Chương 8
Alexander và tôi từng có lần cùng đi dự đám cưới, tại đây, ngay ở London, sau khi chúng tôi đính hôn, trong một dịp giao du với tầng lớp thượng lưu. Đó là đám cưới của một người bạn trước đây từng học chung với Alexander. Trong khi anh đang ở trên sàn nhảy dìu chị của chú rể thì một người phụ nữ đang chống hai khuỷu tay để đỡ người, trông như đã ngà ngà say, nhìn vào thiếp ghi chỗ ngồi của tôi và nói: “Ta phải nói với cháu rằng ta biết bố cháu và ta cũng phải nói là ta thật sự nghĩ những gì xảy ra với ông ấy thật khủng khiếp.”
– Bố cháu ư? Làm sao mà bà biết bố cháu?
– Thôi đi, bé yêu! Bố cháu chắc chắn biết hết thảy mọi người. Những gì mà người ta rêu rao trên báo về ông ấy đều là đồ rác rưởi. Lúc đó, người ta vẫn thấy vui mừng, vinh hạnh được bắt tay ông ấy. Ý ta là dù bất cứ điều gì đang diễn ra, ta vẫn có thể gặp gỡ sánh vai để vui chơi với người mà mình ưa thích. Ai quan tâm đến chuyện đó nào? Ta biết một số người khá là mê mệt trước sự quyến rũ của bố cháu và hẳn sẽ sẵn sàng sống chết theo ông ấy nếu ông ấy chịu nỗ lực xoay xở bằng mọi cách. Dù sao, với ta, ông ấy luôn luôn cực kỳ quyến rũ.
– Nhưng bà không thể nào gặp bố cháu được. Ông không bao giờ đi chơi bên ngoài.
– Ờ bây giờ thì không, có lẽ thế. Nhưng đầu những năm 60, đi đâu người ta cũng đụng phải ông ấy.
– Thế mẹ cháu đâu? Bà đã gặp mẹ cháu chưa?
– À cháu có biết không. Thực sự là ta chưa bao giờ nghe nói về mẹ cháu cả. Ông ấy không nói gì nhiều. Ta cứ tưởng là bà ấy đã chết rồi. Nhưng có lẽ là ta nhầm. Nói thật nhé, ta không nghĩ là mình đã hỏi ông ấy thật sự về chuyện đó. Người ta luôn cho rằng ông ấy là một người phóng túng, ý ta là về chuyện tình ái ấy mà. Mặc dù ông ấy hơi xấu trai, tha lỗi cho ta nói thật, nhưng ông ấy trông lúc nào cũng khá là vui vẻ. Người ta thấy ông ấy khá hấp dẫn dù theo một cách thô lỗ. Phải công nhận là ta ngưỡng mộ ông ấy. Ta có thể dành hàng giờ ở bên ông ấy. Ta chưa bao giờ lên giường với ông ấy nhưng một người bạn của ta thì đã rồi. Dù sao, cháu hãy nói cho ta biết đi, ông ấy bây giờ thế nào rồi?
– Cháu xin lỗi nhưng bà có thể nói cho cháu biết bà nghĩ ai là bố cháu thế?
– Sao? Dĩ nhiên là Sándor Kovacs rồi. Chứ cháu nghĩ ta với cháu đang nói về ai?
Người đàn bà này - người đàn bà có dáng vẻ hoạt bát nhanh nhẹn và nói năng như khiếu, trông tươi tắn dưới ánh đèn chùm thủy tinh, ngồi phía bên kia chiếc bàn bày bừa bãi những tách cà phê và muỗng cà phê bằng bạc - là một người có mái tóc vàng hoe, trông mỏng manh yếu ớt và dễ vỡ, loại phụ nữ hút thuốc như điên và dành rất nhiều thời gian tắm nắng ở Cannes vào thập niên 50, 60. Làn da của bà ta chảy xệ, nhăn nheo thành bao nhiêu đường, bao nhiêu nếp khủng khiếp trên mặt và cổ. Người ta gọi bà ấy là bà Simon Chase.
– Chị gái ta sinh cùng thời với mẹ của chú rể. Chúng ta dường như đều dính dáng đến những người đó theo cách này hay cách khác kể từ trước chiến tranh. Nhưng họ may mắn hơn ta là có hôn nhân bền chặt còn ta là một người đã ly dị sống tự do phóng túng.
Người đàn bà dụi tắt điếu thuốc lá vào chút nước cà phê trong chiếc đĩa nhỏ lót tách rồi nhìn quanh xem có còn gì để uống thêm nữa không.
– Lại bánh ga tô nhỏ chết tiệt. Cháu có thấy phát ngấy khi trông thấy chúng không? Đi đâu cũng thấy bánh ga tô nhỏ và lúc nào cũng chỉ có một kiểu y hệt nhau. Ấy vậy mà không phải không có người động đến chúng đâu nhé.
– Sándor Kovacs không phải là bố cháu - tôi nói. - Tên bố cháu là Ervin. Ông làm ở cửa hàng sửa chữa kim hoàn trên phố Hatton Garden, gắn đá cũ vào đồ mới, hiện đại. Ông sống với mẹ cháu trong một căn hộ ở phố Marylebone High Street.
– Ôi! Lạy Chúa! Cháu có chắc không vậy? - người đàn bà ngước lên nhìn tôi. Mái tóc của bà ấy, mái tóc như cái cái mũ lưới bằng vàng nguyên chất được giữ cứng nếp bằng keo xịt tóc, đứng dựng và bóc khỏi da đầu còn khuôn mặt bên dưới rũ xuống vì sức nặng bởi sau một lát nhìn tôi chằm chằm, đôi mắt bà ấy lại cụp xuống, đảo quanh bàn tìm thêm rượu.
– Chắc - tôi đáp bằng một giọng sôi nổi không e dè kiểu cách của một người hết sức trẻ trung và tràn đầy sức sống, đã vượt qua sự hờ hững, lãnh đạm và dĩ nhiên là không còn điềm nhiên bình tĩnh.
– Nhưng mà, bé yêu ơi, ông ấy kể với ta suốt về đứa con gái nhỏ này mà. Ông ấy nói nó có mái tóc đen, đen huyền. Ông ấy còn nhắc đến tên của nó. Bắt đầu bằng chữ V. Chẳng phải là Vivien hay sao? Chắc chắn không phải là Vera rồi. Hay là Veronica? Không, không thể nào. Ta nhớ khá rõ là ông ấy đã nói cháu được đặt tên theo Vivien Leigh[25]. Cháu thấy không, rõ ràng phải là Vivien rồi. Ta không thể nào nhầm lẫn được.
– Kovacs là họ phổ biến của người Hungary. Sándor Kovacs không phải là bố cháu và cháu cũng không được đặt tên theo Vivien Leigh.
– Ta thấy chuyện này hơi kỳ lạ đó. Cháu cũng chưa bao giờ nghe tới tên ông ấy à?
– Dĩ nhiên là có chứ. Cháu đã nghe về ông ấy rồi nhưng mới chỉ trên ti vi.
Tôi nhìn quanh. Alexander vẫn đang di chuyển lẹ làng quanh sàn nhảy với phong cách duyên dáng quý phái thuộc tầng lớp thượng lưu của anh.
– Thế ông ấy là người thế nào? - tôi hỏi nhanh.
– Ừ thì ta đã nói rồi đấy, hết sức phong trần, ông ấy mặc toàn những bộ đồ đặc biệt nhất, đeo đồng hồ hào nhoáng nhất. Một người giàu khủng khiếp mới phất. Nhưng mà đám nhà giàu mới phất ấy đều thế cả. Họ có tiền để mà đốt và khoe mẽ chưng diện hết cỡ. Cháu có biết không, cái cô ả minh tinh béo mập đang lên với lão chồng là người khu Đông London ấy, bọn họ tên gì nhỉ? Tự nhiên giờ ta chẳng tài nào nhớ ra. Ờ, kiểu như những tay trùm bingo ở sòng bạc Bethnal Green ấy. Có một điều mà cặp đó không dám nói nhiều trên báo vì sợ tai tiếng lùm xùm là lão chồng rất thích mấy cô nàng da màu…
– Sao điều đó lại thành một chuyện bê bối ạ?
– Vì còn ai vào đây ngủ với họ nữa hả, cô bé? Một số người đang ở ngay trong phòng này nhưng ta sẽ không nói tên họ ra đâu. Nhất là vào lúc này, sau tất cả những gì đã xảy ra. Có một điều về Sándor là ta nghĩ mình chưa bao giờ thấy ông ấy cặp kè với một người đàn bà da trắng nào trước mặt mọi người dù ông ấy thực sự có ngủ với họ khi có cơ hội. Cả những cô nàng được nuôi dạy đàng hoàng tử tế cũng thế. Về điểm này thì ông ấy giống như một tay đi săn chiến tích tình trường hơn. Đơn giản chỉ là thêm vào bảng thành tích của ông ấy mà thôi. Rồi với món quà tặng là mũ miện nhỏ, nếu ông ấy xoay xở được, ông ấy luôn đá họ một cách tử tế nhất có thể vào sáng hôm sau. Một người bạn của ta kể ông ấy có những vết sẹo kinh khủng, kinh khủng thật sự ở lưng. Chiến tranh đấy. Khủng khiếp quá! Mấy cô nàng da màu mà ông ấy lôi theo vây quanh càng khiến cho ông ấy thêm tái mét, nhợt nhạt, ít nhất là trong giới của ta. Nhưng cháu có biết không, khi ta gặp ông ấy, ta không thể không nhận ra rằng ông ấy có đôi mắt vô cùng dịu dàng trìu mến. Chí ít là ta nghĩ như vậy. Một đôi mắt màu nâu tuyệt đẹp, giống như chocolate loại khá hảo hạng, về cá nhân ta thì ta nghĩ ông ấy là một nhà hảo tâm được nhiều người biết đến.
Alexander quay lại bàn.
– Hai người đang nói về ai thế? - anh hỏi.
– Sándor Kovacs, - bà Chase đáp.
– À phải. Một đề tài hấp dẫn đây, - Alexander bình luận.
– Cậu biết không, người ta nói ông ấy là quỷ sứ, - bà Chase tiếp - nhưng tôi thì không, không bao giờ nghĩ như vậy. Thiên hạ bàn tán quá nhiều những chuyện vô lý vớ vẩn. Cậu thấy có phải không?
– Vâng - Alexander đáp một cách hờ hững.
Chính trong lúc ở vào tình trạng đau buồn và chán nản tột cùng, cảm thấy mình hết sức thất bại và vô tích sự vào đầu mùa hè năm 1977 đó, tôi quyết định sẽ đi tìm ông bác mình. Tại sao lại không chứ? Tôi chẳng có việc gì khác để mà làm. Càng nghĩ về ông ấy, tôi càng hình dung rõ hơn tấm ảnh và những từ trong cái trang sách ấy - Có phải đây là khuôn mặt của quỷ sứ? - và tôi càng suy nghĩ nhiều hơn về những câu hỏi vượt ra ngoài tầm hiểu biết về sự đời còn hạn chế của tôi. Tôi chưa từng gặp quỷ sứ bao giờ, chỉ mới đọc trong sách, trong những vở kịch của William Shakespeare. Nhưng thậm chí nếu nhân vật tàn độc Macbeth[26], kẻ bị ám ảnh với nỗi sợ một hồn ma, hiện ra là một con người bằng xương bằng thịt thì hắn ta cũng vẫn trôi nổi ở tận đẩu tận đâu.
Và thế là tôi tìm kiếm ông bác mình qua niên giám điện thoại. Ngạc nhiên làm sao, tên ông ấy có ở đó.
Các buổi sáng đã bớt đi vẻ u ám, ưu phiền. Mùa hè bắt đầu và tôi thức dậy mỗi ngày một sớm hơn. Sự tĩnh lặng của thành phố bị vài chiếc xe hơi lơ thơ trên đường thỉnh thoảng phá tan. Tiếp đó là tiếng xe cộ rền rĩ đổ ra những con đường giao thông huyết mạch, tiếng tàu lửa về đến hay rời khỏi những sân ga, tiếng lóc cóc của những đôi giày cao gót gõ xuống vỉa hè bên ngoài cửa sổ nhà tôi - các cô các bà đang rảo bộ đến công sở. Chiếc xe tải nhỏ của người hốt rác nghiến phanh kin kít. Động cơ điện của xe giao sữa vang lên. London vào buổi sáng.
Bố tôi đã rời khỏi nhà cho một ngày dài làm việc của mình còn mẹ tôi thì ở trong bếp, mặc một chiếc áo choàng màu nâu và ngồi uống cà phê sữa. Đầu tóc bà lúc nào cũng rối xù. Trông bà mới thật nặng nề và già nua làm sao. Tôi nhìn thấy những cái vặn vẹo đôi bàn tay đầu tiên của mẹ. Có lẽ chứng viêm khớp mãn tính tăng dần bắt đầu hành hạ thêm cơ thể bà.
– Con biết không, mẹ nghĩ là mình cần phải sơn lại cái ghế đẩu đó - mẹ tôi nói. - Bố mẹ đã mua nó khi bố mẹ mới đến đây nhưng giờ thì nó trông cũ kĩ, tàn tạ quá rồi. Mẹ sẽ sơn lại nó khi mẹ còn đủ sức làm được.
– Sơn màu gì hở mẹ?
– Mẹ cũng không biết nữa. Có lẽ là màu xanh lá cây.
– Vậy thì sơn màu xanh lục bảo hay xanh cỏ đi mẹ.
– Nhưng sơn vậy thì chói quá!
– Mình có thể cải tạo vài thứ quanh đây cho sáng sủa hơn mà mẹ.
– Con nghĩ chúng ta là những người sống buồn tẻ nhàm chán sao?
– Vâng, mẹ ạ.
– Có lẽ là con nói đúng. Khi người ta lúc nào cũng nghĩ có lẽ chỉ cần giữ cho mọi thứ sạch sẽ là đủ rồi thì ai mà quan tâm đến chuyện chúng trông ra sao kia chứ.
Thỉnh thoảng, mẹ tôi cũng kiếm được vài việc vặt ở các cửa hàng như phục vụ ở quầy hàng nhưng bố tôi luôn luôn tìm ra một lý do để kéo bà ra khỏi đó. Một người đàn ông Tây Ban Nha vô cùng đẹp trai có mái tóc đen xịt keo bóng mượt chải ngược ra sau đã từng thích mẹ tôi. Tôi nghĩ ông ta chỉ cảm thấy bà cần vài lời tâng bốc để vui vẻ, phấn chấn lên. Ông ta khích lệ mẹ tôi mua một chiếc khăn lụa thật sự. Sau chuyện này, bố tôi trở nên hết sức om sòm rối rít, quan trọng hóa về chuyện lau chùi nhà cửa. Ông đưa ngón tay lên khắp các bề mặt trong nhà rồi nói với mẹ: “Berta, bà nhìn này, nhà cửa cứ như thể là nhà hoang khi bà cứ ra ngoài làm việc”. Thế là mẹ tôi bỏ việc để mỗi sáng bò ra lau chùi, cọ rửa tấm vải sơn lót sàn và chiều chiều ngồi đan móc những thứ mà không còn ai thèm mặc nữa.
Quãng thời gian vui vẻ của mẹ tôi kéo dài được 10 tuần, trọn trong mùa hè đó. Có lần bà đưa một cái chổi lông chạm vào chóp mũi của bố tôi rồi cười ông.
– Berta, bà có mất trí không đấy? Hay để tôi kêu bác sĩ cho bà?
– Thôi, có gì mà anh làm ầm ĩ lên như vậy. Có một tí nhựa thông dính ở đây này. Anh chùi nó đi nếu anh hay quan trọng hóa đến thế.
– Thế hôm nay con định làm gì? - Mẹ quay sang hỏi tôi lúc bà đang đun nước, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ hướng sang căn hộ đối diện phía bên kia, nơi những tấm rèm vẫn buông ủ rũ, u sầu còn những người sống ở đó thì hiếm khi trông thấy.
– Con sẽ ra ngoài - tôi trả lời mẹ.
– Ồ, mẹ vui khi nghe thấy con nói điều này. Mà con đi đâu lúc mới sớm thế này?
– Con đi bộ, mẹ à.
– Lại đi bộ nữa. Con đã gầy lắm rồi mà cứ đi bộ rồi không ăn không uống gì cả. Mà con có còn đau không, ở dưới đó đó?
– Không, con không còn đau nữa mẹ ạ.
– Vậy là chỉ còn đau ở trong tim thôi. Mẹ giờ này cũng vẫn đau vì những gì mình đã làm. Mà với mẹ, những hai lần cơ.
Tôi chạy khỏi nhà bếp và khỏi căn hộ, xuất hiện trên phố High, băng qua phố Marylebone rồi đi xuống công viên Regent’s.
Bao quanh công viên là nhiều tòa nhà tráng lệ màu trắng. Lũ sư tử trong một sở thú ở đằng xa gầm vọng lại. Băng qua đường, tôi gần như lập tức đến một cái hồ để đi chơi thuyền, nơi có nhiều ngỗng trời giống như những con mà Alexander đã say mê tìm hiểu và sáng tác nhiều bài thơ ca ngợi. Ta có thể đi bộ từ mạn bắc sang mạn nam London xuyên qua các công viên của thành phố, hết Hampstead Heath, Parliament Hill Fields, Primrose Hill xuôi xuống Regent’s rồi tới Hyde Park, Công viên Thánh St Jame’s Park, Green Park - những công viên nằm gần sông - và đi bộ lên mạn tây để tới những không gian bao la rộng mở của Richmond, Clapham và Wandsworth. Công viên này có hươu nai, công viên kia có phòng trưng bày tranh còn những cái khác thì lại có nhà hát, sân khấu hòa nhạc ngoài trời hay sở thú. Chúng là thiên nhiên của tôi - những bãi cỏ được cắt xén, những bục dàn nhạc, những cái hồ để đi chơi thuyền, những chiếc xe bán kem, những quán cà phê đóng cửa vào mùa đông.
Những con ngỗng trời kêu ầm ĩ vào sáng sớm mùa hè hôm đó, đòi tôi phải chú ý đến chúng. Tôi ngồi xuống một băng ghế để ngắm nhìn chúng và nghĩ về những gì Alexander đã trông thấy. Những đôi mắt nhỏ của chúng nhìn lại tôi, những đôi chân có màng của chúng lạch bạch đi qua bãi cỏ. Đàn ngỗng tụm lại quanh những chỗ có vụn bánh mì rơi vãi. Alexander từng có lần nói với tôi rằng ta không thể tưởng tượng được chúng đang nghĩ gì vì não của chúng nằm ở đôi cánh. Chúng có la bàn ở đó. Cả bản đồ nữa. Chúng biết chính xác những gì mình đang làm.
– Xin lỗi, quý cô trẻ tuổi! Đây là ghế của tôi. Ngày nào tôi cũng ngồi đây - một giọng đàn ông vang lên.
Và, ông ấy đứng ngay ở đó, trong chiếc áo khoác không thấm nước, một bên nách kẹp một bìa cứng bọc da. Mái tóc ông ấy đã ngả hoa râm và thưa mỏng, khuôn mặt tái xanh, môi dưới giật giật. Tất cả sức nặng trong lồng ngực to như cái trống và trên đôi vai như bị đè căng ra dưới lớp vải cotton của chiếc áo sơ mi ông ấy mặc. Đôi chân và cả bàn chân của ông trông giống như chân của những con chim kia: những cái chi dưới thừa thãi, vô dụng. Ông ấy đấy, bác của tôi đang ở ngay đấy.
Tôi chưa từng trông thấy một người xanh xao, nhợt nhạt ở tù ra bao giờ. Chẳng có điều gì bác tôi có thể làm được để lấy lại làn da đầy sức sống như trước nữa. Nhà tù đã biến ông ấy thành ra bức họa một màu. Giọng bác tôi cứ ung úng lúc ông ấy nhìn tôi còn đôi tay thì giữ chặt cái bìa da, ép mạnh vào bụng mình. Giờ thì tôi trông thấy cái mũi với cánh mũi dày giống như của mình. Ông có chung đặc điểm này với bố tôi và cũng là đặc điểm di truyền của họ cho thế hệ sau: một cái mũi không to, tẹt và béo tròn. Tất cả những điểm khác thì tôi thừa hưởng từ mẹ mình. Ông bác có khổ người hoàn toàn khác bố tôi với đôi bàn chân nhỏ bé. Điều này quả thật là lạ vì hai bàn tay của ông ấy căng tròn giống như đôi găng tay cao su phồng đầy nước.
– Được rồi - tôi nói, họng khít rịt. - Cháu sẽ dịch ra một chút để nhường chỗ cho bác.
Ông ấy ngồi xuống, vẫn để im không cởi cúc chiếc áo khoác không thấm nước cũng chẳng mở khóa kéo tập bìa cứng bên trong đựng một xấp giấy kẻ và một cái móc giữ một cây bút bằng vàng. Tôi không thể dời mắt khỏi nó. Đây là tất cả Sándor Kovacs mà tôi biết với những món đồ trang trí hào nhoáng và cuộc sống xa hoa trong vàng bạc, kim cương.
– Đẹp chứ hả? - ông bác Sándor vừa nói vừa đưa cây bút ra cho tôi xem. - Nó được làm ở chỗ mà ta gọi là Cartier, chỗ cực tốt đấy. (Ông uốn âm “r” hệt như cách bố tôi phát âm). Họ sản xuất đồng hồ, đủ các loại, nhưng chỉ toàn làm bằng vật liệu tốt nhất thôi. Cô thấy thế nào?
– Cháu thấy nó rất trơn láng dễ cầm.
– Chính xác. Đồ tinh xảo, chất lượng mà! Đó là cách mà ta đánh giá thứ gì đắt rẻ chứ không phải dựa vào chuyện nó tốn bao nhiêu tiền hay nó được làm bằng vật liệu gì.
Tôi có thể ngửi thấy mùi của bác mình vì ông ấy đang ngồi quá gần. Vẫn là cái mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu đắt tiền như khi xưa, mùi hương ngọt gắt gây nôn nao ấy. Người ruột thịt thứ ba của tôi.
Ông bác tôi bắt đầu viết một cách chậm chạp. Bàn tay béo ụ thịt của ông di chuyển qua một câu. Thật là mệt mỏi khi nhìn ông viết như vậy.
– Ừ, phải rồi, tôi viết rất chậm - ông nói, ngước lên nhìn tôi.
– Chậm không phải ở đầu óc mà là ở ngón tay. Tôi bị tê cóng vì sương giá hồi chiến tranh. Vài sợi cơ vận động hơi không chuẩn. Đây là lý do vì sao tôi buộc phải có một cây bút tốt. Nếu không, tôi sẽ đánh rơi bút ngay.
– Cháu thấy rồi.
Ông ấy tiếp tục viết trong khoảng một phút nữa rồi dừng lại, xoa bóp mấy ngón tay.
– Cô đến công viên này thường xuyên à? Cô đi dạo đều đặn ở đây phải không?
– Không, cháu chỉ đi tắt qua đây thôi.
– Tôi thì sáng nào cũng đến đây. Tôi bị mất ngủ, không ngủ ngon được cho nên cứ tinh mơ là tôi đã dậy và đến đây đi bộ rồi. Tôi hay ngồi bên hồ này, chỉ có tôi với lũ chim kia. Tôi và chúng cùng ngắm mặt trời lên trên thành phố London. Phải, tôi thì ngắm cảnh còn chúng thì có việc riêng của chúng để mà quan tâm chú ý. Cái hình ảnh gì mà ta hay nói ấy nhỉ, là nước đọng ẩm ướt lên cành cây ngọn cỏ ấy, trông rất đẹp.
– Là sương.
– Phải rồi, sương.
Ông ấy lại cúi đầu xuống viết. Tôi phải thừ nhận rằng mình không phải là một người tốt.
– Xin lỗi bác nhưng ở đây còn thiếu một chữ a - không kiềm được cái tính tự cho mình là cái gì cũng giỏi, cũng biết, tôi lại ngứa mồm chỉ.
– Cô nói là thiếu một chữ “a” hả?
– Vâng.
– Thế chữ “a” thiếu chỗ nào đâu?
– Trong từ “thừa nhận” ấy, sau chữ “ư”.
– Cô chỉ cho tôi đi.
Ông ấy đưa cho tôi cây bút bằng vàng và tôi viết từ “thừa nhận” ra cho ông. Khi tôi viết xong, ông đánh vần thật to từ đó. THỪANHẬN.
– Thế mà khi tôi đánh vần từ này, miệng tôi vẫn không phát âm thấy chữ “a”.
– Cái chữ “a” đó có thể tinh quái như vậy đấy.
– Cảm ơn cô. Đó cũng là một sự giúp đỡ đấy. Tôi đánh vần không giỏi chút nào. Viết cũng vậy. Đây này, cô nhìn xem tôi đã viết loằng ngoằng như cua bò sáng trăng bao nhiêu chỗ như thế nào này.
– Bác đang viết gì đấy ạ?
– Tự truyện.
– Bác viết tự truyện vì mình là người nổi tiếng à? - Tôi hỏi và chờ đợi giây phút để lộ mình là cháu gái của ông, người đã biết chính xác ông là ai, bởi vì tôi muốn nghe thấy lời đầu tiên ông sẽ nói gì với tôi, sẽ kể điều gì về chính bản thân mình nếu ông tỏ ra hối hận; nếu ông thể hiện mình là một kẻ ăn năn hối cải hay nếu ông bịa ra những lý do bào chữa cho tội lỗi của mình.
– Phải, tôi đã từng nổi tiếng.
Tôi đưa ra một cái cớ để ông nói dối.
– Bác là diễn viên à?
– Không, tôi làm kinh doanh.
– Bác nghỉ hưu rồi à?
– Tôi thôi làm cách đây ít lâu. Nhưng, trước đó, tôi cũng có vài năm huy hoàng. Tất cả mọi người đều được quyền gắn tên tuổi của mình với những năm tháng vàng son đó nếu họ có thể có được nó, và để nâng niu gìn giữ kỷ niệm, hãy làm cho chúng tươi sáng rực rỡ.
Tôi nghĩ đến thanh chocolate Toblerone trong chiếc hộp vàng, đến những món đồ lặt vặt mạ vàng, đến chiếc răng vàng ở tận sâu trong hàm của ông bác mình và chợt hiểu ra với một sự thương hại bất ngờ rằng ký ức này đối với ông cũng quý như vàng. Tôi cũng nhận ra những năm tháng đó mới ngắn ngủi làm sao. Tất cả chỉ vẻn vẹn có bảy năm, kể từ khi bác tôi rời thoát khỏi Hungary cho đến lúc cuối cùng bị bắt, bị xét xử và bị ở tù.
– Thế bác kinh doanh cái gì? - Tôi hỏi.
– Bất động sản và giải trí.
Tôi nghĩ thầm ông không nhớ ra mình. Sao ông nhớ được chứ? Khi xưa, tôi chỉ là một đứa bé gái còn bây giờ tôi đã là một phụ nữ trưởng thành, hay đó là cách mà tôi nghĩ về mình.
Có một vài thời điểm trong cuộc chuyện trò này, lẽ ra tôi đã có thể nói cho bác tôi biết mình là ai và cũng có nhiều lần, như về sau tôi được biết, lẽ ra bác tôi cũng nói thật với tôi về ông vì hóa ra ông nhận ra tôi ngay từ lúc mới tình cờ gặp mặt. Không phải vì ông có một trí nhớ tốt mà vì bố tôi trước đó đã hả hê vào tù gặp ông những ba lần, lần nào cũng đẩy ra cho bác tôi thấy những bức ảnh chụp tôi lúc vào đại học, tốt nghiệp đại học và đính hôn với Alexander. Tất cả để cho bác tôi phải lác mắt trước thành công mà bố tôi đã tự thân tạo dựng được thông qua tôi. Nhưng lúc đó, tôi không hề biết điều này.
Tôi cũng không nói rằng “Cháu chính là Vivien Kovacs, cháu gái của bác, đứa cháu bé xíu mà bác đã từng có lần đến thăm”. Tôi không thể tìm ra lời nào để nói dù những lời đó rất đơn giản. Ông bác tôi thật là… Tôi không biết phải nói sao. Trước đây, khi tôi trông thấy bài báo trong thư viện, khi tôi đọc cuốn sách đó về ông, ông chỉ là một khái niệm chứ không phải là một con người, chỉ đơn giản là một loạt những ý kiến về nhà ổ chuột.
Trước đây, khi tôi tưởng tượng về cuộc gặp này, luôn có trao đổi trò chuyện bằng lời mà trong đó, tôi sẽ nói cho bác tôi biết mình là ai, đồng thời tôi cũng nghĩ ra câu trả lời của ông. Nhưng, hóa ra trong cuộc đời thực, ông không phải là những ý kiến mà là một con người bằng xương bằng thịt, với những móng tay và lông mũi có thật.
Và bây giờ thì tôi hiểu rằng bác tôi tin là ông có thể chuẩn bị một ấn tượng tốt, ông muốn tự bào chữa trước tòa án dư luận và trước sự phán xét của tôi rằng ông có lý do để hành động như thế. Ông không muốn cầu xin khoan hồng đặc biệt vì ông là bác tôi, là anh trai của bố tôi. Ông hết sức muốn tôi biết rằng ông không phải là gương mặt của quỷ nhưng là một thứ gì đó nhìn chung phức tạp hơn nhiều.
– Tôi có rất nhiều kỷ niệm - ông nói. - Đó là lý do vì sao tôi viết. Tôi muốn viết tất cả ra giấy để có một cái gì đó ghi giữ lại, để người ta sau này được biết.
– Người ta là ai?
– Dĩ nhiên là cả thế giới và bất kỳ người nào quan tâm.
– Thế những người đó có thể là ai?
Ông bác tôi do dự. Nhưng rồi ông quay sang nhìn tôi với đôi mắt tựa hồ như có nước, đôi mắt từng có màu chocolate đen nguyên chất nhưng giờ đây đã phai nhạt thành màu nâu vàng, với cái môi ướt và chiếc cằm run run.
– Em trai tôi.
Khi bác tôi xuất hiện ngay trước ngưỡng cửa nhà tôi và hai anh em quát thét ầm ầm vào mặt nhau, tôi đã câm lặng đi hoàn toàn trước sự hiện diện của ông, sự xuất hiện đột ngột từ một cõi hư vô (như tôi phát hiện, ông từng ở trong một chốn hư vô, một sự trống rỗng khủng khiếp, rất gần với cái chết, gần đến nỗi giống như thể đã chết rồi, thậm chí còn tăm tối hơn cả cái chết - sự trống rỗng được soi sáng bằng nỗi khiếp sợ). Chuyện bố tôi căm ghét anh trai mình thì đã rõ. Một bên là ông thần lùn giữ của đeo kính đã cặm cụi lao động suốt 25 năm trời mà vẫn không được ai để ý nhận ra bất cứ thứ gì mà ông đã làm và một bên là tên gangster tàn bạo, một kẻ cướp bất ngờ xuất hiện từ quá khứ, từ một quãng thời gian có vẻ như giống một ảo giác hơn là quá khứ có thực. Nhưng ba từ “em trai tôi” nghe có vẻ hơi là lạ đối với tôi. Bởi là con một nên tôi có cảm giác hơi sốc vì ghen tị với những thứ đã từng có giữa họ, một mối quan hệ anh em máu mủ ruột rà mà tôi không bao giờ được trải nghiệm.
– Thế bác định làm gì với tự truyện của mình khi bác viết xong? - Tôi nói, vẫn chưa dám đi xa tới từ em trai.
– Dĩ nhiên là tôi sẽ cho in thành sách. Tôi muốn nó phải được in thành sách, có tên tôi hẳn hoi ở ngoài bìa.
– Thế bác đã viết được tới đâu rồi?
– 11 trang, cần phải viết bao nhiêu trang thì mới thành sách được?
– Cháu không biết. Nhưng cháu nghĩ chắc là phải khá nhiều đấy.
– Quả là vấn đề khó khăn đây, vì tôi vẫn còn nhiều điều muốn kể lắm.
– Rồi bác cũng sẽ viết xong thôi.
– Tôi viết chậm lắm, chậm vô cùng.
– Thế bác dành cả ngày để viết tự truyện à?
– Không, chỉ viết vào buổi sáng thôi, ngay tại đây, ở công viên này. Tôi không thể chịu nổi cảnh một mình ở trong phòng. Tôi không thích giam mình ở trong phòng, đặc biệt là nếu căn phòng ấy nhỏ bé, chật chội.
Đôi mắt của ông lại bắt đầu chảy nước.
– Không phải là tôi khóc đâu. Tôi có bệnh ở mắt. Cách đây hai ngày, tôi giẫm phải mắt kính của mình cho nên bây giờ tôi không thể nhìn thấy rõ để viết lách gì cho đến lúc bác sĩ nhãn khoa làm lại cho tôi một cặp kính khác. Tôi đang chờ có kính mới nhưng tôi cũng không muốn bỏ lỡ một ngày nào. Nhất định không. Làm sao tôi biết được mình còn sống được bao lâu nữa để kể hết tất cả những gì tôi cần phải kể cơ chứ? Ta không thể để uổng phí. Phung phí là rất tệ. Cô có hiểu không? Có hiểu không, quý cô đáng mến? - Ông quay sang tôi với một vẻ mặt của một người đã mất khả năng biểu đạt bằng lời và đang cố gắng giao tiếp truyền đạt một điều gì đó rất khẩn thiết bằng đôi mắt của mình.
– Có, cháu hiểu. Điều đó thật là tồi tệ.
Cuộc đời tôi chẳng ra một thứ gì, chỉ toàn là một sự phung phí.
Khuôn mặt bác tôi thay đổi, trông bối rối.
– Cô đã kết hôn hay yêu đương tìm hiểu ai chưa?
– Cháu là một người vợ góa. Chồng cháu đã mất rồi.
– Gì cơ? - ông ngả sụp người ra sau băng ghế, thốt lên với vẻ bị sốc - Sao lại thế này được chứ? Một cô gái trẻ như cô mà đã thành người góa chồng sao? Thật là một điều đáng tiếc, hết sức đáng tiếc. Thế điều gì đã khiến cô thành quả phụ?
Tôi kể lại câu chuyện cho ông nghe.
– Chuyện sao mà khó tin vậy!
– Đúng vậy đấy, bác ạ.
– Cậu ấy chết vì một miếng thịt bò ư? Bị nghẹn tới chết trong một nhà hàng lúc cả hai đang đi hưởng tuần trăng mật ư?
– Vâng.
– Không ai làm được gì sao?
– Người ta cứ vỗ vỗ mãi ở lưng anh ấy nhưng chẳng có tác dụng gì.
– Ôi, trời ơi! - bác tôi thốt lên.
Ông đưa một tay ra như thể muốn cầm lấy bàn tay tôi nhưng tôi đã thu tay lại, hai cùi chỏ khuỳnh ra hai bên. Tôi không muốn ông chạm vào mình.
Tôi nhớ mình đã quay ra từ phòng tắm sau khi chải tóc và thoa lại son môi. Alexander luôn căm ghét đồ ăn nguội lạnh. Bố anh bao giờ cũng cầu nguyện lâu như hàng thế kỷ trước giờ ăn. Rau chỉ còn âm ấm còn nước sốt thì đã đông nguội. Vì vậy cho nên anh cứ ăn trước, không chờ tôi. Tôi thấy anh nằm ngả sóng soài ra sau ghế, hai chân quẫy đạp còn tay thì đấm thình thình xuống mặt bàn như thể anh đang cố thu hút sự chú ý. Đôi mắt anh trợn ngược ra phía sau đầu còn miệng thì há hốc thành hình chữ O vô vọng.
– Sao vậy, anh làm sao vậy? - Tôi la lên.
Nhưng Alexander chỉ quay sang nhìn tôi với ánh mắt trừng trừng buộc tội như vậy.
Một người bồi bàn bắt đầu đập mạnh thùm thụp vào lưng anh một cách vụng về trong khi Alexander lắc đầu giận dữ và tự đấm mạnh vào bụng mình, ngay dưới xương sườn. Đĩa thức ăn bị đẩy tới chỗ lọ muối. Miếng thịt lườn bò đã bị cắt mất một góc và những miếng khoai tây rán vương vãi khắp khăn trải bàn. Anh nhào người tới mép bàn rồi gục đầu xuống, mắt ầng ậng nước. Người bồi bàn tiếp tục hết đập lại vỗ.
Tôi trông thấy lông trên cánh tay Alexander ánh lên một màu bạc dưới ánh sáng của nhiều ngọn đèn; cả cổ tay áo trắng có khuy măng sét là quà sinh nhật lần thứ 21 cùng chiếc nhẫn cưới vẫn còn lạ lẫm và hơi lỏng trên tay trái của anh. Tôi chứng kiến cảnh anh đang lịm dần. Tôi chỉ biết đứng nhìn trong khi anh thấy sự sống đang đóng lại ngay trên đầu mình, rơi xuống một màn đen đặc. Và trong lúc tôi cứ đứng trơ ra đó, mắt anh đã khép lại, não chết vì thiếu ôxy còn tim thì ngừng đập.
Cuộc đời sao thật bất ngờ. Ta bước vào phòng tắm lúc một cô gái không quen biết đang nằm tắm trong bồn, cạnh một bình hoa phi yến và cô ấy gợi cho ta nhớ đến một bức tranh mà ta đã từng nhìn thấy. Để rồi, 3 năm sau, cũng bởi vì cái sự bất ngờ đó, cũng bởi vì chính cô gái ấy mà ta chết khi tuổi mới tròn 24. Không phải là một cái chết đến từ từ, kéo dài chừng một năm mà là chết ngay tức khắc. Chết vì nghẹn một miếng thịt bò bít tết chỉ độ 2-3cm, chết mà không thể nói được để chỉ cho người ta biết cách cấp cứu bằng thủ thuật đẩy bụng Heimlich.
– Điều đó thật khủng khiếp - bác tôi cất lời chia sẻ. - Bản thân tôi cũng tận mắt chứng kiến cảnh người ta chết mà tôi không thể làm được gì cho họ. Và chuyện này vẫn đeo bám ám ảnh ta, không cho ta được yên. Nó khiến ta cứ day dứt ân hận nghĩ về những việc lẽ ra mình nên làm. Thế bây giờ thì chuyện gì xảy ra với cô?
– Cháu không thể đi Baltimore. Cháu không có công việc nào ở đó. Thậm chí nếu cháu tìm được việc thì cũng không thể trả nổi tiền cho căn hộ mà chúng cháu đã thuê. Cháu quay về London và hiện sống với bố mẹ.
– Cô có việc làm chứ?
– Không, cháu thất nghiệp.
– Cô có học hành chuyên ngành gì không?
– Cháu có bằng cử nhân ngành văn chương Anh và đang làm luận án cao học.
– Vậy là từ nãy đến giờ tôi đã tiếp chuyện với một quý cô học cao biết rộng. Cô hẳn đã đọc rất nhiều sách. Thế mà tôi đã chẳng hỏi gì. Chắc là cô đã rành rẽ mấy chuyện mánh mung đó.
– Chuyện mánh mung gì cơ?
– Là về sách đó. Viết như thế nào rồi xoay xở xuất bản ra sao.
– Không, cháu chỉ biết về Dickens, Shakespeare, đại loại là những nhà văn như thế. Cháu không biết nhiều về các tác giá đương đại.
– Cách đây nhiều năm tôi có xem một bộ phim của ông ấy. Phim “Henry V” có tài tử Laurence Olivier đóng đó. Tôi không hiểu lắm. Tiếng Anh mà người ta nói trong bộ phim đó toàn từ cổ làm tôi khó nghe quá. Nhưng hình như ông ấy là vua gì đấy, phải không? Một ông vua rất nhân hậu. Cô thấy không, chẳng có thứ gì giống với đời thực cả.
– Cháu không biết nhiều về đời thực - tôi đáp.
– Sao cơ? Còn tôi thì chẳng biết gì về Shakespeare. Chúng ta ai cũng có giới hạn riêng của mình, phải không? Tôi nói có đúng không? - ông dò hỏi.
Lũ chim kêu quang quác ầm ĩ khắp mặt hồ và đập cánh kinh hoàng. Cả một bầy rất đông gây huyên náo om sòm. Có lẽ chúng nghe được những âm thanh mà chúng ta không thể nghe thấy. Một quả bom phát nổ trong những ga tàu điện ngầm chẳng hạn. Năm trước, đã có nhiều quả bom như thế phát nổ rồi.
– Mấy con kia là ngỗng trời đấy - ông bác tôi chỉ vào những con có cái đầu đen. - Tôi biết vì người ta có để một tấm bảng dán hình đủ thứ lên đó kèm cả chú thích bên dưới nữa.
– Chồng cháu đã từng làm thơ về lũ ngỗng trời đó - tôi kể.
– Về ngỗng trời à? Ta có thể làm thơ về những thứ như vậy sao? Tôi chưa bao giờ biết điều này. Tôi cứ nghĩ thơ là về tình yêu chứ.
– Ta có thể sáng tác thơ về bất cứ thứ gì ta thích.
– Thế tại sao lại về ngỗng?
– Anh ấy cố gắng đi vào bên trong chúng, sâu xuống tận đáy tâm hồn chúng.
– Chim mà cũng có tâm hồn sao?
– Vâng, Alexander tin rằng chúng có tâm hồn. Anh ấy nghĩ về chúng rất nhiều.
– Nghĩ về cái gì?
– Tất cả mọi thứ. Anh ấy viết rất nhiều bài thơ ngắn về chúng. Nào là vận tốc không khí đập vào cánh chúng, bộ xương chúng nhẹ như thế nào, trọng lượng của mỏ chúng, những thứ chúng cần làm với đôi mắt của mình cho đến chuyện chúng bay lượn, di trú. Cả về nước và khả năng định hướng của chúng nữa. Cháu phải nói đó là một nghiên cứu khoa học về loài ngỗng được viết theo lối văn hoa bóng bẩy ẩn dụ.
Bác tôi lại nhìn đàn ngỗng lần nữa. Ông dõi mắt vào chúng một lúc rồi lắc đầu. “Cô thấy đấy, tôi đang ngắm nhìn lũ chim đây này nhưng tôi chỉ thấy chúng là chim thôi. Cô có nhìn thấy điều gì khác không? Đây là lý do tại sao thật quan trọng phải lắng nghe dân trí thức nói. Một người như tôi có thể thu lượm được nhiều thông tin bổ ích dù tôi không biết làm cách nào mình có thể nặn đâu ra chút hữu ích gì từ lũ chim ấy ngoài chuyện rán vàng chúng lên với khoai tây hay nấu chúng thành món súp. À mà cô cũng làm thơ đấy chứ?
– Không, cháu chỉ phân tích thơ thôi.
– Phân tích thơ là gì?
– Là tách nó ra để xem nó có ý nghĩa như thế nào.
Nhưng bác tôi chẳng còn hứng thú về thơ ca nữa. Ông đang suy tính một kế hoạch. Các kế hoạch thường đến với ông hết sức nhanh chóng. Đó là cách mà bộ óc của một nhà kinh doanh hoạt động. Những ý tưởng xuất hiện giống như tia chớp. Chúng vụt lóe lên rực sáng chói lòa. Ta chỉ thấy một thứ là bóng tối đen đặc mới cách đây một giây trước nhưng đầu óc thiên tư thiên phú nhạy bén của dân kinh doanh thì đã nảy ra những ý tưởng như tia chớp kia rồi. Họ giữ nó thành một hình ảnh trong đầu và phác thêm chi tiết tỉ mỉ, tiếp tục tưởng tượng ra những gì mà ta thấy.
– Cô này, tôi vừa mới chợt nghĩ nếu cô không có công việc gì thì liệu cô có muốn đến làm cho chỗ tôi không?
– Nhưng mà làm việc gì mới được chứ? - Tôi hỏi với một vẻ ngạc nhiên sửng sốt. Vận mệnh cuộc đời tôi mới xuống chó làm sao khi tôi nhận được lời đề nghị làm người đi thu tiền thuê nhà cho ông bác mình.
– Tôi nghĩ có lẽ cô sẽ giúp tôi viết sách.
– Làm sao cháu làm được chuyện đó?
– Tôi sẽ mua một cái máy ghi âm và một cái máy đánh chữ. Tôi kể với cô tất cả mọi thứ còn cô thì đánh lại cho đúng. Tất cả các từ phải được đánh vần theo thứ tự chính tả đúng của nó. Không để xảy ra một lỗi nào. Cô mở lại băng, nghe và đánh máy tất cả ra giấy cho đúng, cho đẹp.
– Và bác sẽ trả tiền công cho cháu chứ?
– Tiền công à? Dĩ nhiên rồi. Tôi sẽ trả. Cô nghĩ tôi là người thế nào hả?
– Thế khi nào cháu bắt đầu?
– Sớm muộn tùy theo cô thích. Hay Thứ hai cô đến đi.
– Đến đây ư?
– Không, tốt hơn là đến nhà tôi. Chúng ta cần phải có điện để chạy máy ghi âm.
– Vâng, thế cũng được.
– Tôi là Sándor Kovacs - bác tôi tự giới thiệu mình với tôi. Tôi thấy trong đôi mắt ông hiện lên rằng trái tim của ông đang ngập tràn cảm xúc. Điều này khiến cho tôi lúc ấy thấy ngạc nhiên.
– Rất vui được gặp bác - tôi vừa nói vừa rà kiếm trong đầu một cái tên rồi cuối cùng nhớ tới một cô gái ở trường có suối tóc vàng mượt mà. - Còn cháu là Miranda Collins.
– Meeranda - ông nhắc lại - Meeranda. Tôi không biết cái tên này. Tên của tiếng nước nào vậy?
Chú thích:
[25] Nữ diễn viên điện ảnh xinh đẹp và tài năng người Anh, từng đoạt giải Oscar với vai Scarlett O’Hara trong bộ phim Cuốn theo chiều gió.
[26] Macbeth là một nhân vật trong vở bi kịch cùng tên của đại văn hào Anh William Shakespeare. Đó là một kẻ ham hố
quyền lực, độc đoán và khát máu, không từ bất cứ thủ đoạn nào, dù ghê tởm, ác độc đến mấy để giết vua xứ Scotland Duncan hòng chiếm đoạt ngai vàng.