← Quay lại trang sách

Chương 4

Suốt quãng đời thơ ấu còn lại của tôi, ba người chúng tôi - bố mẹ và con gái - sống chậm chạp và lặng lẽ như ba hòn bi uể oải lăn trên sàn nhà lót vải sơn. Trong khi đó, ở tầng dưới, người khách trọ lâu đời nhất của khu chung cư vẫn lặng lẽ đi lại một trong một khung cảnh tranh tối tranh sáng triền miên, trên đầu là trần nhà có một bông hồng thạch cao và những đường gờ trang trí. Những chiếc đèn bàn của bà ấy được lắp những bóng đèn tròn công suất thấp và được phủ khăn choàng tua rua để làm dịu bớt ánh sáng thành quầng mờ ảo màu hổ phách, giống như đèn pha trước của xe hơi trong một buổi sáng sương mù. Thỉnh thoảng, bà ấy mở một đĩa máy hát không thể nhận ra là nhạc gì. Mỗi tối, cứ khoảng 8 giờ, bà khách trọ lại choàng lên người một tấm áo khoác da cáo, đi một đôi giày da lộn cao gót có gắn nơ xa tanh màu xám rách tơi tả để lang thang qua những con phố đêm của London. Người đàn bà phiêu lãng đó chỉ trở về nhà sau bình minh, khi ta vừa bị đánh thức dậy khỏi những cơn mơ quay cuồng bởi tiếng thang máy lách cách, tiếng sập cửa trước đánh sầm và tiếng cửa sổ kính màu rung lạch cạch trong khung gỗ.

Đố ai biết được vì sao bà ấy có giờ giấc sinh hoạt kỳ quặc như vậy hay vì sao bà vẫn tự mình trang điểm với đôi tay run rẩy yếu ớt? Đôi mắt trên khuôn mặt nhăn nheo của người đàn bà lạ lùng đó nhòe nhoẹt phấn kohl[2]; gò má nổi lên hai đốm phấn hồng tròn xoe như búp bê; đôi môi cong giống như cánh cung của thần Tình yêu thoa son màu đỏ máu, trông cứ như thể bà ấy đã cắn vào da thịt của ai đó và hút hết tinh chất của họ. Có lẽ có một con ma sói bên trong bà ấy. Con người ta ai cũng có những thôi thúc thầm kín, giống như những con chó đang cắn xé gan ruột họ. Tôi biết mình cũng vậy.

Từ lúc trở về nhà sau bình minh cho đến giữa chiều, người đàn bà kỳ bí ấy chỉ ngủ hoặc nếu không thì nằm dài, mắt mở to, nhớ lại những gì mình đã trông thấy trong những cuộc lang thang phiêu bạt khắp thành phố. Người ta đã thấy bà ấy đi xa tới tận Kilburn, leo lên phố, tiếp tục lê bước xa hơn nữa về hướng bắc rồi gục xuống vì kiệt sức khi ánh bình minh ló dạng. Sao bà ấy cứ lang thang độc hành như thế nhỉ? Vì mục đích gì? Bà ấy đang kiếm tìm điều gì hay đang trốn chạy khỏi một cái gì? Tôi chẳng thể nào biết được, ngay cả bây giờ, sau 40 năm.

Một buổi tối, năm tôi 17 tuổi, tôi về nhà muộn sau buổi tổng duyệt một vở kịch của trường, vở kịch về Công chúa Anastasia[3] (hay nói đúng hơn là về một cô gái nông dân người Ba Lan tên là Franzisca Schanzkowska tự nhận mình là Công chúa Anastasia). Tôi không diễn trong vở đó mà chỉ là một người nhắc kịch, một vai thoại không xuất hiện trên sân khấu. Đó là đêm ngày 5 tháng 11[4]. Pháo hoa bắt đầu được bắn lên ở ngoài những khu vườn sau. Một màn pháo hoa nổ vang trời đang được đốt trên đồi Primrose. Presscot, người đàn bà bí hiểm, đứng trên bậc tam cấp của Benson Court, đang cài chặt cúc áo khoác thì một tiếng nổ lớn làm rúng động cả con phố vang lên từ phía sau tòa nhà đối diện. Bà ấy đứng đó, lặng câm, run rẩy.

– Bà không sao chứ ạ? - tôi hỏi.

– Ta không thích tiếng nổ, - bà đáp, giọng mỏng tang.

– Cháu đoán là nó gợi cho bà nhớ về chiến tranh - tôi trả lời, đầy cảm thông, vì đây là điều mẹ tôi năm nào cũng nhắc đến. (‘Những quả bom khủng khiếp!’)

Bà lắc đầu: “Ta chưa bao giờ thích tiếng nổ.”

– Có lẽ bà không nên ra ngoài tối nay, - tôi nói. - Sẽ có tiếng nổ khắp nơi đấy ạ.

– Ta thích ánh sáng đầy màu sắc. Ta chỉ ước gì chúng yên lặng. Ta chỉ thích nhìn, chứ không thích nghe.

Cơn mưa bạc xối xuống những cái chụp ống khói. Một quả pháo rít lên. Người đàn bà rùng mình. Nỗi sợ hãi của bà tác động lên tôi, gợi cho tôi nhớ về những năm tháng cô đơn trong phòng ngủ. Bà ấy có mùi hoa hồng, phấn đánh mặt và cả mùi nỗi buồn. Những mùi hương ấy tóm lấy và giữ chặt tôi, ngay trên bậc tam cấp này. Tôi chỉ cao gần 1m63. Vậy mà, tôi vẫn đứng cao hơn hẳn bà.

– Ta nghĩ là cháu nói đúng. Ta sẽ không đi cho đến lúc hết bắn pháo hoa, - bà nói.

Bà quay lại. Tôi nhận ra đôi môi cong hình cánh cung Thần tình yêu của bà lem màu đỏ sang những vết nhăn phía trên miệng như thế nào. Trước đây, tôi chưa bao giờ được nhìn thật gần điều này vì mẹ tôi cũng có nếp nhăn nhưng không bao giờ trang điểm. Tôi nghĩ bà ấy phải dành hàng giờ trước gương tô son lên những nếp nhăn bằng một cây chổi nhỏ xíu. Cần phải có một đôi mắt tinh anh và đôi bàn tay vững để làm việc này. Thế nhưng, có vẻ như bà chẳng có được thứ nào trong hai điểm này vì bà vẫn tiếp tục run rẩy và mắt thì nhìn tôi chăm chú như thể đã từng biết tôi.

– Bà ở căn hộ dưới nhà cháu, - tôi nói - Thỉnh thoảng, cháu nghe thấy bà mở nhạc.

– Ta không mở nhạc gì cả.

– Bà có mà.

– Không phải ta. Đấy là một vị khách.

Tôi chưa bao giờ thấy khách nào nhưng hồi đó có phải ai cũng nhìn thấy ông bác Sándor của tôi đâu.

Chúng tôi đi lên thang máy.

– Bố cháu là người nói giọng lơ lớ phải không? - bà hỏi.

– Vâng ạ.

Cánh cửa thang máy lạch cạch mở ra ở tầng hai.

– Chắc là cháu muốn uống với ta một ly rượu sherry[5] chăng - bà quay sang tôi nói lúc bước ra khỏi thang máy.

Tôi theo người đàn bà vào căn hộ, bước vào một không gian tranh tối tranh sáng. Bà rót rượu sherry vào một cái ly và một con nhện chết nổi lên lềnh bềnh trên mặt ly. Tôi thò mấy ngón tay vớt nó ra rồi vứt xuống sàn nhà, cạnh ghế tôi ngồi. Tôi liếm lớp rượu bên trong cốc với một vẻ thận trọng để thử xem mùi vị của rượu. Nó ngọt và hăng. Bà lặng im quan sát tôi vài phút. Tôi chẳng hề thấy phiền vì bố tôi vẫn hay làm thế. Đoạn, bà cố gắng mở miệng vài lần, vừa chuẩn bị thốt lên một từ thì đã ngưng lại. Thoáng chốc sau, bà lại bắt đầu và cuối cùng cũng cất được lời: “Sao cháu lại ăn mặc như thế?”

– Đây là đồng phục đi học của cháu.

– Ý ta là khi cháu không đi học kìa.

– Cháu không biết. Cháu chỉ mặc đồ có trong tủ quần áo.

– Cháu biết ta muốn gì không? Ta muốn gội đầu cho cháu đấy.

– Sao ạ? Đầu cháu sạch mà.

– Ta muốn tạo kiểu tóc kia. Đi nào!

Người đàn bà nhẹ nhàng đặt bàn tay mình lên cánh tay tôi. Đôi mắt bà, đôi mắt màu xanh nhạt như có nước, toát lên nét dịu dàng chứ không hề điên khùng. Bà giống như Bà cô già Havisham[6] nhưng là Havisham của đường phố lộng gió, hỗn loạn, đầy hiểm nguy. Nếu bạn lớn lên ở Benson Court, bạn hiển nhiên sẽ thấy rằng mọi người đều khác biệt, hoàn toàn chẳng có ai giống ai. Người đàn bà ấy thật kỳ dị và bố mẹ tôi cũng vậy. Bà ấy vừa mỏng manh lại vừa mạnh mẽ; mỏng manh về thể chất nhưng vẫn đủ mạnh mẽ để chống chọi lại màn đêm.

Tôi đứng dậy, theo bà vào phòng tắm. Bà mở vòi nước và ấn nhẹ đầu tôi xuống chậu. Dòng nước chảy qua đầu tôi và tôi cảm thấy dầu gội lành lạnh trên da đầu. Những ngón tay đột nhiên trở nên mạnh mẽ của bà bắt đầu xoa đám chất lỏng thành bọt. Cả người tôi ngập trong một cảm giác nhồn nhột khoan khoái.

Khoảng vài phút sau, bà dùng khăn tắm lau đầu cho tôi rồi bắt đầu uốn tóc tôi quanh những ống cuộn lớn. Những ngón tay của bà biết chính xác những gì chúng đang làm. Tôi nhìn vào gương. Đầu tôi đã phồng ra với vô số ống lô kim loại lớn được ghim chặt bằng những cái kẹp.

– Giờ thì ngồi lại gần lò sưởi đi, - bà nói - chờ cho nó khô hẳn.

Một quãng thời gian rất lâu trôi qua. Bên ngoài, những tiếng nổ mỗi lúc một đinh tai nhức óc hơn, lũ mèo gào thét ầm ĩ vì hoảng sợ còn đám chó thì sủa như phát rồ. Bà đưa tay lên bịt tai và co rúm người lại sau tấm nệm. Những ánh chớp, tia lửa và một trận mưa ánh sáng xuyên qua tấm rèm cửa.

– Pháo hoa sẽ bắn hàng giờ ấy.

– Mỗi năm nó nổ mỗi lớn.

Sau cùng, bà tháo những ống cuộn và bắt đầu chải tóc tôi.

– Xem kìa - bà vừa nói vừa chỉ vào gương.

Tôi đã bước vào căn hộ này với một mái đầu đen rậm rạp, những lọn tóc quăn, rối bù, được ép phẳng và nén xuống bằng những cái kẹp xước nâu và cặp trâm cài tóc làm bằng mai rùa. Giờ thì tôi có một mái tóc trông giống như đang đội một cái mũ đen láng mượt những gợn sóng. Tôi thấy mình thành ra hai nửa, một nửa ở bên trong còn nửa kia ở bên ngoài cái đầu của chính mình. Thoạt đầu, đó là một cảm giác xa lạ sâu sắc, một cơn khủng hoảng tâm lý mạnh đến nỗi tôi bắt đầu đứng không vững, ngả tới ngả lui trên những chiếc đế cao su của đôi giày đi học.

– Cháu thấy chưa? Khi mới bắt đầu, cháu chỉ là một đứa con gái khá xấu xí và nhợt nhạt nhưng giờ trông cháu hệt như Elizabeth Taylor[7] vậy. Ta sẽ cho cháu thấy cháu giống cô ấy như thế nào.

– Đây là cháu thật sao?

– Dĩ nhiên rồi. Đây mới thật là cháu.

– Cảm ơn bà.

– Có gì đâu, ta thích làm vậy mà.

Những tiếng pháo tắt dần, chỉ còn một tiếng nổ thoảng vang lên phá vỡ màn đêm.

Người đàn bà mặc áo khoác lên.

– Giờ thì ta có thể đi được rồi, - bà nói. Hai chúng tôi cùng rời khỏi căn hộ. Bà đi xuống bằng thang máy còn tôi leo bộ lên những bậc thang còn lại tới tầng nhà mình. Tôi nghe nói bà về nhà muộn hơn mọi khi rất nhiều, vào khoảng 7g30 sáng, vì bà đã khởi hành trễ vào tối hôm trước.

Mẹ tôi kêu lên thất thanh khi bà trông thấy tôi còn bố thì tái bệch đi. “Con đã làm cái gì vậy hả?” bà hét lên. “Ai làm thế này cho con?”

– Sao, giờ mày thành đồ đĩ thỏa rồi đấy phỏng? - bố tôi mắng. - Mày đi với trai đấy à?

– Một đứa bạn gái cùng trường làm cho con, - tôi đáp. - Bố mẹ đừng có bắt con đi gội đầu vì con không làm thế đâu. Con đã 17 tuổi rồi. Con sẽ làm những gì con thích.

Bố mẹ tôi lặng người. Họ không nuôi một đứa con gái để nó cãi lại bố mẹ như thế. Họ thấy tôi đang xuống dốc ở cõi đời này, nơi mà với họ, giống như một khu rừng tăm tối trong truyện cổ tích, đầy rẫy những bầy sói, những đám yêu tinh xấu xa và những loài vật gớm ghiếc khác của đêm trường Trung cổ châu Âu rình rập. Năm trước, ban nhạc rock Rolling Stones đã tổ chức một buổi hòa nhạc cách công viên Hyde Park vài bước đi bộ. Tiếng guitar và trống vọng đến tận Marylebone, qua cả những cửa sổ của Benson Court nơi bố mẹ tôi đang ngồi, nắm tay nhau, như thể tiếng nhạc là âm thanh của một đội diễu hành dẫn đầu một đoàn quân đến để xử bắn họ.

Ngày hôm sau, lúc đã tan học, tôi đến hiệu thuốc tây Boots, mua một thỏi son đỏ có vỏ màu vàng rồi thoa son lên môi mỗi tối lúc làm bài tập về nhà. Vài ngày sau, tôi đánh bạo bước vào thế giới của mascara sau khi được bà bán hàng chỉ cho cách sử dụng. Tôi chưa bao giờ dùng bất cứ thứ gì trong những món đồ trang điểm này khi bước chân ra khỏi căn hộ nhà mình. Thế nhưng, tôi đã bắt đầu dừng lại trước những cửa hàng quần áo và ngó nghiêng vào bên trong. Tôi cố gắng làm tóc theo kiểu mà bà Presscott đã tạo mẫu cho tôi nhưng không mấy thành công. Sau cùng, tôi tìm đến người thợ cắt tóc vẫn cắt cho tôi ba tháng một lần để hỏi xin lời khuyên. Cô ta bán cho tôi một chai dưỡng tóc để bôi sau khi gội đầu và còn chỉ cho tôi chỗ mua một chiếc máy sấy tóc giá rẻ đã qua sử dụng. Từ đó, tôi bắt đầu dành nhiều thời gian duỗi thẳng tóc.

Giống như Louis Jourdan trong phim Gigi, chính Gilbert, anh họa sĩ chuyên vẽ tranh biếm họa cũng sống trong Benson Court, là người đầu tiên nhận ra cô gái nhỏ giờ đã lớn phổng phao. Anh ta mời tôi đi uống ở 4G và sau đó hút cần sa. Tôi đi xuống đại lộ Marylebone trong trạng thái phê lâng lâng và khoảng một giờ sau, tôi đã trải qua lần đầu trinh trắng với Gilbert. Đó là một buổi chiều mưa xối xả làm ngập hết cống rãnh và sấm sét đã đánh trúng một chú chim câu trong khu vườn công cộng. Sau đó, anh ta làm cho tôi bánh mì nướng với mắm trứng cá trống rồi vẽ tôi cho bộ sưu tập phác họa riêng của anh ta. Tôi làm điều đó chỉ vì tôi đã đọc rất nhiều về tình yêu trong sách vở. Nhưng, nó không hề đem lại cảm giác mãn nguyện mà ngược lại, ướt át và khó chịu. Dù vậy, nó thu hút sự chú ý của tôi về những lần tiếp theo có khả năng xảy ra. Trong căn hộ đó, tôi đã sớm phát triển thành kiểu người mà người ta gọi là người sành sỏi.

Thiên hạ kháo rằng ta sẽ tỏa sáng một khi đã làm tình. Tôi ắt hẳn là như vậy vì giờ đây cả đám dê già trong khu nhà đã theo đuổi tôi. Bà vũ công ballet già về hưu thường ra ngoài ăn trưa hai lần một tuần tại nhà hàng Fountain Room của Trung tâm thương mại Fortnum & Mason để gặp gỡ hàn huyên với những người bạn cũ, ôn lại những ngày tháng xa xưa khi họ còn đóng vai nàng công chúa thiên nga Odette trong vở Hồ Thiên nga hay nàng Giselle trong vũ kịch cùng tên. Lão chồng “đại gia” của bà ấy rình mò ở các dãy hành lang để tìm gặp tôi. “Anh muốn cho em xem cuốn sách đầu tay của anh” - lão nói. Lão ta là một tên già béo ị chuyên thắt cà vạt hồng và có một trong số những chiếc máy điện thoại trả lời tự động thế hệ đầu tiên mà vợ lão không biết dùng thế nào. Nhờ vậy, lão ta có thể sắp xếp được một đời sống tình ái phức tạp.

Tôi có kế hoạch theo học triết học ở trường đại học. Tất cả bởi vì những suy nghĩ cô đơn trong phòng ngủ của mình. Nhưng rồi, tôi bắt đầu đóng vai các nhân vật trong tiểu thuyết độ đôi ba ngày để xem chúng có hợp với tôi không. Tôi ăn mặc như những nhân vật này, nghĩ như những nhân vật này, giả làm Emma Bovary[8] đi loanh quanh mà chẳng biết tí gì về đời sống tỉnh lẻ hay nghề nông. Nhưng, sự buồn chán thì tôi hiểu rất rõ.

Lần cuối tôi gặp bà Presscot là lúc bà ấy đang loanh quanh ở bậc tam cấp, dáng vẻ trông mệt mỏi. Chỉ nhờ giờ khuya tôi mới có thể biết bà đang về nhà hay sắp đi.

– Ta đã làm được trò ảo thuật - bà nói, giọng mỏng tang như giấy lụa. - Giờ thì trông cháu khá hơn nhiều rồi đấy.

– Cháu cảm ơn bà.

– Ta nghĩ cháu nên ăn chút thịt đỏ. Cháu cần sắt và protein. Cháu sắp sửa trở thành một cô gái hết sức khỏe mạnh rồi. Đấy là tạng người cháu, khung xương cháu. Cháu xuất thân từ gia đình nông dân.

– Cháu không nghĩ thế.

– Ồ, đúng thế đấy. Ta khá chắc với cháu như vậy.

– Cháu đi cùng bà được không?

– Đi đâu?

– Nơi bà đang đến ấy.

– Không, cháu yêu ạ. Ta không muốn thế.

Rồi bà nhẹ nhàng đi xuống phố, nhanh hơn tôi nghĩ. Tôi đi theo bà một đoạn, đến phố Edgware rồi quay về. Tôi thấy bà đứng chờ dưới những ngọn đèn đường ở góc công viên Hyde Park. Mái tóc bà óng ánh dưới làn mưa phùn.

Mọi thứ đều được chiếu rọi bằng một thứ ánh sáng màu hổ phách: những trụ đèn giao thông có vẻ như mãi mãi giữ cái màu hổ phách ấy. Tôi bỗng ngập trong một niềm hân hoan bất chợt hệt như một người vừa tỉnh dậy sau cơn hôn mê. Đó là niềm vui thích được sống, một niềm khoái lạc.

“Bà Prescott,” - tôi gọi - “nói cho cháu nghe…” Nhưng bà ấy đã chạy qua đường và dù tôi có đuổi theo nhanh đến thế nào đi nữa, tôi cũng không thể bắt kịp bà. Đêm đó hay đêm khác cũng vậy.

Bà ấy là một nhà truyền đạo, một con người viễn chinh. Bà ấy là một nhà thám hiểm, là một nữ thợ săn, vinh quang đến với bà và vinh quang bà để lại cho tôi. Mười ngày sau đó, bà chết như một tấm vé tàu hết hạn, trên đường Edgware, tại góc phố Frampton, không một lời giải thích.

Mọi đồ đạc của bà Prescott được một người đàn ông mặc áo chẽn da ố màu, đi ủng đinh đến dọn đi. Khi ông ta nhấc một chiếc rương, cái đáy mục nát của nó bung ra, vãi đầy ra hành lang nào là lụa, xa tanh, nhung, nào là đồ thêu kiểu Anh, ren và cả lông cài mũ. Tất cả bày ra với đủ màu sắc, hết màu đào, màu mơ, màu nho đến màu mận. Một cơn mưa quần áo thời trang giàu sang trong phút chốc làm lóa mắt đến nỗi mẹ tôi liền chạy tới, vơ hết vào tay mình rồi phóng như bay lên cầu thang, đóng sầm cửa lại, đoạn thở dốc.

“Bà ấy biến mẹ thành kẻ cắp, kẻ đi trộm quần áo người chết, - mẹ tôi thì thầm - nhưng mà nhìn xem này, Vivien, xem chúng đẹp nhường nào! Mẹ chưa bao giờ thấy những thứ thế này trừ quần áo mấy minh tinh Hollywood khoác lên người. Lại đây giúp mẹ nào. Chúng ta có gì đây nhỉ? Cúc bằng vàng, à không, mạ vàng. Con mà cào là nó tróc ra đấy.” Một mùi hương của hoa lan chuông, những bông hoa thời tiền chiến xa xưa, dậy lên, át đi thứ mùi ẩm mốc ám vào chiếc rương.

Mẹ tôi ướm thử một chiếc đầm lên người nhưng khổ người bà rộng vượt ra ngoài đường chỉ may. “Quá bé! Mẹ biết mà. Chà, những thứ này tuyệt quá, bỏ đi thì phí lắm nhưng mẹ e là chúng không vừa với mẹ. Vivien, con phải thử đi. Để đi dự tiệc.”

Sau khi tôi đã khai thác hết mọi khả năng tận dụng đồ của bà Prescott và bắt đầu hình thành một khiếu thẩm mỹ về thế nào là trang phục nghiêm chỉnh, giản dị, thế nào là đồ cắt xéo, thế nào là váy dài ngang bắp chân, là áo khoác lửng, là quần lưng cao ống rộng kiểu Katherine Hepburn[9], là áo độn vai phong cách Dietrich[10], tôi bắt đầu thường xuyên lui tới những cửa hàng quần áo cũ, nơi mà thời đó người ta vẫn có thể dễ dàng tìm thấy những món đồ phù hợp cho mình dù chúng được tạo ra từ trước đó hàng kỷ nguyên. Cư dân sống trong nhiều khu nhà ở London chết đi, tủ quần áo của họ - những chiếc tủ đựng váy ren, mũ dạng quả chuông, hay đôi khi là tấm áo choàng lụa xếp li của nhà thiết kế Fortuny thuộc về chủ nhân là những cô gái mới lớn - được những người họ hàng đang đau buồn dọn trống trơn sạch sẽ rồi sau đó được những nhân viên dọn nhà mang đi, cũng chính những người đã đến dọn đồ của bà Prescott trước khi mẹ tôi nhanh tay chộp được.

Chúng tôi - những người say mê với thứ mà bây giờ người ta gọi là “thời trang cổ điển”, những người từ chối khoác lên mình những bộ cánh theo phong cách thời thượng kinh khiếp với ve áo rộng, thân áo thùng thình màu sắc nhợt nhạt, cổ áo khổng lồ và đều toàn có màu nâu hoặc cam - kín đáo chuyền tay nhau một vài địa chỉ nhất định cứ như thể đây là hang ổ của những tay buôn ma túy. Tiếp theo, chỗ được tìm đến nhiều nhất là những nơi ta bấm chuông cửa bên và được quẳng vào một căn phòng dơ dáy bẩn thỉu nằm bên trên một cửa hàng, nơi hàng giá của báu bị xếp bừa bãi với nhau: những bộ đồ lông thú cũ mèm nằm bên cạnh áo vest hiệu Schiaparelli[11]. Các chủ hàng biết chính xác họ có những gì. Họ là những người buôn bán quần áo cũ, những người bán đồ đã qua sử dụng. Họ không hiểu sao cả bầy các cô gái trẻ lại dạo lên cầu thang nhà họ và chìa ra những tờ bảng Anh gấp gập để trả cho những thứ rác rưởi vô dụng. Trong khi đó, những món hàng thời trang mới toanh luôn được trưng ra thoải mái ở cửa tiệm bên dưới. Chúng tôi hẳn là khá khùng điên hoặc nếu không thì cũng nghèo khổ rớt mồng tơi. Nhưng dân buôn bán bọn họ đủ thông minh để hiểu rằng một số nhãn hiệu nhất định luôn bán được giá hời. Việc chúng được gắn vào đâu, dù ở một chiếc áo cánh nhỏ hay một cái áo khoác mùa đông được may theo kiểu ăn chắc mặc bền không chạy theo mốt, không quan trọng. Nhãn hiệu mới là yếu tố quyết định.

Hầu như không có cái gọi là phòng thay đồ. Chỉ có một tấm rèm nhỏ được căng ra ở một góc cửa hàng. Sau một hồi tính toán góc của tấm gương trên trần nhà thẳng với một tấm gương khác ở bên ngoài vành đó, nếu sành sỏi việc này, ta có thể thay hết bộ này đến bộ khác mà thực sự không cần phải cởi quần áo lót.

Nơi mà tôi thường lui tới nhiều hơn cả là cửa hàng nằm trên phố Endell ở quận Covent Garden, phía trên một hàng thịt. Mùi thịt lợn, thịt cừu, thịt bò, gan và cật ám chặt vào quần áo đến nỗi ta phải đem giặt vài lần hay đem đi giặt khô mới có thể mặc được. Chủ cửa hàng quần áo cũ này là một ông lão người Ba Lan râu ria xồm xoàm, quanh năm suốt tháng đi ủng và mặc đồ da cừu trừ những ngày hè nóng bức tột độ buộc ông phải khoác áo vải tuýt và đội mũ lưỡi trai. Nếu ta lui tới thường xuyên, ông chủ già sẽ mời bạn một cốc rượu bẩn thỉu rót từ một chai sherry của đảo Síp và sẽ cười đầy vẻ hàm ơn khi bạn từ chối. Tiếng Anh của ông ấy thật là tệ. Chẳng ai có thể hiểu nổi bất cứ từ nào mà ông ấy nói còn quần áo thì chẳng bao giờ để sẵn giá. Mỗi khi khách hỏi, ông ấy sẽ nhìn vào bộ đồ rồi quay sang nhìn khách, đoạn viết gì đó lên một mẩu giấy. Khách xem xong thì gật hoặc lắc. Ông ấy gói tất cả mọi thứ vào những bọc giấy nâu, buộc dây hẳn hoi. Cảm giác cứ như là một bí mật khi đi xuống cầu thang với gói đồ cũ. Rồi sau đó về nhà, ta mở ra xem thực sự mình có được những gì, dưới ánh sáng bình thường chứ không phải là ánh đèn huỳnh quang trong căn phòng bừa bộn, ám khói và đầy mùi thịt đó. Thường thì sẽ có những vết bẩn mà trước đó ta không nhận ra và đôi khi không giặt sạch được. Nhưng cuối cùng, ta có được một chiếc áo khoác nhỏ với cái mác thời trang danh tiếng CHANEL PARIS gắn bên trong.

Tôi mặc một chiếc đầm dạ tiệc bằng lụa crêpe de Chine đến trường đại học và ngay lập tức gây ra một ấn tượng nổi bật. Tôi nghĩ giờ thì cuộc sống mới bắt đầu. Và quả thực là như vậy.

Chú thích:

[2] Một thứ phấn đen đánh mi mắt của người Ả Rập.

[3] Anastasia là công chúa cuối cùng của vương triều Nga Sa hoàng Romanov.

[4] Tại Anh, đêm ngày 5 tháng 11 hằng năm là đêm của lễ hội pháo hoa trên toàn đất nước. Nó được gọi là Bonfire Night hay Guy Fawkes Night. Lễ hội này được tổ chức để tưởng niệm sự thất bại của một nhóm người theo đạo Cơ đốc, trong đó có Guy Fawkes, âm mưu đốt kho thuốc súng để lật đổ Quốc hội tại London nhưng bất thành vào đêm ngày 5.11.1605. Vua Anh lúc đó là James I theo đạo Tin lành.

[5] Một loại rượu có nguồn gốc từ Nam Tây Ban Nha, có màu vàng hoặc nâu được pha cho nặng thêm

[6] Bà cô già Havisham là một nhân vật chính trong tiểu thuyết Gia tài vĩ đại (1861) của Charles Dickens. Nhân vật này là một phụ nữ không chồng giàu có, độ 55-56 tuổi, sống trong tòa lâu đài đổ nát của mình cùng với con gái nuôi Estella. Havisham được mô tả giống như “một mụ phù thủy” khó tính, tàn nhẫn với ngoại hình nửa như tượng sáp, nửa như một bộ xương và một đôi mắt dễ làm mủi lòng người. (Gia tài vĩ đại – Ý người dịch ở đây nhắc đến “Great Expectations” – Những kỳ vọng lớn lao)

[7] Elizabeth Taylor là nữ diễn viên điện ảnh người Mỹ sinh ra tại Anh, nổi tiếng với tài năng và nhan sắc lộng lẫy.

[8] Emma Bovary, nhân vật trong tiểu thuyết “Bà Bovary” (Madame Bovary - 1856) của nhà văn Pháp Gustave Flaubert.

[9] Nữ diễn viên huyền thoại của điện ảnh Mỹ.

[10] Mariene Dietrich là diễn viên, ca sĩ người Mỹ gốc Đức, được xem là một biểu tượng vĩ đại của ngành giải trí thế kỷ 20. Viện phim Mỹ xếp bà ở vị trí thứ 9 trong danh sách những ngôi sao nữ vĩ đại nhất mọi thời đại được xem là một biểu tượng vĩ đại của ngành giải trí thế kỷ 20. Viện phim Mỹ xếp bà ở vị trí thứ 9 trong danh sách những ngôi sao nữ vĩ đại nhất mọi thời đại.

[11] Elsa Schiaparelli (10.10.1890 - 13.11.1973) là một nhà thiết kế thời trang người Italy. Cùng với đối thủ lớn nhất của bà là Coco Chanel, Schiaparelli được xem là một trong những nhân vật nối tiếng nhất trong ngành thời trang thời kỳ giữa hai cuộc Thế chiến.