← Quay lại trang sách

Chương 5

Trong khuôn viên trường đại học trũng thấp đúc bê tông nằm ở vùng ngoại ô “thành phố” York cổ kính (thực ra nó chẳng lớn hơn gì một thị trấn), tôi tỏ ra là một kẻ thời thượng trải đời, một dân London chính gốc, lớn lên ngay giữa trung tâm thủ đô, đầy tự tin và cá tính độc đáo. Nhưng bên trong toàn là những sợ hãi, dao động và khó hòa nhập với xã hội. Người ta bảo tôi có một kiểu thu hút xa cách, khó gần. Người ta cũng kể là đã bắt gặp tôi lang thang quanh hồ nước nhân tạo, nơi vịt và những giống thủy cầm khác sinh sống, hay những cánh đồng trống trải chạy dài đến tận chân trời. Nhưng tất cả những gì tôi cảm thấy lại là một nỗi cô đơn nhức nhối của những chân trời vĩnh viễn xám xịt một màu. Xa hơn về một phía của những chân trời đó là rặng Pennines[12] với những ngọn đồi trọc lóc, trơ đất nâu, còn quay sang hướng Đông là Biển Bắc.

Dù thế nào chăng nữa, tôi đã có một sự lựa chọn bất hạnh, hoàn toàn chịu ảnh hưởng bởi một thầy giáo, người chỉ đơn thuần giới thiệu cho tôi về sự tuyệt vời của khoa tiếng Anh. Tôi là một “con gà công nghiệp” chỉ quanh quẩn ở thành phố London. Quãng đường xa nhất mà tôi đã từng đi là chuyến đi từ London đến Brighton kéo dài 1 giờ. Trước đó, tôi chỉ mới thấy bò, cừu, ngựa, lợn và gà trên tranh ảnh. Những cánh đồng thường có màu xanh, đôi khi ngả vàng vào mùa lúa mạch. Các chuyến đi ra ngoài của tôi là đoạn đường nối trạm xe buýt với cửa trước khu chung cư Benson Court. Những công viên nằm rạp mình bằng phẳng như thể đang yên nghỉ và không tỉnh dậy lại nữa.

Tôi không biết giải thích thế nào về người bố người mẹ là dân tị nạn của tôi, về cái áo chẽn nỉ của mẹ, về bầu không khí đáng sợ của Benson Court, về bà Prescott, về Gilbert cùng những điếu cần sa và tập kí họa của anh ta, về nỗi lo lắng bồn chồn không yên của mình đối với những khoảng không gian rộng mở và một bầu không khí trong lành. Quần áo của tôi giống như một cái vỏ cứng, một tấm giáp mà tôi dùng để bảo vệ cơ thể yếu đuối bên trong. Nhưng cách ăn mặc của tôi khiến một người chặn tôi lại lúc tôi đang dạo bộ quanh hồ vào một chiều thu muộn lộng gió và hỏi tôi có hứng thú gia nhập vào giới kịch nghệ hay không. Không phải với tư cách là một diễn viên mà là một nhà thiết kế trang phục. Không giấu được vẻ ngạc nhiên, tôi trả lời rằng mình không hề biết may. Nhưng chuyện may vá thực sự không phải là điều người ta đặt nặng. Nhiệm vụ của tôi đơn giản chỉ là lùng sục các cửa hàng bán đồ cũ. Vậy là chính tôi đã thiết kế trang phục cho vở diễn nổi tiếng Câu chuyện mùa đông[13] vốn sống suốt nhiều năm trong ký ức của những người tham gia vì trạng thái vô cùng căng thẳng nhục dục mà nó thể hiện cùng với những chiếc vòng bạc, những chiếc khăn choàng tung bay trong gió và nhiều món đồ lòe loẹt rẻ tiền khác.

Chính thông qua giới kịch nghệ mà tôi đã học được cách làm thế nào để đạt được những kỹ năng xử lý khéo léo bản ngã xung đột, giằng xé giữa một bên là niềm khát khao mãnh liệt thầm kín và một bên sự hoảng loạn ẩn giấu ở bên trong. Giới đồng tính nam cho tôi sự can đảm dám sống đúng là con người thật Vivien, hay nói đúng hơn là phát triển cô gái ấy từ một con số không, từ nhiều chất liệu khác nhau để cho tôi tùy ý sử dụng. Tôi nghĩ mình đã trở thành một biểu tượng của “thế giới thứ ba”, thành bạn tình ảo của dân đồng tính nam. Nếu họ định có một trải nghiệm cuối cùng với người khác giới để xác định chắc chắn về xu hướng tình dục của mình trước khi gắn bó với những gã trai khác thì người mà họ tìm đến sẽ là tôi. Tôi đã quá mệt mỏi với những chiếc khăn quàng cổ tung bay và những chiếc vòng bạc. Thế nhưng, tôi lại cảm thấy khá thoải mái với việc trút bỏ xiêm y và được dò xét kỹ với một thái độ tò mò xen lẫn chút khó chịu của một người đang nhìn ngắm phiên bản mẫu khác giới.

* * *

Một ngày hè cuối năm hai đại học, tôi đang nằm dài trong bồn tắm hút thuốc thì một anh chàng tóc vàng cao gầy học ở khoa Sinh hóa xộc vào, hết sức bức xúc muốn “giải quyết nỗi buồn” của mình trong khi đang đi trả sách giáo khoa cho một trong những người bạn cùng phòng của mình.

Anh ấy đã lựa chọn tôi chứ không phải tôi lựa chọn anh ấy. Một quyết định lựa chọn tức thì và dứt khoát:

Và anh thấy em ở đó, nằm dài bên cạnh bình hoa phi yến trên bệ rửa mặt. Khung màu đỏ của cửa sổ kính ố bẩn hắt bóng thành một đường nghiêng nghiêng chạy qua ngực em. Mọi thứ mờ mờ ảo ảo trong làn hơi nước. Em đang hút thuốc với những ngón tay đẫm nước. Son môi dính trên đầu mẩu. Tay kia té nước lên người. Em trông giống hệt như trong một bức tranh của Modigliani[14] mà có lần anh đã xem. Cả căn phòng như tan chảy thành màu đỏ. Lúc đó trong đầu anh chỉ thắc mắc mỗi một điều cô ấy là ai, cô ấy đang tơ tưởng điều gì.

Chúng tôi thành một cặp không xứng với nhau lắm. Nhưng thế thì đã sao? Nhiều cặp cũng vậy mà.

Anh chàng đó là Alexander Amory. Nếu để cho ta chọn lựa thì người con trai ấy dường như là người đặc biệt nhất: có đầu óc thông minh, bảo thủ và tự tin. Giờ thì tôi nghĩ anh hơi hời hợt nhưng theo một cách hết sức phức tạp. Đôi khi anh vô cùng cứng nhắc, bất di bất dịch trong một số suy nghĩ nhất định, nói đều đều về khoa học và tiến bộ, về đề tài nghiên cứu protein của anh. Lúc khác, anh lại nằm dài trên trường kỷ, gác hai chân cao hơn hai cánh tay, đọc sách bên ngọn đèn bàn, cười khúc khích về một bài báo rồi đọc to một đoạn, nhại những lời phát biểu nực cười của các chính trị gia.

Có lần Alexander nói rõ anh không nghĩ môn học của tôi là môn học khách quan thực tế và theo anh, văn chương không phải là một môn học thực tế. Chẳng hạn như ta có thể nói về văn chương với một sự chính xác từng li từng tí nếu ta rút tỉa từ nó những ý tưởng về triết lý chính trị. Mỗi lần Alexander đọc một cuốn sách, tôi có cảm giác như anh ấy đang thọc tay vào chiếc bánh Giáng sinh, lựa ra phần ngon nhất, giơ ra ánh sáng và kiểm tra dò xét thật kỹ lưỡng trước khi cho vào miệng[15]. Chịu ảnh hưởng dẫn dắt của sự phức tạp, rắc rối trong bản chất của con người, anh xem cuốn sách đó là không chính xác, hầu như là vô dụng. Anh cho cách đọc sách của tôi là hài hước. Bằng cách này hay cách khác, tôi cố gắng thâm nhập vào trong cuốn sách mình đọc và cảm nhận nó, thưởng thức nó. Tôi trở thành chính các nhân vật trong đó. Hiểu nghệ thuật là một điều quá nặng về trực giác đến nỗi Alexander không thể cảm nhận được.

Nếu tôi là một cây hoa lan được trồng trong nhà kính, phát triển ở môi trường trong nhà, ưa cuộn mình trước lò sưởi đọc sách vào mùa đông thì Alexander lại thích ngồi hàng giờ trong màn sương mù lạnh giá ngắm nhìn những con ngỗng Canada trồi lên từ mặt hồ ở khuôn viên trường đại học, lắng nghe tiếng vỗ cánh của chúng dội lại khắp mặt hồ lổn nhổn băng tuyết. Rồi anh ấy về nhà, hà hơi lên mấy ngón tay và thử sáng tác một bài thơ. Đoạn, anh hỏi tôi: “Thơ văn là lĩnh vực của em chứ không phải của anh. Cho nên, em phải cho anh biết là em thấy thế nào? Em là chuyên gia mà.”

Alexander nói, anh thấy thơ khác hẳn với những câu chuyện sướt mướt trong tiểu thuyết và khẳng định những bài thơ do anh sáng tác là những tác phẩm giá trị, hay tài tình, đầy tính trừu tượng và ẩn chứa một thứ gì trong đó, giống như ánh sáng nứt ra một đường bên dưới khe cửa. Tôi thán phục anh nhưng không thích những bài thơ đó. Tôi chỉ thực sự thích thú khi anh cố mô tả những cấu trúc protein trong đề tài nghiên cứu của anh ấy. Alexander cho rằng thơ và protein hết sức giống nhau. Anh giải thích chúng giống những lớp băng dày đóng trên một ô cửa mùa đông như thế nào. “Giờ thì em thấy chưa?” - anh nói. Tôi chỉ hiểu được phần nào.

Điều mà tôi thực sự ngưỡng mộ Alexander là việc anh mê đắm tôi nhiều đến thế nào. Anh thú nhận chưa bao giờ từng gặp một ai giống như Vivien Kovaks. Chính thứ mà anh cho là thiếu logic ở tôi đã hấp dẫn anh. Cứ như thể tôi là một bài toán vô cùng khó, một phương trình toán học mà anh ấy cố gắng giải ra. Alexander luôn hỏi tôi về chính bản thân tôi, tìm mọi cách soi rọi trí thông minh lạnh lùng sáng sủa của mình vào mọi khía cạnh trong tính cách của tôi.

Chẳng hạn như: “Tất cả mọi đôi găng tay phong cách Fair Isle[16] mà em mang cuối cùng đều có lỗ thủng ở đầu ngón tay” - Alexander vừa nói vừa nâng đôi tay tôi - “rồi sau đó em mua găng tay mới. Tất cả chỉ vì em không bao giờ cắt móng tay. Vì sao vậy, Vivien? Sao em không cắt móng tay? Đừng có nhìn anh như thế. Không phải là anh phê bình em đâu. Anh chỉ muốn biết thôi mà.”

– Em không để ý nó dài thế nào. Đến lúc phát hiện ra thì nó đã quá dài rồi.

– Có lý do nào sâu xa hơn không? Chẳng hạn như em không thích để mấy ngón tay của mình bị nhốt trong đó?

– Không, chỉ là do em lười và quên cắt thôi.

– Thì anh cũng biết vậy rồi. Nhưng mà tại sao?

– Em cũng không biết nữa.

– Lúc nào em cũng mơ mộng lãng đãng. Anh chỉ muốn biết là em đang nghĩ gì?

Tôi đang nghĩ mình may mắn như thế nào khi thoát khỏi Benson Court, thả bộ xuống phố, tay trong tay với chàng trai này - một anh chàng người Anh tóc vàng, dáng người cao gầy, để râu quai nón theo mốt rất thịnh hành hồi đầu thập niên 70, đôi chân dài hẹp xỏ trong đôi giày ống da lộn kiểu nhà binh, mái tóc mỏng nhưng mượt còn đôi mắt thì có màu xanh lơ. Có một cái gì đó hết sức gợi tình về hình ảnh của Alexander mà chính bản thân anh rõ ràng không cố ý tỏ vẻ khêu gợi. Anh đã cứu tôi ra khỏi tay đám bạn trai đồng tính có nước da xanh xao vàng vọt của tôi, những người mà Alexander không phản đối một cách nguyên tắc nhưng cho rằng tôi đã dại dột khi cho phép mình trở thành một trạm thử nghiệm trong lĩnh vực khoa học khám phá thiên hướng tình dục.

Bố của Alexander là một cha xứ của hạt Hereford. Người thân của anh là kiểu người tôi chỉ mới biết qua sách báo. Họ hiện lên từ không gian hai chiều thành những con người bằng xương bằng thịt trong thực tế làm ta khó chịu, bực dọc. Chẳng hạn như mẹ Alexander có thú vui là nuôi một giống chó lông dài và thích khoe chúng tại Hội thi chó Crufts[17]. Ngôi nhà toàn mùi chó, mùi thức ăn chó và mùi nấm mốc. Họ toàn ăn những bữa ăn nhỏ đạm bạc với những lát thịt giăm bông màu hồng có những màng mỡ lớn màu trắng, khoai tây luộc, tủy hầm và bánh pudding gạo tráng miệng. Sau bữa tối, một người chị của Alexander chơi đàn xenlo còn một người chị khác chơi viola. Tất cả mọi người hoặc là gà gật theo hoặc là đọc bản nhạc. Tôi ngủ trong một căn phòng lạnh giá, cuộn mình trong một tấm chăn lông vịt, dưới tượng chúa Giê-su với hai cánh tay dang rộng, nhỏ máu cứng đơ ở trên tường phía bên trên giường tôi. Buổi sáng, bố của Alexander ăn trứng luộc lòng đào. Lòng đỏ trứng còn lỏng màu vàng đậm dính li ti lên bộ râu của ông. Bà mẹ thì ôm một con chó trong lòng, hôn lên miệng nó. Chẳng ai mảy may chú ý đến chuyện này. Con chó le lưỡi liếm vào lưỡi bà. Người và chó vươn tới gần để liếm nhau.

Tuy nhiên, tôi không tài nào hình dung con trai của một cha xứ sẽ gặp gỡ người đàn ông đeo cặp kính bụi bặm, đọc những tờ Radio Times có vết đánh dấu và khoanh tròn ở những chương trình phát buổi tối như thế nào.

Chúng tôi đón một chuyến tàu đi London và tôi dẫn Alexander đi qua cửa trước tòa nhà Benson Court. Trước đây, tôi chưa bao giờ để ý đến các loại mùi ở đây, nào là mùi nước tẩy rửa, mùi mồ hôi của những nữ nhân viên tạp vụ quét dọn và hương anh đào của mẹ tôi trong căn hộ nhà mình. “Em gần như được sinh ra ngay tại cái thang máy này” - tôi nói với Alexander khi chúng tôi đang đi lên. Buồng thang máy màu gụ trông giống như một cỗ quan tài lộn ngược. Anh vươn hai bàn tay ra chạm vào các bên của thành buồng rồi buông lời nhận xét: “Cái ‘dạ con’ này, cái lồng ấp này của em lớn gớm nhỉ! Tốt ghê!”

Bố mẹ tôi lặng câm trước sự xuất hiện của chàng thanh niên lịch lãm người Anh có những nếp nhăn dọc theo khóe miệng hằn sâu mỗi khi cười, đôi chân ống sậy vắt chéo trên chiếc ghế rẻ tiền trong lúc anh kiên nhẫn giải thích về những protein và những gì anh đang làm với chúng.

“Thế nó có biết gì không?” - bố tôi xuống nhà bếp thì thầm hỏi. Tôi đang ở trong bếp giúp mẹ xếp bánh bông lan cuộn mua sẵn ngoài tiệm lên đĩa và lau sạch bụi một chiếc cốc uống rượu đi kèm với miếng lót cốc, phòng khi Alexander muốn uống một chút gì và một trong số ba người trong gia đình tôi sẽ phải chạy ra cửa hàng mua một chai gì đó.

“Biết tường tận, thưa bố” - tôi đáp. Alexander đã hỏi tôi về cái họ Kovaks và thắc mắc liệu tôi có họ hàng gì với gã chủ nhà trọ ổ chuột khét tiếng tên Sándor Kovacs hay không. Anh biết câu chuyện về Sándor Kovacs vì nó đã được đài báo đưa tin nhưng Alexander quả quyết với tôi rằng trong đầu anh không hề có ý nghĩ cho rằng giữa tôi và người đàn ông kia có mối quan hệ gì với nhau. Anh nói cái họ Kovaks chẳng liên quan gì với cái họ Kovacs. Ý nghĩ cho rằng hai họ này có quan hệ huyết thống với nhau là một suy đoán mông muội như thời Trung cổ. Và chắc là anh biết vì anh quan sát máu dưới kính hiển vi.

Khi bố tôi ở độ tuổi 58-59, ông đã cố gắng bằng mọi giá đổi họ của toàn bộ gia đình chúng tôi từ Kovacs sang Kovaks thông qua một chứng thư có duy nhất một đương sự ký. Ông nói với mẹ tôi: “Anh chỉ đổi duy nhất một ký tự. Giờ thì chúng ta chẳng có dây mơ rễ má gì với hắn nữa”. Bố tôi nghĩ ông đang đánh lừa ai cơ chứ? Chắc chắn là lừa chính bản thân ông. Mẹ tôi không bao giờ thực sự nuốt nổi chuyện đó và vẫn giữ tên mình như cũ. Bố tôi thì khó tính hơn. Ông giải thích với tôi lý do mẹ không muốn đổi họ là vì bà không biết đọc. Bố cưới mẹ con rồi mà tới giờ bà ấy vẫn không biết đánh vần tên bố là gì. Ông cười lớn và nháy mắt với mẹ tôi còn bà thì phớt lờ, không thèm để ý đến những gì bố nói.

Tôi chỉ cho Alexander thấy chữ “k” và chữ “c” khác biệt giữa hai cái họ nhưng khi tôi xin cấp hộ chiếu để đi nước ngoài, chuyến đi nước ngoài đầu tiên của tôi (một tuần ở Paris, chứ còn nơi nào khác nữa), anh đã nhìn thấy giấy khai sinh của tôi.

– “K” hay “c”, chữ nào nào? - Alexander hỏi - “Anh sẽ không trả cho em chừng nào em chưa giải thích rõ cho anh.”

Thế là tôi buộc phải giải thích về ông bác của mình, người đàn ông mặc đồ vải nỉ angora đi cùng một cô gái điếm mặc đồ họa tiết da báo.

– Rồi nó phản ứng thế nào? - bố tôi hỏi giọng căng thẳng, mắt đăm đăm nhìn quanh cánh cửa nhà bếp, cảm thấy không thoải mái trước sự hiện diện của một người lạ trong căn hộ của mình. - Thế nó có muốn tiếp tục hẹn hò với con không?

– Vâng có. Anh ấy dường như chẳng quan tâm chút nào.

– Thế nó có biết chuyện đi tù và tất cả mọi thứ khác không?

– Vâng biết hết.

– Con có chắc là nó hiểu không?

– Có mà bố.

– Thôi được. Giờ thì tốt hơn là con nên dính chặt với nó. Con không thể nào biết thằng con trai tiếp theo nào về sau phản ứng như thế nào đâu. Nói với nó là lúc nào gia đình mình cũng chào đón nó.

Cả hai chúng tôi đều bắt đầu làm luận án sau đại học. Tôi nghiên cứu về những nhân vật phụ của nhà văn Charles Dickens, những nhân vật bị xem là “kỳ cục” mà tôi cảm thấy quen thuộc từ trải nghiệm của riêng mình lớn lên trong môi trường tại Benson Court. Tôi cứ mơ mộng vẩn vơ và lười biếng cho nên việc viết luận án tiến triển chậm chạp. Trong khi đó, Alexander lại chạy đua để hoàn thành luận án của mình với một phong thái làm việc chăm chỉ, kỷ luật, vùi đầu suốt 12 tiếng mỗi ngày trong nhiều ngày trời ở phòng thí nghiệm và thư viện.

Anh được mời làm việc ở đại học Johns Hopkins ở Baltimore, bang Maryland, Mỹ với tư cách là một thành viên của nhóm nghiên cứu. Anh hỏi tôi có đồng ý cưới anh không. Lời cầu hôn trịnh trọng đó được đưa ra trong bữa ăn tối tại một nhà hàng Italy có rượu và có cả màn tặng nhẫn - một chiếc đính hạt kim cương nhỏ xíu. Alexander không muốn đi Mỹ mà không có tôi đi cùng. Anh nói tôi là ánh sáng của cuộc đời anh, là một con khỉ đen nhỏ đẹp kỳ lạ có những ngón tay cong lại với niềm thích thú khi cô ấy vui sướng và tranh luận với một niềm đam mê thinh lặng không nói ra về những gì cô ấy quan tâm: văn chương, quần áo, màu son môi. Với anh, tôi là một cô gái nghiêm trang mà nhẹ dạ, đầy hứng thú và gợi tình, quyến rũ, phải nói là vô cùng quyến rũ, v.v… Tôi thốt lên: “Có phải đây là cách anh thực sự nhìn nhận em không?”. “Ừ.” - anh đáp, ngạc nhiên vì tôi không hiểu đó chính là con người tôi. Tôi có thực sự cần anh trở thành một tấm gương cho tôi soi hay không cơ chứ?

Bố tôi lo lắng về nhiệm vụ dắt tôi tới trao cho chú rể trong lễ cưới tại nhà thờ, về việc đi giữa hai bên dãy ghế trong bộ cánh đuôi tôm đi thuê khi mọi con mắt đều đổ dồn về phía ông. Ông căng thẳng đến nỗi điều đó làm cho ông phát ốm. Ông bắt đầu mọc một cái nhọt độc và lo lắng về nó.

Ông nói với ông chủ của mình là Axelrod: “Ông biết không, tôi không thích điều đó tí nào. Tôi không có giấy chứng nhận rửa tội giống như chúng tôi đã làm một cái cho Vivien khi con bé mới chào đời. Nó có đủ giấy tờ, còn tôi thì không. Đó là điều mà anh không nên làm nếu anh không có giấy chứng nhận. Người ta có thể dựa vào đó mà nói những lời lẽ không hay về anh.”

Bố tôi gắn sai đá quý vào một chiếc vòng cổ. Thay vì gắn kim cương, ông lại gắn ngọc bích màu xanh lơ. Đây là lần đầu tiên bố tôi nhầm lẫn trong gần suốt 40 năm làm việc trung thành cho duy nhất một công ty. Ông chủ Axelrod của bố tôi nói đám cưới đang ám ảnh đày đọa ông. Axelrod cho rằng bố tôi đã phát ốm vì lo lắng. “Theo chỗ tôi nghĩ, anh đang gặp vấn đề về tâm lý. À mà nhân tiện đây cho tôi hỏi Hereford là ở đâu ấy nhỉ? Herefordshire thì tôi có nghe rồi nhưng Hereford thì chưa bao giờ nghe đến. Con bé cưới để làm gì kia chứ? Nó còn quá trẻ cơ mà,” - Axelrod bình phẩm với bố tôi về đám cưới.

– Tôi đã nói với ông rồi. Thằng bé ấy có một công việc ở Mỹ, làm ở một phòng thí nghiệm.

– Có phải nó sắp tìm ra cách chữa bệnh ung thư không?

– Ông cũng biết à? Chính xác là như vậy đấy. Để tôi nói cho ông biết nhé, nó làm trong một nhóm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu chữa bệnh ung thư.

– Đội nhóm kiểu như trong bóng đá hay criket chứ gì.

– Vâng, nhưng đây là một kiểu đội nhóm khác, nhóm nghiên cứu khoa học. Lúc mà họ hoàn thành, tất cả mọi căn bệnh đều sẽ không còn gây chết người nữa, đơn giản là như vậy đấy.

– Thế thì đến lúc đó, con người sẽ chết vì cái gì?

– Làm sao mà tôi biết được! Có lẽ khi đó chúng ta sẽ trường sinh bất tử.

– Ý anh nói là tôi sẽ phải chịu đựng anh vì anh làm ở đây mãi mãi à?

– Cái gì, bây giờ ông định đuổi tôi chỉ vì tôi sống bất tử sao?

Tôi phải tự mình đi dọc xuống hai bên hàng ghế trong nhà thờ. Bố tôi sẽ nôn đầy ra váy cưới của tôi nếu tôi bắt ông phải làm cái việc đầy thử thách này. Thế là hoàn toàn chỉ có một mình, tôi bước đi trong bộ váy cưới dài bằng xa tanh màu xám, tới chỗ chú rể của mình, trong khi anh đứng đợi ở đó với bộ comple mới, tóc cắt sát gáy, má cạo sạch sẽ.

Vậy là xong. Bố tôi ngồi xuống đánh thụp và cầm tờ giấy in bài hát thánh ca của mình quạt lấy quạt để. “Berta này” - ông thì thầm với mẹ tôi - “tất cả mọi rắc rối của chúng ta đã qua hết rồi. Giờ thì chúng không thể chạm tới chúng ta được nữa.”

– Xin anh đấy, Ervin! - mẹ tôi đáp - đừng có mà đi khoe khoang với ông anh của anh về việc này đấy nhé.

* * *

Bố mẹ tôi mua cho chúng tôi vé đi hưởng tuần trăng mật, xem như là quà cưới. Điều này thật cảm động vì bản thân họ chưa bao giờ đi nghỉ ở đâu, hầu như chưa bao giờ rời London suốt gần 40 năm chứ đừng nói đến chuyện ra nước ngoài, ngoại trừ nơi mà họ đã rời đi để đến Anh. Nhưng làm cách nào mà họ có thể tìm được một khách sạn và biết được nơi nào lý tưởng để hưởng tuần trăng mật? Còn việc sắp xếp cho chuyến đi thì sao? Ý tưởng tổ chức một tuần trăng mật như thế nào có thể xuất phát từ những chương trình ti vi. Bố mẹ tôi biết trăng mật chắc chắn phải có món cocktail, có những ly sâm panh và có những buổi ngắm hoàng hôn gần như hiển nhiên là ở một bãi biển nào đó hay chí ít là cũng tại một nơi có khung cảnh nhìn ra biển. Họ nhất định chọn nơi có cảnh biển. Từ trước đến giờ, bố mẹ tôi mới chỉ thấy nước chảy ở một nơi không phải trong bồn tắm của mình có một lần. Đó là khi họ có một chuyến đi biển dữ dội băng qua Eo biển Anh hồi trước chiến tranh. Họ ở dưới boong tàu suốt cuộc hành trình, thỉnh thoảng liếc vội đầy vẻ kinh hãi qua ô cửa sổ ở mạn tàu để nhìn ra ngoài mặt biển đen cuồn cuộn sóng. Nhưng bố mẹ tôi biết rằng biển không phải là như vậy. Chẳng hạn như phải có một loài cây họ cọ nào mọc ở đó dù họ không thể quyết định đó là cây gì: chà là, dừa hay là chuối?

Sau nhiều đêm bàn bạc, bố tôi quyết định đi đến một việc mà đối với ông là một bước đi lớn: ông quay sang những người duy nhất mà cả hai biết có thể giúp đỡ được họ. Đó là những người hàng xóm vui mừng hồ hởi, đặc biệt là những người sống lâu năm ở Benson Court vốn đã từng chứng kiến tôi lớn lên như thế nào, nô đùa ầm ĩ một mình ở các dãy hành lang trải thảm, tinh nghịch nhấn nút thang máy và chạy vòng quanh khu vườn công cộng trong thế giới tưởng tượng của tôi ra sao.

Gilbert, người đã lấy đi trinh tiết của tôi và vui mừng chuyển tôi cho một anh chồng, đã thu xếp một cuộc họp tại căn hộ của anh ta để quyết định nơi chúng tôi sẽ đi hưởng tuần trăng mật. Bà nữ diễn viên ballet đã có mặt ở đó. Rồi tiếp đến, lão chồng “đại gia” của bà ấy, cô phát thanh viên đài BBC và một vị bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình bước vào. Một số người quan tâm và có đầu óc bảo thủ cũng đến. Cả thảy có 10 người, không tính bố mẹ tôi - hai con người chưa một lần nào đặt chân sang căn hộ của người khác trong khu chung cư. Họ hoàn toàn chẳng hề biết những người khác đã sống dưới cùng một mái nhà theo cách này: với bàn uống cà phê, bộ chén bát ăn tối, tranh, thảm, đồ trang trí, rèm thêu kim tuyến, trường kỷ bọc vải hoa sặc sỡ, giá sách, tủ chè và tua trang trí.

Sau một hồi tranh luận kịch liệt - hết hai bình cà phê và một bầu rượu mà bố mẹ tôi không hề đụng đến nhưng thay vào đó là ăn chocolate đen nguyên chất bọc giấy bạc - họ chọn Riviera của Pháp, đặc biệt là Nice, khách sạn Negresco. Rồi một cuốn sách quảng cáo mỏng với chú thích về giá cả được gửi đến bố mẹ tôi. Cả hai cùng đặt tay lên ngực như thể họ sắp lên cơn đau tim rồi kêu lên thất thanh bởi sốc trước biểu giá. Tiếp đó là thư từ, điện tín và giấy đặt cọc tiền. Họ đặt ba đêm nghỉ tại một căn phòng nhìn ra biển và có ban công, kèm ăn sáng và một bữa tối.

Gilbert nói:

– Được đấy. Cô ấy sẽ thích cho mà xem.

– Nơi mà con sắp đến nổi tiếng lắm đấy - bố tôi nói. - Đó là tất cả những gì con cần phải biết. Chà! Nổi tiếng!

– Nổi tiếng để làm gì kia chứ? - Alexander hỏi khi chúng tôi xuống một chiếc taxi và đi vào sảnh khách sạn. - Để trở thành thô bỉ à?

– Nhưng em thích nơi này - tôi đáp, mắt nhìn quanh.

– Cái gì cơ? Em thích cái gì?

Tôi thích tất cả mọi thứ: quầy bar ốp gỗ, những cái đèn chùm nặng trĩu, những tấm thảm thêu, tháp thủy tinh rượu whisky, một không khí ăn chơi xa xỉ, sang trọng và chây lười hưởng thụ. Tôi thích một đứa bé khó chịu mặc áo khoác lông chồn nhỏ xíu đang thơ thẩn dạo chơi phía trước tượng điêu khắc tác phẩm cắm hoa; thích những phụ nữ tóc vàng mặc đồ vải tuýt, đeo ngọc trai giản dị, ngồi trong ghế bành có bọc nhung ở tay ghế để nhâm nhi cocktail; thích tên của những món ăn trên thực đơn đặt ở một cái khung mạ vàng ngoài phòng ăn.

Và hơn hết thảy, tôi thích hình ảnh phản chiếu của chúng tôi trong gương mỗi khi chúng tôi đi ngang qua: một anh chồng trẻ người Anh mặc áo sơ mi trắng để hở cổ, khoác áo vest vải linen màu xanh da trời, sánh vai cùng cô vợ ngăm đen thích thoa son đậm ở môi trên và có đôi mắt màu nho khô. Làn da tai tái cô ấy được bù đắp lại bằng đôi môi son đỏ tươi. Cô ấy mặc một chiếc áo khoác len nỉ boucle, váy ngắn bằng vải nhiễu màu xanh đậm và đi giày hai màu.

– Giờ thì em vui như cá gặp nước rồi đấy nhé! - Alexander nói - Em ăn mặc rất hợp với khung cảnh ở đây.

Chúng tôi tản bộ dọc theo vịnh Các Thiên thần[18]. Tôi nghĩ thầm giờ thì mình đã thành người có gia đình, giờ thì mình là bà Vivien Amory chứ không phải là cô Vivien Kovacs nữa. Và, mình đã được tự do. Thế nhưng, tôi vẫn không hiểu hết vì sao Alexander lại say mê tôi. Dù anh có phản ánh thật chi tiết về con người tôi đi chăng nữa, tôi cũng không tài nào hiểu thấu.

Tôi hỏi anh:

– Sao anh hết sức chắc chắn là mình sẽ thành đôi khi anh tình cờ gặp em ở bồn tắm hôm đó vậy? Làm cách nào mà anh biết chắc ngay từ lần đầu tiên?

– Chúng mình rất có duyên có nợ với nhau. Chúng mình là ông và bà Amory, - Alexander vừa trả lời vừa vòng một tay ôm tôi rồi đặt một nụ hôn lên đỉnh đầu tôi. Nhiều khách bộ hành mỉm cười với chúng tôi vì rõ ràng vầng hào quang hạnh phúc tân hôn vẫn còn tỏa ra từ anh và tôi. Alexander lại tiếp tục giải thích cho tôi: “Thế hệ nào của dòng họ Amory cũng cưới người tóc vàng cao ráo. Thế là dòng họ nhà anh cứ mỗi ngày một dài ra, trắng ra cho đến khi mọi người trông giống như những con giun. Khi anh sắp sửa học đại học, bố anh mới bảo ‘con có thể hạ thấp chiều cao đó được không? Và nhớ tìm lấy một chút máu đỏ cho huyết quản nhà ta’. Vậy là em xuất hiện. Ngay ở đó, đang tắm. Dĩ nhiên là em hoàn toàn chẳng như những gì bố anh hình dung trước đó trong đầu nhưng anh không thể ngừng yêu em.”

– Thế bố anh hình dung gì vậy?

Đáp lại câu hỏi của tôi, Alexander chỉ cười vang.

Chú thích:

[12] Một rặng núi thuộc phía Tây dãy Alpes.

[13] Câu chuyện mùa đông - the Winter Tale’s - là một vở hài kịch được đại văn hào Anh William Shakespeare sáng tác vào năm 1610.

[14] Amedeo Clemente Modigliani (12.7.1884 - 24.1.1920) là một nghệ sỹ người Italia, họa sỹ kiêm nhà điêu khắc đã hành nghề phần lớn thời gian ở Pháp.

[15] Đây là hình ảnh liên tưởng có liên quan đến một câu chuyện về sự không trung thực đối với Vua Henri VIII (28.6.1491 - 28.1.1547). Sau một mâu thuẫn giữa giáo hội Công giáo Anh và vua Henri VIII, giám mục hạt Glastonbury là Richard Whiting muốn lấy lòng vua Henri nên nảy ra ý định tặng vua 12 điền trang tại hạt Glastonbury. Whiting sai làm một chiếc bánh Giáng sinh lớn rồi bí mật giấu 12 chứng thư xác nhận quyền sở hữu 12 điền trang này vào bên trong chiếc bánh để tặng vua Henri. Jack Horner, quản gia thân tín của Whiting, đem bánh tới London. Trên đường đi, Homer đã bóc bánh, lấy trộm một chứng thư của điền trang trù phú nhất thuộc thái ấp Mells để giữ riêng cho mình.

[16] Fair Isle là một hòn đảo hẻo lánh ở Scotland.

[17] Hội thi chó Crufts được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1891 theo sáng kiến của Charles Cruft và lâu nay vẫn được coi là hội thi chó lâu đời, qui mô và uy tín nhất thế giới. Nó được tổ chức hàng năm tại Birmingham, Anh.

[18] Vịnh Các Thiên thần - Baie des Anges nổi tiếng ở thành phố Nice của Pháp, nơi giới thượng lưu thường lui tới tắm nắng.