bị phương pháp quăng ngã đối phương. Bởi vậy, chàng tỏ vẻ sửng sốt và bàng hoàng khi thấy tên địch có khuôn mặt phản phúc đang bị miệt thị lại biết xử dụng món nghề ruột của Mifunê.
Địch đã nâng bổng được Văn Bình. Hắn chỉ lạng tay nhẹ nhàng là điệp viên Z.28 bay vèo sang bàn và nằm chềnh ềnh trên nền phòng. Tuy nhiên, hắn không thực hành nổi ý định. Dầu sao, Văn Bình cũng là nhà võ rồi rào bản lãnh và kinh nghiệm. Chàng có thể bị quất xụm, nhưng kẻ thắng được chàng không phải là tên lưu manh mặc com-lê màu hung này.
Vì thế hắn chưa tung được chàng từ trái qua phải thì đầu gối chàng đã thúc mạnh vào dạ dưới của hắn. Thúc thật mạnh. Hắn hét lên rồi bổ ngửa. Văn Bình chuồi theo, định hạ thủ hắn bằng cước chân trái.
Và một lần nữa chàng hút chết.
Lần này, chàng thoát hiểm là do đã chuẩn bị đối phó đàng hoàng. Nếu chàng khinh địch như trước đó một phút thì chắc đã lìa xa cõi thế, lìa xa những tấm thân Vệ nữ bốc lửa nõn nà, hoặc xoàng ra cũng mang thương tích để trở thành phế nhân. Phế nhân với một chân, một tay bị cụt thì cũng được đi, chứ phế nhân mà…
Tên địch quả có tính thù hằn độc địa. Thiếu gì chỗ phóng dao, hắn lại nhè khoảng da dưới rốn mà ám hại. Từ lỗ rốn xuống dưới có một chuỗi kinh huyệt, điển hình là kinh huyệt quang-nguyên và trung-cực. Nó nằm rất sâu nên đánh atêmi không ăn thua gì. Vả lại, dẫu thọc trúng nó cũng chỉ gây ra bại liệt mà thôi. Nhưng nếu đâm bằng kim thì sự bại liệt trở nên vĩnh viễn. Thà chết còn hơn bại liệt ở bộ phận thiết yếu. Đối với ai kia nó còn quá thiết yếu, huống hồ Văn Bình đào hoa, Văn Bình đa tình, Văn Bình trung thành với sắc đẹp…
Chàng oặn người 45 độ, lưỡi dao nhỏ xíu và mỏng tanh trượt qua khuy áo sơ mi của chàng.
Té ra gã mặc com-lê hung đeo dao trong ống tay áo. Hồi nãy chàng thắc mắc không hiểu tại sao hắn diện com-lê dưới trời năng chang chang ở một xứ mà quần áo dầy cộm và tươm tất bị coi là vô ích và chướng mắt. Giờ đây chàng mới phăng ra lý do.
Hắn đang nằm dài dưới đất. Mặt hắn tái mét khi hắn thấy lưỡi dao sắc như dao cạo bị trệch khỏi mục phiêu. Hắn vùng dậy, cánh tay phải hơi thõng. Văn Bình biết hắn sắp tung ngọn dao thứ hai. Giấu dao nhỏ trong ống tay áo là thói quen đã có từ lâu trong giới võ lâm. Thời gian gần đây, điệp viên tây phương học mót võ lâm Á đông bằng cách đeo súng ngắn trong ống tay áo. Bình thường thì khẩu súng nằm áp gần cườm tay, động dụng nó sẽ tuột xuống, và trong nháy mắt nó có thể nhả đạn.
Thường lệ, người ta giấu 2 hoặc 3 lưỡi dao, tùy theo kích thước lớn nhỏ. Căn cứ vào ống vét-tông quá rộng của địch và lối phóng dao không lấy gì làm cừ khôi, Văn Bình đoán hắn giấu trên 3 lưỡi. Chàng phải chế ngự hắn tức khắc. Vì biết đâu mũi dao lại được tẩm độc. Loại dao tẩm độc chỉ chạm nhẹ da thịt là mạng vong.
Chàng bèn đá hất bằng gót giày. Địch rú một tiếng, ngã vật lần nữa xuống thảm. Ngọn cước của Văn Bình đã đá gẫy xương cổ tay hắn, những lưỡi dao còn lại bị mắc kẹt, không sao phóng ra được nữa. Ngọn đá thứ hai nhấc bổng hắn lên vì mũi giày của chàng được kê dưới cằm. Chàng vận dụng nhiều sức nên xương hàm của địch bị nát bấy.
Tiếng kêu cứu bị chìm ngập trong cuống họng, máu tuôn ồng ộc, hắn trợn trừng mắt nhìn chàng với luồng nhỡn tuyến tràn đầy uất hận.
Rồi thở hắt…
Văn Bình chắt lưỡi ra chiều luyến tiếc. Đúng ra chàng không muốn giết hắn. Chàng cần hắn sống để khai thác tin tức. Chàng nộ khí xung thiên vì hắn nuôi dã tâm làm chàng bại liệt, và trong cơn giận dữ không tự chế nổi chàng đã vô tình giết hắn.
Chàng vội tắt đèn.
Vì có tiếng giày cồm cộp.
Chắc là tiếng giày của đại tá Holơ. Chàng phải xuất hiện ngay, nếu không đồng lõa của tên mặc com-lê hung sẽ làm thịt Holơ. Gã đại tá này là bạn của Pit, nghĩa là đồng liêu của Pit trong Trung ương tình báo Mỹ. trước kia, tình báo Mỹ còn tuyển mộ dễ dàng, sự huấn luyện còn lỏng lẻo, đôi khi gần như lè phè. Dạo này họ không còn dám làm ăn lơ mơ theo kiểu con nhà giàu nữa trước sự bành trướng và xâm lấn mạnh mẽ của Quốc tế Tình báo Sở Trung hoa với những cán bộ hoạt động ở hải ngoại từ cấp trung đẳng Thiếu lâm quyền trở lên. Đại tá Holơ phải là võ sĩ nhu đạo thắt đai đen đàng hoàng mới được bổ nhiệm tại Hạ uy Di. Nhưng Văn Bình vẫn cảm thấy không yên tâm. Bọn nhân viên của địch có vẻ thành thạo ngón nghề hơi nhiều…
Lộp cộp…lộp cộp… tiếng đế giày nện mỗi lúc một chói tai. Hành lang được trải thảm hẳn hòi, và đây không phải là thảm cao su cà tàng mà là thảm len hút âm thanh, thế mà tiếng lộp cộp vẫn kêu dội. Thành thử chưa cần nhìn mặt đại tá Holơ, chàng đã biết hắn là kẻ háo thắng. Loại thùng rỗng kêu to. Loại ễnh ương muốn phình bụng to bằng con bò.
Holơ là một núi thịt. Hắn nói nặng 90 kí, song theo con mắt đo đạc chính xác của chàng thì 90 kí này là chưa cộng thêm quần áo, giày dép, và một sống phụ tùng lỉnh kỉnh khác. Và là cân buổi sáng sớm, trước khi dùng điểm tâm. Liếc sơ qua, chàng thấy hắn xêm xêm một tạ. Tuy nhiên, tạ xương thịt của hắn lại gồm nhiều mỡ bèo nhèo, do kết quả của nếp sống chuyên đớp hít tưng bừng, chuyên nằm dài cho mỹ nhân đấm bóp 64 kiểu.
Văn Bình nhảy ra hành lang.
Cùng khi ấy, gã com-lê xanh xuất hiện sau lưng đại tá Holơ. Chỉ cách Holơ khoảng 3 mét, khoảng cách lý tưởng để xử dụng những lưỡi dao giấu trong ống tay áo.
Văn Bình thấy ống tay áo của hắn giơ lên và phất nhẹ. Chàng thấy hắn mà hắn chưa thấy chàng. Lưỡi dao lá liễu nằm gọn trong lòng bàn tay chàng được vung ra nhanh hơn, lợi hại hơn. Nó xé không khí kêu vút. Đại tá Holơ đứng khựng vì không hiểu gì. Lưỡi dao của Văn Bình xẹt qua đầu Holơ, cắm phập vào vai phải của gã mặc đồ xanh.
Cánh tay vừa phất xuống bị đẩy trệch sang bên. Hắn toan phóng dao vào yết hầu Holơ thì bị Văn Bình hóa giải.
Văn Bình quát Holơ:
-Nép vào tường!
Thay vì nép vào tường như Văn Bình la lên, gã đại tá to con lại đứng như trời trồng, cả miệng lẫn mắt đều há hốc. Văn Bình đành tiến một bộ, quạt tréo ngang hông Holơ.
Tội nghiệp gã đại tá Mỹ… dầu muốn dầu không hắn cũng là chỗ quen biết, mặt mũi hắn lại không đến nỗi hãm tài để chàng ghét bỏ, nhưng chàng bị du vào thế kẹt. Nếu chàng không cho hắn đo ván, hắn sẽ trở thành tấm bia cho gã mặc đồ xanh phóng tiếp lưỡi dao ác ôn thứ hai. Chàng quét Holơ té ngã một cách gượng nhẹ, tuy vậy chàng biết trước hắn vẫn đau điêng.
Holơ kêu « ôi chao » trước khi dộng đầu vào tường và nằm sóng soài trên đất. Nhưng hắn đã sóng soài kịp thời trước khi lưỡi dao nhọn hoắt của địch vèo tới. Văn Bình thót lại gần địch. Chàng không cho phép địch giở trò tung ám khí thêm nữa. Trái thôi sơn kinh thiên động địa của chàng được bổ xuống. Gã mặc com-lê xanh lăn lông lốc, máu phun có vòi.
Chàng đinh ninh gã mặc đồ xanh chỉ bị thương vì chàng chủ tâm vận dụng một phần công lực. Chàng không ngờ hắn giẫy đành đạch rồi duỗi người thẳng băng, không cục cựa, và cũng không la lối gì cả. Hắn đã chết đứ đừ. Như thằng bạn của hắn.
Nếu cả hai còn sống, Văn Bình được lợi biết bao.
Chàng không có thời giờ dậm chân bứt tóc vì đại tá Holơ vẫn thiêm thiếp giấc nồng. Hôm nay là ngày xui của chàng. Chàng mó vào da thịt ai thì người ấy biến thành cây gỗ.
Chàng thọc lét Holơ mới chịu lồm cồm bò dậy. Hắn xoa nắn xương sườn:
-Anh đạp mạnh quá!
Văn Bình cười « cầu tài »:
-Xin lỗi. Tôi sợ địch phóng dao.
Holơ gật đầu lia lịa:
-Biết, biết. Tôi chỉ kêu ca cho nó có chuyện thôi. Nếu anh không can thiệp kịp thời, tôi đã đi đoong rồi còn gì. Thằng này là ai?
-Tạm gọi là nhân viên của địch.
-Tại sao họ biết tôi đến?
-Tôi cũng định hỏi anh.
-Ngoài tôi và ông phụ tá FBI địa phương, không ai biết tôi có hẹn với anh tại lữ quán Hiu-tơn. Vả lại, tôi mới chỉ nói chuyện qua điện thoại với anh cách đây 8 phút …(đại tá Holơ coi đồng hồ ở cổ tay)… Phải, đúng 8 phút 15 giây, cho dẫu địch nghe được siêu tần số, tôi vẫn nghĩ rằng họ khó thể sai nhân viên đến khách sạn trước tôi. Xin anh nhớ là tôi có mô tô cảnh sát mở đường. Giờ này, những con đường ra bãi biển đều đông nghẹt xe cộ. Chắc chắn xe hơi của tôi phải chạy nhanh hơn xe hơi của họ. Trừ phi…
Đại tá Holơ ngưng nói. Vừa có tiếng giày từ đầu hành lang vọng lại. Văn Bình ra hiệu cho hắn. Hắn cúi xuống, nâng gọn gã mặc com-lê xanh lên vai. Khối thịt 70 kí được nhấc lên vai hắn nhẹ tâng như thể cái gối bông. Holơ khá mạnh, chỉ phải cái hắn hơi chậm. Hắn cũng là võ sĩ này nọ. Tuy nhiên, Văn Bình biết rõ từ nhiều tháng nay, hắn lười tập tành. Bằng chứng cụ thể của bệnh biếng nhác này đã hiện ra trên bụng.
Trời… bụng gì mà lắm mỡ đến thế. Phen này chàng phải yêu cầu đại tá Pit tống xuất Holơ về Hoa Kỳ mới được. Với cái bụng rộng gần một mét này, hắn sẽ chết yểu. Chết trong thời gian phục vụ trên đảo. Chết đột ngột… vì Hạ uy Di là đảo tình. Ngày hay đêm, bất cứ lúc nào cũng tình…
Con số quân nhân như Holơ trên đảo lên tới 70 ngàn người, chưa kể vợ con. Lại còn gần chục ngàn quân nhân tạt qua nữa. Trong tổng số này, phân nửa còn sống cảnh đơn chiếc. Quân nhân chưa vợ ở Hạ uy Di thường được lợi hơn những kẻ chưa vợ khác: nhờ có một trung tâm giải trí (5) gần bãi biển Oai-kiki, gồm đủ nơi ăn chốn ở, sì-nách-ba, hộp đêm, sân chơi thể thao, nơi đậu xe, và nhất là bãi cỏ ngợp bóng mát ngay cạnh mặt biển.
Trên nguyên tắc, người ngoài không được thâm nhập nhưng trung tâm lại không có hàng rào, xe cộ tư nhân qua lại con đường chính rầm rập. Phụ nữ lại càng tự do ra vào như phòng riêng của mình. Quân nhân từ cấp úy trở lên rất được phái yếu o bế. Holơ là đại tá, cho nên hắn nở vòng eo là chuyện dĩ nhiên. Trung tâm du hí này có hai địa điểm thần tiên, các đóa hoa biết nói thường đến đây: bãi cỏ gần biển và sì-nách-ba có cái tên đáng yêu Chân Đất.
Nhìn thùng nước lèo có hạng của Holơ, Văn Bình tủm tỉm cười. Nếu không đam mê tửu sắc, hắn còn khỏe hơn nữa. Như đoán được tư tưởng chàng, Holơ dừng trên ngưỡng cửa phòng, hất nhẹ vai. Thi thể gã mặc com-lê xanh bay qua bề rộng căn phòng xuống giường kê ở góc.
Văn Bình khen:
-Chà, anh khỏe quá!
Holơ gồng bắp thịt tay:
-Nửa năm trước, tôi khỏe gấp đôi. Anh tính, mình là trai chưa vợ, con gái ở đây dễ thương và thơm kinh khủng. Chân chỉ hạt bột, lấy vợ, nuôi con đàng hoàng như thằng cha Pit mà hơn. Khỏi phương hại sức lực, lại giành dụm được vô khối tiền. Nhưng … nhưng…
Đại tá Holơ quay lại, nhìn thẳng mắt Văn Bình. Dường như hắn đang bối rối và sửng sốt. Gần có chuyện quan trọng muốn nói mà lại rụt rè. Mãi sau, hắn mới thở phào:
-Tôi có hình anh trong văn phòng. Vì vậy tôi không sợ nhận diện lầm. Tôi biết chắc trăm phần trăm anh là đại tá Z.28. Nhưng còn anh, tôi hơi ngạc nhiên tại sao…
Văn Bình ngắt lời:
-Anh hơi ngạc nhiên tại sao tôi không đòi anh xuất trình chứng minh thư?
-Vâng, vâng. Đây, giấy tờ tôi, xin anh…
-Thôi, anh cất giùm của nợ này vào túi. Tôi có cái mũi thật thính. Mũi tôi đánh hơi được ngay anh là đại tá Holơ. Vả lại, trong trường hợp tịt mũi, tôi còn trí nhớ.
-Trí nhớ? Nghĩa là anh đã gặp tôi?
-Gặp mặt thì chưa, nhưng biết thì có.
-Trời!
-Có gì lạ đâu. Anh có hình tôi thì tôi cũng có hình nhân viên CIA phục vụ tại Hạ uy Di. Ôi chào, cả ngàn tấm hình khác nhau, tôi mở xem và tình cờ nhớ được dáng dấp và diện mạo anh.
Chàng định nói thêm « diện mạo anh quá độc đáo nên tôi không nhớ cũng không được » nhưng đã ngậm miệng kịp thời. Trông hắn chẳng có gì xí trai, nhưng đàn bà con gái nhà lành khó thể thương được. Mặt hắn không phảng phất sự đểu cáng của kẻ thất học, mà là của bọn chuyên nghề quất ngựa truy phong.
Holơ chép miệng:
-Tưởng gì…anh vừa làm tôi hết hồn.
-Anh sợ bị lộ diện?
-Vâng. Pit và tôi phục vụ ở đây với danh nghĩa quân nhân hiện dịch thuần túy. Theo nội quy, hễ bị lộ diện, địch phăng ra gốc gác CIA thì bị tống lên chuyến máy bay sớm nhất về Mỹ. Tôi rất thích sống tại Hạ uy Di. Pit có vợ con đùm đề mà còn mê, huống hồ một thân một mình như tôi. A, anh biết chuyện gì chưa?
-Chuyện gì?
-Pit. Đêm qua anh gọi điện thoại cho hắn. Nghe nói anh cần hắn, hắn hối hả lái trực thăng đi ngay.
-Tôi gọi điện thoại cho hắn?
-Không rõ. Pit viết lại mấy chữ cho tôi như vậy.
-Pit đi đâu?
-Bãi Na-Pali, nghĩa là sát trung tâm viễn thông. Pit hứa trở về trước bảy giờ sáng. Vì bảy rưỡi có phiên họp quan trọng về an ninh của đảo. Nhưng quá tám giờ, Pit không về. Sợ trực thăng bị hỏng máy, Pit phải đáp xuống vùng đồi núi hiểm trở. Tôi phái người tìm kiếm nhưng không thấy gì. Điều đáng lo ngại là máy vô tuyến của Pit cũng nín lặng.
-Trực thăng có thể đâm xuống biển?
-Không. Đến 8 giờ 5, phi cơ trinh sát cất cánh từ Lihuê trên đảo Kau-ai thấy rõ chiếc trực thăng của Pit đậu ngay ngắn trên bãi biển.
-Na-Pali?
-Xa hơn một quãng.
-Và Pit mất tích?
-Vâng. Pit đã mất tích. Phi cơ trinh sát đáp xuống tận nơi xem xét. Hoa tiêu báo về cho biết mọi đồ vật bên trong trực thăng vẫn còn nguyên, động cơ vẫn còn chạy đều. Như vậy nghĩa là đại tá Pit tự ý hạ xuống, và tự ý rời trực thăng… Tôi hoảng hồn bay ngay đến Honolulu, liên lạc với công an FBI tìm địa chỉ của anh thì may thay anh gọi tôi.
Văn Bình bặm môi, giọng chậm rãi:
-Nói tóm lại, Pit mất tích vì tôi.
Holơ nhăn mặt:
-Chúng tôi không dám kết luận như vậy, nhưng ngoài anh ra thì không ai biết được số điện thoại riêng của Pit. Chẳng dám nói dối với anh, trước khi tôi lên phi cơ, mụ vợ của Pit ôm lấy tôi khóc bù lu bù loa, chung quanh bà là một sư đoàn con nít, trai gái đủ cả, đứa nào cũng nhỏ leo teo chỉ trông thấy cũng đủ mủi lòng. Bà xã của Pit nức nở dặn tôi nếu Pit bị địch giết thì nàng cũng không thiết sống làm gì nữa.
Văn Bình thở dài:
-Bây giờ chúng mình đi đâu?
Holơ thở dài theo:
-Đi đâu cũng được. Nhưng trước hết là ghé công an. Anh cần đọc kỹ hồ sơ.
Văn Bình bâng khuâng theo đại tá Holơ ra thang máy. Hạ uy Di đẹp đẽ, khêu gợi mà làm gì. Biết thế chàng không thèm quan tâm đến vòng hoa sặc sỡ và bộ ngực phập phồng của Aloha trên bến tàu nữa. Chẳng qua dại gái mà ra cả.
Con đường Kalia này thiếu gì giai nhân nẩy nở hơn Aloha, chưa kể cái cảnh trai thiếu gái thừa bản xứ. Hàng năm, trong số nửa triệu du khách ghé đảo, có đến 400 ngàn phụ nữ và phân nửa là giới trẻ từ 17 đến 20 tuổi. Chao ôi, mấy trăm ngàn tấm thân nõn nà ấy nằm duỗi trên cát, hai mảnh vải mỏng dính, diện tích còn thua chiếc mù soa hỉ mũi, phỏng che đậy được gì…
Bất giác, Văn Bình liếm mép. Bằng đuôi mắt, chàng liếc đại tá Holơ. Hắn cũng đang liếm mép vì hắn cũng nhìn thấy cử chỉ bộc lộ thèm muốn của chàng.
Lòng buồn rười rượi, Văn Bình chui vào xe. Chiếc Ca-đi-lắc của Holơ thuộc loại mui trần, đầy đủ tiện nghi cho các cuộc hẹn hò trai gái.
Một số taxi trên đảo là Ca-đi-lắc, loại xe hơi đắt tiền nhất nhì trên thế giới. Các sĩ quan cao cấp chưa vợ cũng khoái lái Ca-đi-lắc mui trần. Mang nhau ra ngoại ô, trên thì trời cao, gió biển thổi rì rào, dưới thì nệm xe êm ái, âm thanh nhạc nổi ru hồn vào cõi mộng … nghĩ đến đó Văn Bình càng cảm thấy cổ họng khô đắng hơn nữa.
Tài xế rồ ga, hai chú cảnh sát công lộ nai bịt gọn gàng, cưỡi mô tô to tướng, bắt đầu rú còi mở đường. Mui xe được kéo lên từ trước vậy mà Văn Bình vẫn có ấn tượng mọi người đang ngó chàng đăm đăm. Chàng vội ngồi trệch sang bên để quan sát phía sau.
Trái tim chàng nhói lên như bị châm kim.
Phía sau trên đường phố chan hòa ánh nắng, giữa suối người và xe cộ ngược xuôi nườm nượp, chàng vừa nhìn thấy một bóng dáng quen thuộc. Thật quen thuộc.
Bóng dáng thật quen thuộc của một người đàn ông. Béo nung núc. Và lùn tịt. Thường lệ, hễ tròn trịa như hòn bi ve thì cất bước rất chậm. Nhưng gã đàn ông trung niên nước da hơi bánh mật này lại có cách đi rất nhẹ nhàng, cách đi của võ sĩ am tường khinh công. Vùng Cát-chó-sủa trên đảo Kau-ai từng sinh sản được một số võ sĩ am tường khinh công.
Một trong các võ sĩ này là Naha.
Văn Bình vừa nhìn thấy Naha. Hồi hôm, Naha lừa chàng đi tìm tài xế. Chàng vừa đi khuất sau rừng mía thì trực thăng bốc cháy. Rồi phát nổ dữ dội. Aloha biến dạng … cùng với Naha. Hắn là đầu mối của nội vụ, chàng đang ao ước thộp cổ hắn thì đột ngột hắn xuất hiện. Biển Thái bình dương mênh mông, tìm một hàng không mẫu hạm khổng lồ còn khó nữa là…
Trong quá khứ, 31 chiến hạm của Nhật kèm theo 350 phi cơ, vượt qua 5.000 cây số đường biển Thái bình dương để bất thần tấn công Hạ uy Di mà không ai bắt gặp. Vụ đại tá Pit và Aloha không khéo trở thành cây kim đáy biển thì khổ.
Chàng bèn quát tài xế:
-Đậu lại, đậu lại!
Tài xế đạp sát bàn thắng.
Đại tá Holơ hỏi, giọng hốt hoảng:
-Gì anh?
Không đáp, Văn Bình tông cửa nhảy xuống. Và chàng xém mất mạng…
Chú thích:
(1) JAL tức là Japan Air Lines, tức Hàng không Nhật bản.
(2) Jigoro Kano.
(3) tỉ lệ 6 phần 10 ngàn này là con số chính thức của quốc tế nhu đạo.
(4) đại võ sư Kyuzo Mifunê sinh năm 1883, tạ thế năm 1966, thọ 83 tuổi, là bậc thày của môn uki-otoshi. Võ sĩ Anton Gessink, người Hòa lan, vô địch thế giới nhu đạo đã đến Nhật để thụ giáo Mifunê về phép phi-đảo kỳ lạ này.
(5) tức là Armed Forces Recreational Center tọa lạc tại Fort DeRussy, choán một diện tích 72 mẫu tây, chạy dài khoảng 800 mét từ đại lữ quán Làng Hiu-tơn đến lữ quán Reet. Trung tâm du hí này bắt đầu mở cửa năm 1943.