← Quay lại trang sách

Chương 7

Trong suốt quãng đời dài vô tận của bố tôi, từ khi sinh ra cho đến khi ông mất ở tuổi 86, tôi có cảm giác mình là một người lạ đối với ông. Ý tôi không phải là ông không yêu thương tôi. Tôi biết là ông có yêu tôi, nhưng ông rất nghèo cách thể hiện bất kỳ một tình cảm nào. Có quá nhiều điều trong tính cách của bố tôi đã cản trở ông làm điều đó. Chúng nhiều đến nỗi ông cảm thấy tốt nhất, dễ dàng nhất là chỉ đơn giản ngồi xuống rồi ngắm nhìn tôi qua đôi mắt kính bám bụi đen sì của mình. Khi đó, ông nghĩ tôi cũng đang chăm chú giống hệt như ông vẫn thường như vậy trước màn hình ti vi.

Tối nào cũng vậy, bố tôi đi làm về với đôi mắt sưng húp, bật ti vi lên và ăn những gì mà mẹ đặt trước mặt ông. Một lúc sau, dường như ông mới chú ý đến sự hiện diện của tôi.

– Vivien, con vẫn đang làm gì ở đây thế?

– Kìa bố! Con ở đây mà.

– Dĩ nhiên là bố phải cho con gái một mái nhà để trú ngụ nhưng ý bố hỏi là sao giờ này con vẫn chưa đi tìm việc chứ? Con nghĩ đi làm là tủi nhục lắm à?

– Dạ không, con có nghĩ thế đâu.

– Những kẻ không thích đi làm đều là người xấu. Đó là kinh nghiệm mà bố thấy.

– Con biết bố đang nói đến ai rồi.

– Ai? Bố nói đến ai chứ?

– Bác…

– Đừng có nhắc đến cái tên đó trong nhà ta. Dù gì chăng nữa, bố cũng không có ý nhắc đến cái ngữ đó. Bố muốn nói đến phường ăn không ngồi rồi mà bố thấy trên ti vi, đó là chưa kể đến những kẻ có công ăn việc làm mà không chịu đụng chân đụng tay. Chẳng hạn như cái đám thợ mỏ ấy.

– Đừng có nhắc đến chính trị đấy, - mẹ tôi chen vào. - Em buộc phải nhắc anh bây giờ, ngay tại chỗ này.

Bố mẹ tôi đã nuôi tôi trở thành một con chuột nhắt. Để tỏ lòng biết ơn đối với nước Anh vì đã cho họ một nơi nương tựa, họ chọn cách sống như những người có lá gan chuột nhắt và điều kiện sống như chuột: không nói chuyện nhiều (với người ngoài và với nhau), sống lặng lẽ và giản đơn, chăm chỉ và phục tùng. Và họ mong muốn tôi cũng trở thành người như vậy. Dù ông bác Sándor như thế nào đi chăng nữa, ông cũng không phải là một con chuột. Nếu ví ông với một con vật gì đó thì ông phải là một con tê giác, đầm mình trong lớp bùn của sông, húc nhau, giành giật nhau. Thậm chí lúc ông ngủ, nếu ông trở đôi vai rộng của mình thì mặt đất cũng rung chuyển.

– Ông đó là ai vậy bố? - tôi đã từng hỏi bố tôi câu này sau khi ông đóng sầm cửa, chấm dứt cuộc viếng thăm bất ngờ của ông bác Sándor vào năm 1963.

– Chẳng là ai cả. Quên đi!

Nhưng tôi vẫn nhằng nhẵng đeo bám:

– Bố, ông ấy là ai vậy? Nói cho con biết đi, bố!

Rồi tôi leo vào lòng bố tôi, điều mà tôi ít khi dám làm vì nó sẽ làm cho ông nổi giận (Bố không thấy màn hình gì cả. Bố lỡ hết mọi thứ rồi. Tránh ra xem nào!) hoặc ông sẽ vùi mặt vào tóc tôi ngửi, đoạn nói với mẹ: “Con bé có ngon lành để ăn thịt được không?”. “Có” - bà đáp bằng một câu trả lời quen thuộc trong không biết bao nhiêu lần họ nói đùa về tôi - “ăn với xốt chocolate và kem ấy”. Qua nhiều năm tôi cứ ngỡ rằng có lẽ họ thực sự muốn ăn thịt tôi. Ta không thể nào dám tin tưởng chắc chắn vào họ. Có lẽ đó là truyền thống cổ xưa của người Hungary: nấu thịt con gái mình để phục vụ cho bữa tối, giống như mụ phù thủy già trong quyển truyện tranh đã bắt hai anh em Hansel và Gretel nhốt trong ngôi nhà đồ sộ của mụ.

Ngay cả khi đã biết những gì ông bác Sándor của mình làm (không lâu sau cuộc viếng thăm bất ngờ, tôi biết qua tin tức trên ti vi, điều mà bố mẹ tôi không thể che đậy tôi được), tôi vẫn hết sức tò mò muốn tìm hiểu vì sao bố tôi lại phản ứng mạnh mẽ đến vậy. Tôi biết bố không phải là người nóng tính và ghim gút trong lòng nhiều mối hằn thù ác cảm truyền kiếp với những người mà tôi chưa bao giờ gặp mặt, những người đã chết trước khi tôi ra đời. Nhưng chưa bao giờ tôi thấy ông bùng nổ giận dữ giống núi lửa đang sùng sục phun trào như vậy. Tôi cũng chưa bao giờ thấy ông tuôn cả một tràng tiếng nước ngoài mà ban đầu tôi cứ nghĩ là tiếng Hungary nhưng hóa ra là không phải.

– Thế con phải nói thế nào khi người ta hỏi con có quan hệ gì với ông ấy không hả bố? - Tôi hỏi lúc sắp đi học đại học. - Bố có nghĩ là nên cho con biết thêm một chút được không? Bố nói là ông ấy đã nói dối khi khẳng định mình là anh trai của bố…

– Thì con đừng có nói một lời nào về con người đó, - mẹ tôi xen vào - không nên hé răng lấy một lời nào, con à.

– Con không có ý sẽ kể với người ngoài chuyện gia đình ta. Dĩ nhiên là con sẽ không kể gì rồi. Nhưng bố mẹ có nghĩ là bây giờ con có quyền được biết không? Ông ấy cũng là người nhà mình cả mà.

– Người nhà hả? Quân đó chẳng còn là người nhà từ lâu lắm rồi, trước khi con sinh ra cơ.

– A ha!

– Ôi, xem kìa! Xem con đã gài bẫy để bố nói ra kìa.

Tôi bắt đầu cười phá lên. Qua mặt ông già thật không dễ dàng chút nào. Thường thì ông hay dựng lên một bức tường từ ngữ không thể nào xuyên thủng được.

– Cuối cùng thì ông ấy cũng là một người họ hàng với mình, phải không bố?

– Thứ họ hàng mà con có thể từ. Ai biết đó là họ hàng nào?

– Còn gần hơn thế nữa… vì… vì ông ta là anh trai của bố!

Bố tôi chẳng nói gì và tôi biết lần đầu tiên mình đã đánh bại ông.

– Hãy nghĩ tới những gì mà người bố tội nghiệp của con đã phải chịu đựng suốt bao nhiêu năm qua, - mẹ tôi cất lời. - Con phải biết rằng người đàn ông đó có thể đem đủ thứ tai họa giáng xuống đầu chúng ta. Con có biết không, bố mẹ tránh ông ta càng xa càng tốt là vì con đấy, Vivien.

– Hạng người đó là phường độc địa, - bố tôi nói tiếp. - Lúc nào cũng vậy. Chưa bao giờ hắn tốt đẹp cả.

– Thế ông ấy có chạy sang Anh cùng với bố mẹ không?

– Không, hắn ta không nhìn thấy những gì sắp xảy ra giống như chúng ta. Mình thông minh và mình đọc sách, phải không Berta? Bố mẹ tập trung chú ý và không hão huyền nghĩ rằng mình có thể tìm được phép màu từ những thứ khủng khiếp đang xảy ra. Bố mẹ hiểu rằng một khi người ta đã có những suy nghĩ chính trị trong đầu mình thì sớm muộn gì họ cũng trở thành người của súng ống chứ không phải chỉ có ý nghĩ nữa. Và, khi gặp người nào có những ý nghĩ và súng ống như vậy thì, chà chà, ta lập tức phải chạy đi, chạy thục mạng, chạy đến hụt hơi để hắn không còn trông thấy ta nữa. Nhưng cái đồ chết tiệt ấy thì không! Ngay cả khi chiến tranh đã qua rồi mà hắn ta vẫn bám riết ở đó. Hắn trụ lại mãi đến năm 56 mới chạy. Đồ ngu xuẩn!

– Thế điều gì đã xảy ra với ông ấy trong chiến tranh hở bố?

– Ừ thì hắn phải sống khổ sống sở. Bố sẽ nhượng bộ hắn ở điểm đó nhưng không thể lấy khốn khó ra để bào chữa cho hắn được ở chỗ nào.

– Thôi được, bố. Nhưng cái gì…?

Một tiếng chuông điện thoại reo lên, cắt ngang câu hỏi của tôi. Và bố mẹ tôi - những người chỉ tin Chúa một cách chừng mực, miễn đó là một vị Chúa để cho họ yên, không soi mói vào chuyện riêng của họ hay nhất mực cho rằng họ có thể xem ti vi, một vị Chúa dễ chịu không thuộc riêng bất kỳ một giáo phái nào - xem giây phút điện thoại đổ chuông là một phép màu. Việc này chỉ xảy ra vài lần một năm. Đại lý của ông chủ nhà gọi tới để thông báo người của họ sắp đến để thay cáp thang máy bị đứt. Họ muốn bố mẹ tôi không phải lo lắng, không đòi mấy người thợ phải cho xem giấy chứng minh hay gọi cảnh sát như lần trước.

Sau nửa giờ ngâm nga trao đổi kéo dài giữa bố mẹ tôi với gia đình là chủ sở hữu căn hộ này - những người đại hảo tâm không mong chờ lòng biết ơn của những người thuê nhà mà thực sự chỉ muốn tránh càng xa càng tốt những bất động sản cho thuê của mình để trốn trong những căn biệt thự riêng ở miền Nam nước Pháp, rõ ràng là chủ đề về ông anh của bố tôi, ông chủ nhà trọ ổ chuột khét tiếng, không thể được khơi gọi tiếp được nữa. Chẳng còn đà để nói chuyện.

Tôi vào giường mà đầu óc vẫn vẩn vơ suy nghĩ về ông bác của mình. Tôi thêu dệt một vài cuộc gặp gỡ tưởng tượng giữa tôi và ông ấy mà qua đó, cuối cùng tôi cũng phát hiện được chính xác bố mẹ tôi là người thế nào lúc họ còn ở Budapest, chính xác là họ đã chọn đi theo con đường này hay vận mệnh run rủi làm thay đổi cuộc đời họ.

Những ý nghĩ mơ tưởng hão huyền thật nhẹ nhàng dễ chịu, đưa tôi vào giấc ngủ thanh bình với đủ hình bóng màu sắc sặc sỡ nhảy múa trong đầu. Rồi sau đó, tôi đi học đại học, cưới chồng và quên bẵng chuyện về ông bác cho đến khi tôi quay trở lại trên chiếc giường thuở thơ ấu với những ý nghĩ xưa cũ tìm về.

Nếu ta thất nghiệp, nếu ta đối mặt mỗi sáng với nỗi u sầu ngày nào cũng như ngày nấy, ta hẳn sẽ nhận thấy việc đọc sách cũng không thể kéo dài đủ để lấp kín tất cả mọi giờ thừa thãi. Đó là vì, tình trạng không có công ăn việc làm và gần như cũng chẳng có bạn bè, buộc bố mẹ già ốm yếu của ta phải nai lưng đi làm để nuôi đứa con ăn không ngồi rồi tác động kỳ lạ lên tinh thần ta. Ta nhận ra ngày dài đằng đẵng đến thế nào và trách nhiệm của chính ta là phải lấp đầy những ngày dài ấy bằng những trò tiêu khiển của riêng mình. Nhưng hóa ra những trò tiêu khiển ấy eo hẹp một cách sửng sốt, đến độ nào ta trở thành một kẻ vờ vịt, dối trá như thế nào, ta đã lừa phỉnh chồng mình ra sao, lừa phỉnh người đã tin tưởng ta, người đã cho rằng ta quan tâm cân nhắc đến những ý nghĩ nhiều như anh ấy.

Và thế là ta tìm thấy một người bạn trung thành trong các quân bài. Ta bày chúng lên bàn trong những ván chơi bất tận của sự kiên nhẫn cho đến khi chán ngấy tận cổ những quân át, bích, cơ, nhép, rô đến già, đầm… Tất cả cứ hết đen rồi đỏ, đỏ rồi đen. Ta chán, chán đến nỗi thấy chúng bầy lúc nhúc trước mắt rồi đứng dậy để tự nhảy bổ vào ta với những vẻ mặt vương giả thiển cận mà tự mãn, đầu quay sang một bên nhìn vào rìa quân bài.

Tôi mua một bộ Kinh Dịch cũ - một loại sách cổ xem tử vi vốn thịnh hành vào thời đó - và úp hai bàn tay vào nhau, gieo quẻ với những đồng xu. Chưa một lần nào tôi gieo được quẻ tốt. Kinh Dịch không phán được chính xác tương lai nào thực sự dành cho tôi. Nó không nói được điều gì sẽ đến sau khoảng độ một năm nữa khi tôi cuống cuồng lên vì không sử dụng thời gian của mình một cách có ích, hoàn thành bản luận án sau đại học để bắt đầu cuộc đời đi làm hay chí ít là cũng dồn thời gian đọc tất cả sách của Proust hay Tolstoy thay vì chơi với những đồng xu hay với những con chữ tượng hình Trung Quốc. Nhưng trong thế giới của những đại văn hào xuất chúng, tôi càng cảm thấy mình vô dụng và tầm thường hơn. Tôi chỉ muốn đóng sách lại và bò xa khỏi chúng, chui vào chăn và nằm mãi không dậy cho đến khi mẹ tôi gõ cửa và kêu lên: “Sao? Con định nằm thối cả ngày trên giường đấy à?”

Thế là tôi dậy đi bộ.

Tôi bước nặng nề về hướng nam, xuôi xuống phố Oxford, lang thang qua những hành lang của khu mua sắm Selfridges mà chẳng có một đồng xu dính túi. Tôi đi xuống một đường hầm dành cho người đi bộ rồi đi lên ở Marble Arch và đi xuống tiếp tới Công viên Hyde Park để ngắm những con thiên nga trên hồ Serpentine và lắng nghe những diễn giả kỳ quặc, lập dị đứng trên những cái bục tam ở góc Speaker’s Corner hay đôi khi ở phía Đông hoặc phía Tây trung tâm thành phố, dọc theo phố Marylebone, giữa khoảng cách của các ga xe lửa. Đầu óc tôi trống rỗng, chẳng có cái gì ở trong, hoàn toàn không có một thứ gì hết. Đôi lúc, tôi tìm thấy một ghế đá, ngồi xuống và ngủ thiếp đi. Khi ta ngủ trên ghế đá ngoài đường, ta biết mình đang gặp vấn đề rắc rối.

– Y như bà Prescott vậy, - mẹ tôi than. - Con đang trở thành người giống như bà ấy, con có hiểu không? Có thể là bà ấy cũng có những nỗi đau buồn, nhưng nhìn xem, con mà cứ đi lang thang mãi như thế này thì sẽ điên mất thôi, giống hệt bà ấy đấy.

Ta đã biết gì về đau buồn sầu khổ nào? - tôi nghĩ thầm. Ta vẫn chưa sống, chưa thực sự sống bao giờ. Ta chẳng có tí khái niệm thế nào là sống. Ta không biết nó như thế nào mỗi sớm mai thức dậy và trông thấy ánh sáng xuyên qua rèm, cảm thấy mặt trời đang ngập ngừng gieo những mảng nắng lên các bức tường, tinh thần ta phấn chấn trước vẻ rực rỡ của một ngày mới nhưng rồi chợt nhớ ra những gì ta đã biết: chẳng có một ngày mới nào cả, hoàn toàn chỉ là một sự lặp lại của ngày hôm trước mà thôi. Ta sẽ không bao giờ được mơ màng nghe thấy Alexander nói về những protein của anh hay nhẹ nhàng tra khảo anh về thời thơ ấu của anh. Không bao giờ còn được cùng nhau đi dạo trong Công viên Hyde Park hay cùng nhau lên máy bay, vút bổng lên trời rồi hạ xuống một thế giới mới được nữa. Không bao giờ, không bao giờ nữa. Anh sẽ không hôn ta. Anh sẽ không khăng khăng đòi ta phải đi đôi giày đỏ mũi nhọn bo tròn kín gót, cao lênh khênh mà anh gọi là giày nhức mỏi nữa.

Anh sẽ không pha trà buổi sáng và đem đến tận giường cho ta. Ta sẽ không bao giờ đi tìm tặng anh đĩa hát mà anh thích có Glen Gould[20] chơi những Khúc biến tấu Goldberg và chứng kiến niềm vui trên gương mặt anh khi anh mở gói quà. Ta sẽ không bao giờ cắt móng chân cho anh khi cái lưng của anh đau đến nỗi không thể cúi xuống được sau hàng giờ liền ngồi gập người quan sát qua kính hiển vi. Ta sẽ không bao giờ còn được đọc những bài thơ mới về lũ ngỗng trời vì sẽ không bao giờ có những bài thơ mới nào nữa. Anh sẽ không bao giờ nhìn thấy mặt đứa con của mình và dĩ nhiên cả ta cũng vậy.

(Đó là một nỗi đau sâu thẳm hay chỉ là một sự tàn phá mà một người cảm nhận được khi quay trở về nhà và phát hiện mình bị ăn trộm, ti vi bị lấy đi còn căn phòng thì bừa bãi rác rưởi?)

Đi mà tìm một việc gì làm đi, mẹ tôi nói thế. Một cô gái có tấm bằng đại học có thể tìm được bất kỳ công việc gì cô ấy chọn nếu cô ấy thực sự muốn xem thứ đó là công việc. Đó là vì tấm bằng giống như một chiếc vé đặc biệt mà ta giơ ra cho những người có quyền cao nhất. Và, ngay lập tức, khi vừa trông thấy nó, họ đã biết ta được phép vào trong. Suy nghĩ của mẹ tôi là như vậy đấy. Một người có tấm bằng tốt nghiệp (đặc biệt là tốt nghiệp Đại học York), một người rất am hiểu về Charles Dickens, luôn được xếp vào bậc cao nhất của ngành nghề lao động. Mẹ tôi không biết chính xác những cơ hội việc làm nào đang sẵn có nhưng bà tin chắc rằng bất kể chúng là gì thì chúng vẫn là cơ hội của tôi, dành cho tôi chọn lựa. Chẳng qua là chính cái tính ngang ngạnh bướng bỉnh của riêng tôi đã cản trở tôi tìm một công việc mà thôi.

Hai tuần một lần, tôi đến thư viện trên phố Marylebone để đọc các trang tuyển lao động đăng trên tờ Times rồi viết vào sổ tay của mình địa chỉ những chỗ mà tôi nghĩ mình có thể nộp đơn vào. Tôi gửi đến đó lý lịch trích ngang của mình với mục kinh nghiệm việc làm để trống. Tôi chưa bao giờ có một công việc gì thuộc bất cứ một hình thức nào. Tôi gửi hồ sơ đăng ký làm người nghiên cứu tại hãng tin BBC, làm trợ lý biên tập cho một tạp chí văn học, làm người quảng cáo sách cho nhà xuất bản Faber & Faber. Tôi thậm chí chẳng thể xin được một cuộc phỏng vấn.

Một ngày, tôi nuốt cục tự trọng của mình xuống, nộp đơn xin làm một chân bán bưu thiếp tại cửa hàng ở National Portrait Gallery[21]. Thư xin việc của tôi bị trả lại.

Hết sức giận dữ, tôi gọi điện thoại cho họ. “Sao các anh thậm chí còn không xem đơn xin việc bán hàng của tôi?” - tôi hỏi - “Tôi biết mấy tấm bưu thiếp đó. Tôi biết tên của từng người có chân dung treo tại phòng tranh. Tôi thuộc nằm lòng bức chân dung Chandos của Shakespeare. Tôi có thể nhắm mắt tả nó vach vách.”

– Thật ư? - một giọng nói sắc lẻm vang lên ở đầu dây bên kia. - Có 169 ứng viên nộp đơn cho vị trí này và tới 52 người có bằng lịch sử nghệ thuật.

Tất cả mọi thứ trong tôi đều khao khát, mong mỏi kéo bản thân tôi ra khỏi vũng bùn nhưng tôi vẫn bị mắc kẹt ở đó. Tôi đâm ra ghét chính mình. Tôi sợ rằng nếu tôi đánh mất sinh khí của một tôi cách đây một tháng, khi còn đính hôn với Alexander thì vĩnh viễn suốt quãng đời còn lại, tôi sẽ vĩnh viễn bị giam trong con người của một Vivien Kovaks. Rồi tôi sẽ cưới một người nào đó trong Benson Court, dành một tiếng mỗi tối thăm bố mẹ, lên lên xuống xuống trong cái thang máy đó, cứ vươn lên mãi mà chẳng tới được đâu cả. Hoặc tệ hơn nữa, tôi ở trong căn hộ của mình và trở thành bà Prescott. Có lẽ quần áo của bà ấy đã ăn sâu vào tâm hồn tôi rồi.

Thư viện đầy những người lạnh lùng, nhạt nhẽo và những người không biết nơi nào để đi. Trên tường có nhiều tấm biển cấm khạc nhổ. Dạo này, tôi tuyệt nhiên chẳng thấy có ai khạc nhổ cả, huống hồ là bất kỳ một cảnh báo cấm. Nhưng rồi thì người ta cũng khạc nhổ vào khăn tay mùi soa, và một màn khói nâu xanh lửng lơ trong không khí bên dưới bóng đèn tuýp huỳnh quang làm ngạt phổi những người không hút thuốc lá. Một anh chàng có nước da màu tươi sáng, mặc quần vải tuýt dính đầy vết dơ đến thư viện vào buổi trưa, xách theo một cái túi dây đan đựng một panh[22] sữa và một hộp thức ăn cho mèo. Nhân viên thư viện nhắc nhở anh ta lúc nào cũng phải đặt tay trên bàn bất luận anh ta đang đọc sách gì.

Nhưng thư viện cũng có những khả năng mở ra những phát hiện tình cờ may mắn. Chúng dẫn dắt ta tới những phát hiện đó. Vừa đứng vừa đưa tay dò thư mục sách, tôi nhìn thấy trong hộc chữ k có một cái tên quen thuộc, tên của tôi. Tôi quỳ xuống nền nhà lót vải sơn, cạnh giá sách bằng kim loại và bắt đầu đọc một cuốn sách ngắn nhưng khá giật gân. Bất chấp cái tựa đề hấp dẫn “Kovacs, tên trùm tội phạm”, nó thực ra là một cuốn kể về một cuộc điều tra thực trạng nhà ổ chuột ở khu Tây London. Có một trang rời nhỏ ở giữa sách in hình ảnh của bác tôi, những bức hình chụp qua cửa sổ chiếc Jaguar màu bạc của ông, khuôn mặt phệ đang nhìn chằm chằm qua lớp kính màu tối. Trang kế tiếp là nội dung in lại của một bài báo đáng trên tờ Evening Standard cũng có một bức ảnh giống trang trước nhưng lần này đi kèm với một cái tít in hoa:

“CÓ PHẢI ĐÂY LÀ GƯƠNG MẶT CỦA QUỶ?”

Tôi nhìn kỹ các nét trong bức ảnh: một người đàn ông to lớn chắc nịch có cái môi dưới trề xuống và cái cổ béo trông giống như Alfred Hitchcock[23] bên trên chiếc cà vạt được thắt một cách hoa mỹ đang nhìn lại tôi. Tôi gần như ngay lập tức có thể nhận ra ông ấy chính là bác mình, người đã bấm chuông cửa nhà tôi và xuất hiện với thanh chocolate nhãn hiệu Toblerone bọc giấy bạc màu vàng cùng một cô gái Tây Ấn. Khi đó, tức cách đây đã nhiều năm, ông đứng trên tấm thảm chùi chân trước nhà tôi với một vẻ tràn trề sinh lực và tươi trẻ trong bộ đồ vest màu xanh da trời tươi sáng và cổ tay đeo đồng hồ vàng nạm kim cương lấp lánh. Người bác trong cuốn sách này bị một vết mực đen ố nhòe ăn mất một bên mặt của ông ấy. Những đốm ảnh của bức hình chụp lại có cũng chẳng dành cho ông chút thiện cảm. Chúng khiến ông trông như bị rỗ hoa trong khi theo như tôi nhớ thì da của bác tôi tái nhưng mịn, sực nức mùi nước hoa dùng sau cạo râu đắt tiền.

Đó là một hình ảnh hết sức khốn khổ, tội nghiệp. Kính cửa sổ xe hơi đã hắt bóng lên người bác tôi rồi mà ảnh lại còn được in lại trên thứ giấy láng rẻ tiền của một nhà in có vẻ như là vô danh tiểu tốt. Người đàn ông trong ảnh gợi tôi nhớ đến những tên sát nhân già và những ngôi nhà đầy xác chết được phát hiện giấu dưới ván sàn.

Theo tác giả, bác tôi là một kẻ hoàn toàn tàn nhẫn, một tên côn đồ ti tiện và tham lam, một con quỷ hút máu người keo kiệt. Ông không chỉ là một lão chủ khu trọ ổ chuột mà còn là một kẻ phân biệt chủng tộc đẩy những người thuê nhà da đen của mình vào những điều kiện sống tồi tệ không thể nào tả nổi. Không chỉ có thế, đó còn là một tay anh chị chuyên đi thuê những tên vai u thịt bắp ở trong vùng hành hung những người thuê nhà khốn khổ không thể trả tiền nhà đúng hạn. Danh sách liệt kê các vai trò tội ác vẫn chưa dừng lại ở chủ khu trọ ổ chuột, kẻ phân biệt chủng tộc, tên côn đồ hung tợn, tay anh chị khét tiếng mà còn tiếp tục dài thêm: một tên ma cô dắt mối cho gái điếm vị thành niên của các nhà thổ khắp khu Tây London. Một cô gái kể cô ta đã ba lần sinh con nhưng hai đứa đã chết vì viêm phế quản trong điều kiện sống ẩm thấp và chật chội triền miên. Một đứa trẻ khác ngã từ cầu thang bị mục nát và bị gãy lưng. Một người cha có bảy đứa con chậm nộp tiền nhà và bọn đầu gấu chuyên đi đâm chém mướn của bác tôi đã đánh ông ta bằng dây xích. Còn bác tôi thì sáng sáng thức dậy, cạo râu, thoa lên khuôn mặt giống như Hitchcock của mình nước hoa eau de Cologne mua ở phố Jermyn, xỏ chân vào đôi giày da bê Lobb, bước ngang qua những chiếc đồng hồ và đồ nội thất mạ vàng trong căn biệt thự trên Đại lộ Bishops, tiến đến cái bàn làm việc kiểu Chippendale[24] mà bao quanh là những thùng gỗ đựng hàng còn đóng kín, bên trong chứa toàn những thứ xa xỉ ông đã vô tư mua chịu và thậm chí chưa bao giờ thèm liếc đến chúng lấy một lần.

Những miêu tả về tội ác ghê sợ của bác tôi làm tôi thấy ớn lạnh đến tận xương tủy còn tim thì đông cứng lại. Trước đây, tôi thực sự không biết về mức độ tàn bạo của ông. Những bài phỏng vấn các nạn nhân của bác tôi thảm thiết đến độ xé nát con tim. Những bức hình chụp cảnh bẩn thỉu bên trong những ngôi nhà cho thuê của ông thật đáng ghê tởm. Một số người khai rằng sống trong các trại tù binh của Nhật trong Thế chiến thứ II ở Burma - Myanmar, phải, chính là những trại tù binh kinh khủng đó, còn khá khẩm hơn là sống ở đây. Và sách đã kể lại rằng bác tôi phá lên cười khi ông nghe thấy điều này. Chi tiết đó chứng tỏ tính khí nhẫn tâm của một kẻ bị bệnh thần kinh. Tôi lật tới trang cuối:

“Với việc bắt giữ và sau đó là kết án đối với Sándor Kovacs vào năm 1964, một trong những chương đen tối nhất trong lịch sử khu Tây London đã kết thúc. Chính sách quy hoạch lại thành phố của chính phủ hứa hẹn cung cấp nhà ở mới, hợp vệ sinh với giá thuê chấp nhận được đối với tất cả mọi người. Một nước Anh hiện đại đang được hình thành. Một trong những bóng đen của quá khứ, của những kẻ nước ngoài vô liêm sỉ bòn rút làm giàu trên những thân phận nghèo nhất, yếu nhất đang được nhanh chóng dọn sạch mãi mãi. Một bình minh mới, một sự bình đẳng mới. Thế lực của Sándor Kovacs cùng tay chân và họ hàng hắn đã tới hồi kết thúc.”

Có một số điều trong bài viết mà tôi không thích lắm dù tôi không thể chỉ ra nó sai ở điểm nào. Nhìn vào những gì mà chúng ta có ngày hôm nay, về những khu nhà ổ chuột vốn là 60 nhà ở xã hội đã mọc lên trên những căn nhà ổ chuột mà người ta đã phá để xây cái mới, có vẻ như có một thực tế sờ sờ nhức nhối là các chương trình của những nhân vật chính trị nhìn xa trông rộng luôn luôn kết thúc trong thất vọng. Nhưng dù sao, tôi vẫn thấy ấn tượng một cách buồn nôn với hai cụm từ “những kẻ nước ngoài” và “họ hàng”.

Vì vẫn còn đó nguyên sơ trong đầu tôi hình ảnh cô gái da đen mặc áo khoác nylon họa tiết da báo, cầm chiếc túi giả da cá sấu có khóa mạ vàng. Tôi cũng còn nhớ như in thanh chocolate hiệu Toblerone và sức nặng của nó trong tay bác tôi khi ông cố đưa nó cho tôi, như thể nó là một thỏi vàng thật. Tôi vẫn còn mường tượng rõ mồn một hình ảnh đôi giày da lộn khâu tay của bác tôi và cách ông nhìn tôi một cách vừa thiết tha vừa buồn rầu và bồn chồn lo lắng. Cả cái cảnh bố tôi hét lên còn bác tôi thì cười to không kém. Tất cả những thứ này đối với tôi còn chân thật sống động hơn cả Sándor Kovacs trong cuốn sách.

Chú thích:

[20] Glend Gould là nghệ sĩ dương cầm người Canada, một trong những nghệ sĩ dương cầm cổ điển nổi tiếng nhất thế kỉ 20.

[21] National Portrait Gallery là Phòng trưng bày chân dung quốc gia của Vương quốc Anh. Nó được mở vào năm 1896 để trưng bày chân dung những người nổi tiếng và có tầm quan trọng trong lịch sử nước Anh.

[22] Panh là đơn vị đo thể tích ở Anh, bằng 0,58 lít.

[23] Alfred Hitchcock là nhà làm phim nổi tiếng người Anh.

[24] Một kiểu đồ gỗ cổ thế kỷ 18 của Anh.