← Quay lại trang sách

Chương 9

Nếu ta cố gắng, nếu trong tận sâu thẳm ta sẵn sàng để cho cái tôi của mình được ra đi biến mất hoàn toàn thì ta sẽ bước vào được tâm tư đầu óc của người khác. Điều này đòi hỏi phải có một thói quen suy nghĩ nhất định được hình thành qua nhiều năm đọc sách theo cách của tôi: kiểu đắm chìm vào trong sách (mà Alexander đã từng giễu). Phải đọc theo cách đó để chúng không ăn vào trong đầu ta quá nhiều mà thay vào đó, chúng chỉ là một giấc mơ còn ta thì đi vào trong chúng.

Đây là cái trò mà tôi thường chơi mỗi khi buồn chán hay phải ngồi chờ đợi trên xe buýt, tàu hỏa hay tại phòng đợi khởi hành ở sân bay: luyện thành thói quen đoán khi nào một người chuẩn bị đứng dậy đi mua một tờ báo, một tách cà phê hay lấy giấy tờ gì đó khỏi cặp. Tôi cũng có một khả năng kỳ lạ là luôn luôn biết lúc đó là mấy giờ mà không cần phải xem đồng hồ treo tường hay đeo tay. Alexander có lần giải thích với tôi rằng đó là một ý nghĩ tư duy logic lóe lên trong đầu với vận tốc ánh sáng. Nó vụt qua nhanh đến nỗi không thể ghi lại được. Tôi thấy vui khi nghe giải thích này của anh vì trước đó tôi cứ lo sợ mình bị một chứng rối loạn thần kinh. Có vài lần tôi thực sự lo lắng nghĩ không biết mình có bị điên, không biết bố mẹ mình đã làm cho mình hóa rồ hay đơn giản là mình sinh ra đã như vậy, hay chính cái không khí tù túng ngột ngạt khép kín của Benson Court khiến mình thành thế này. Mãi khi bước tới ngưỡng cửa 30 ổn định cuộc sống hơn với hôn nhân và con cái, tôi mới thôi nghĩ ngợi lo lắng như vậy.

Giờ thì tôi không cho là mình bị điên bao giờ. Chỉ là tôi có một trí tưởng tượng phong phú quá mức của một đứa trẻ. Có phải lúc nào ta cũng hiểu đúng về người khác khi ta cố gắng tưởng tượng mình là họ? Đó lại là một vấn đề khác. Nhưng, rõ ràng là ta càng luyện thành người khác thì cuộc sống của ta sẽ càng trở nên thú vị dù cũng khó mà chịu đựng hơn, vì ta hiểu ra rằng hầu hết con người chúng ta đều chạm tới giới hạn của riêng mình nhanh như thế nào, không thể đạt được những ước vọng bỏng cháy của mình ra sao.

Giờ đây, 30 năm sau, tôi nghĩ về việc bác tôi đã chuẩn bị chờ đón tôi đến. Chắc hẳn những gì có ý nghĩa đối với ông là biết rằng cuối cùng tôi cũng đến nhà ông. Đứa cháu gái bé nhỏ ngày nào ông có lần trông thấy bấu chặt cạnh cửa đang mở, đứa cháu gái giờ đã khôn lớn và mang trong mình bao nỗi đau buồn, sầu muộn xé nát tâm can rốt cuộc cũng đặt chân tới nhà ông. Lần nào tới cửa hàng Harrods[27], tôi cũng thấy ông đến thang máy lên tầng ba. Hồn ma của ông ngụ ở chỗ đó. Tôi mong là như vậy.

Ông thích bước vào tòa nhà đó lúc sáng sớm, vừa ngay khi những người đàn ông mặc đồng phục mũ chóp cao áo khoác đẩy cửa bước vào khảo giá. Ông biết ông được an toàn ở đó, nơi mà ông gọi là cửa hàng tốt nhất thế giới, nơi ta có thể mua bất cứ thứ gì ta muốn, thậm chí là chó, mèo hay chim, cá trong lồng, trong chậu. Đôi khi, ông bỏ cả ngày trời chỉ để nhìn ngắm tất cả những thứ đẹp đẽ mà ông từng sở hữu trước lúc vào tù hay từng xem là chuyện vặt, chẳng đáng phải bận tâm. Dù cảm thấy chúng giống như nước chảy qua kẽ tay nhưng ông vẫn thấy vui với việc cầm nắm chúng trong chốc lát cho đến khi có một thứ khác thu hút ánh mắt chú ý của ông.

Rảo bước qua các sảnh, ông ngửi thấy đủ loại nước hoa, ông ngắm nhìn những phụ nữ xinh đẹp diện váy áo thời trang mùa xuân và điệu đàng với những đôi giày cao gót. Ông trông thấy một phụ nữ trẻ có mái tóc đỏ và má lúm đồng tiền, bước đi trên đôi giày da màu đen tinh xảo gót cao và bo tròn. Cô gái quay sang và bắt gặp ánh mắt của người đàn ông đang dõi theo mình. Ngay lúc ấy, ông nghĩ cô ấy sắp sửa la toáng lên và gọi nhân viên bảo vệ. Nhưng không, cô chỉ tự mỉm cười với mình vì cô hiểu rằng mình được ngưỡng mộ, thậm chí bởi một người như ông, một ông già có chiếc môi dưới trề xuồng. Và bác tôi cũng dám khẳng định ngay tức thì rằng cô ấy là một phụ nữ đứng đắn. Ông nghĩ nếu họ được giới thiệu với nhau, ông sẽ hôn lên tay cô ấy giống như có lần đã từng hôn lên tay của Shirley Bassey[28]. Ông đứng đấy, giữa những cô nàng có khuôn mặt tô son điểm phấn, toàn bộ trong lòng ao ước, khao khát chỉ cần được đặt khẽ miệng hôn phớt lên làn da cô gái giống như đối với một nữ hoàng.

Đến chủ nhật, bác tôi nghỉ ngơi và nghĩ ngợi, ông thắc mắc vì sao tôi lại tự giới thiệu mình với một cái tên giả. Tại sao lại là Collins? Có lẽ Collins là gọi theo họ chồng tôi. Nhưng còn cái tên Miranda thì sao? Ông đã từng gặp nhiều người dùng nhiều biệt hiệu vì đủ thứ lý do khác nhau nhưng ông không nghĩ một cô gái trẻ cũng cần đến tên giả, trừ phi cô ấy muốn chạy trốn khỏi London, bỏ lại sau lưng bố mẹ và chồng, những người mà cô ấy muốn không tìm ra cô.

Bác tôi lật qua lật lại trong đầu đủ mọi phỏng đoán khác nhau cho đến khi rốt cuộc, như về sau tôi phát hiện ra, ông tìm ra được một giải thích khả dĩ nhất: tôi đang ngầm theo dõi ông cho một người nào đó.

Tôi hình dung ra ông ở trên giường đêm đó cùng Eunice.

– Theo dõi anh hả? Mà nó làm việc cho ai chứ nhỉ? - Eunice hỏi bác tôi. Ông ngả người dựa vào đầu giường làm bằng mây. Dưới ánh sáng của ngọn đèn bàn để cạnh giường mà Eunice đã mua cho ông, chiếc đèn có đế là một cậu bé bằng sứ đen bóng đang giương cao một chiếc ô lụa đỏ tức chao đèn, tôi thấy đôi mắt ông chảy nước.

– Có thể là cho mấy tờ báo.

– Anh Sándor này, - Eunice vừa nói vừa thoa kem dưỡng da tay lên da mình rồi xoa lên tận hai khuỷu tay - báo chí chẳng còn hứng thú với chuyện của anh từ đời nảo đời nào rồi.

– Ừ, đúng là như vậy - ông thừa nhận và biết rằng chỉ có mỗi Eunice mới dám nói thẳng thừng điều này vào mặt ông. Một người phụ nữ táo bạo, thẳng thắn không thích những chuyện mơ mộng tưởng tượng mà chỉ quan tâm đến thực tế, thực tại. Đó cũng chính là điểm mà bác tôi khâm phục cô bồ trẻ của mình.

Bác tôi không thể chờ đến thứ Hai mới gặp lại tôi. Và tôi cũng biết chắc một điều là tôi cũng háo hức gặp ông không kém.

* * *

Bố mẹ tôi hỏi han muốn biết tôi đang đi đâu. Tôi giải thích rằng mình vừa mới tìm được một công việc bán thời gian đằng sau những cuốn sách, làm cho một người đàn ông có thư viện riêng, cụ thể là sắp xếp thành thư mục cho bộ sưu tập sách của ông ấy. Bố mẹ tôi tin vào lời tôi giải thích, an tâm thấy tôi ra khỏi nhà thay vì nhăn nhó, khóc lóc và ngủ lì. Tâm trạng tôi thay đổi hoàn toàn: Tôi lại tìm thấy một thứ để sống vì nó: đầu óc cực kỳ tò mò của tôi về người đàn ông bị cho là có gương mặt của quỷ dữ nhưng kỳ thực lại có lỗ mũi đầy lông, chiếc môi dưới bị tật rung giật và một đôi mắt lòa. Có hàng nghìn câu hỏi mà tôi muốn đặt ra về bố mẹ tôi cùng thời trẻ của họ ở Budapest sống vô tư chẳng chút lo lắng bận tâm đến thế giới, quãng thời gian trước khi họ trở thành những người tị nạn ẩn dật luôn trốn sau cửa chính nhà mình và rụt rè biết ơn bất cứ một sự ân cần tử tế nào. Sau tất cả những khoảng trống và thinh lặng mà tôi đã lớn lên cùng với chúng và buộc phải xem là điều hiển nhiên, cuối cùng tôi cũng sắp sửa có được hàng núi câu trả lời để hiểu về những bí mật che giấu.

Tôi biết mình chuẩn bị gặp một con quỷ, một kẻ tàn bạo thực sự. Những tội ác tự thân chúng đã nói lên tất cả, còn con quỷ kia thì bị nhốt trong cơ thể một người đàn ông chớm bước tới tuổi già, người đàn ông có những ngón tay đau nhức mỏi khi cầm bút và hay mắc lỗi chính tả.

Người đàn ông ấy sắp sửa thú nhận với tôi về tội lỗi của mình, hay nói đúng hơn là những lời bào chữa về tội ác biến thành lời thú tội. Khi đó, tôi sẽ cần phải vận hết tất cả trí thông minh hiểu biết của mình, vượt ra ngoài trải nghiệm cuộc sống ít ỏi đáng thương có được trong quá trình lớn lên ở Benson Court rồi cứ thế học hành, vào thẳng một ngôi trường đại học xây bằng bê tông và lộng gió cách đây chưa đầy 8 năm. Vậy nên, tôi ước gì Alexander còn sống để anh đan các ngón tay của mình vào nhau (anh thừa hưởng thói quen này từ người cha làm cha xứ của mình) và giải thích rằng luôn có một sự phân biệt rạch ròi giữa đúng và sai, ta có thể phân biệt được bằng cách suy nghĩ rõ ràng và logic. Có một núi những tài liệu sách vở nói về chủ đề này, thứ mà anh đã chìm đắm mình vào đọc thuở còn là một cậu thanh thiếu niên, lúc anh thoát khỏi sự kiểm soát của lý thuyết để lạc vào đại dương mênh mông không bờ bến của thuyết vô thần và đòi hỏi phải có một chuẩn mực đạo đức mới, thứ mà cho tới lúc đó vẫn chưa được truyền lại cho thế hệ sau qua những văn bản khắc trên đá.

Logic là thứ mà không một ai trong gia đình tôi từng xem là một đặc điểm đáng để trau dồi rèn luyện hay là một phương pháp luận gắn liền với bất kỳ một mục đích rõ ràng nào. Ta làm việc dựa trên bản năng và cảm xúc, chủ yếu là cảm xúc sợ hãi và nhát gan. Nguyên tắc là để dành cho người khác, loại người có tủ chè và bình thon cổ đựng rượu cùng những tập giấy tờ có tên của họ trên đó, những giấy tờ mà không một ai mặc sắc phục có thể hỏi han hạnh họe. Họ sống trong cảnh giàu sang nhung lụa, chẳng hạn như luôn có hoa tươi cắm trong bình và thường đi ăn bên ngoài ở các nhà hàng. Ta có thể khao khát một ngày nào đó trở thành một người có địa vị và thu nhập ròng sau thuế đủ cao đủ lớn để định ra một nguyên tắc. Nhưng, nền tảng của sự tồn tại của chúng ta là sự ngờ vực. Hơn nữa, ta chỉ có thể làm được điều đó nếu ta được trời phú cho đầu óc ranh khôn.

Đặc điểm thừa kế này là tất cả những gì tôi có sẵn để tùy nghi sử dụng theo ý mình trước khi đến gặp bác tôi, một tên quỷ sứ. Ngoài ra, tôi chỉ có sách. Tôi nghĩ bác mình giống như Fagin[29], kẻ sống trên mồ hôi xương máu của băng nhóm trẻ đường phố mà hắn chăn dắt. Trừ có một điều, tôi luôn luôn cảm thấy có một nỗi cảm thông nhất định nào đó với người đàn ông lịch sự đó, người có vẻ như ít tàn bạo hơn nhân vật Fagin đã nhốt cậu bé mồ côi Oliver Twist vào trong quan tài khi cậu đi ngủ mỗi đêm. Ít nhất thì đám tay chân của bác tôi cũng có tự do, được cười đùa, trổ ngón nghề chợ búa và móc túi.

Căn nhà nơi bác tôi ở nằm trong một dãy nhà cao và hẹp xây theo phong cách đầu triều đại Nữ hoàng Victoria[30] bên kia phố Parkway, gần trạm xe điện ngầm - một nơi nhếch nhác, dơ bẩn và đầy gió của London, một trong những vùng lân cận có mùa xuân đến muộn và mùa đông đến sớm của thành phố. Những căn nhà đó thời nay đáng giá hàng đống tiền nhưng hồi đó ta có thể mua chúng với giá rẻ mạt. Người ta nhốt trong nhà những con vật nuôi kỳ dị, ngược đời chẳng theo thói thường và những con chó, con mèo đó trông ốm đói và bị bỏ rơi. Phải mất một lúc ông bác Sándor của tôi mới xuống hết các bậc cầu thang. Ông mở cửa cho tôi, mặt mày trắng bệch và thở hổn hển, mặc một chiếc áo len đan màu hạt dẻ có khóa kéo cao và mang đôi dép bọc nhung dùng để đi trong nhà có họa tiết thêu chỉ xanh da trời và vàng đồng ở mũi, thứ mà ta đánh cắp từ một khách sạn.

Ông nhìn tôi như thể tôi là một cảnh sát, săm soi dò xét xem tôi có dấu hiệu mang theo lệnh truy nã hay không.

– Là cháu, Miranda đây, - tôi cất tiếng - bác đã bảo cháu đến mà.

– Vâng, tôi biết rồi - ông nói - cô đừng lo, tôi không quên đâu. Tôi đã mua tất cả các thứ cần thiết rồi. Thôi, cô vào nhà đi!

Dọc theo hành lang là một dãy cửa, chiếc nào cũng có một con số ở trên đó. Bác tôi quay lại với công việc kinh doanh bất động sản theo một cách thức nhỏ lẻ. Ông sở hữu ba căn nhà ở Camden nhưng cho đủ thứ người thuê phòng ở đó còn mình thì sống tách xa khỏi những căn hộ cho thuê. Tôi không biết làm cách nào mà ta có thể nhét nhiều căn hộ vào tầng trệt của một căn nhà như vậy nên định mở miệng hỏi ông. Thế nhưng, bác tôi đã đẩy tôi về phía trước, bước lên một dãy cầu thang, đi ngang qua một bức tường có dán giấy nhựa vinyl màu xanh lá cây pha màu đồng, ngang qua những bức tranh in cảnh săn bắn có đóng khung và lướt qua một mùi sơn mới. Khung cảnh hoàn toàn chẳng như tôi nghĩ. Đây không phải là một khu ổ chuột. Đây là một căn nhà tốt, được trang trí dễ chịu. Ý tôi là chẳng có thứ gì trông gớm ghiếc ở đây cả. Dù nó nhàn nhạt nhưng thường thì người ta đều chấp nhận cái sự nhàn nhạt ấy. Thà nhạt nhẽo còn hơn là chen chúc trong những căn hộ có mái bị dột, tay vịn cầu thang bị mục khô, gãy nát, nhà vệ sinh bị tắc, hệ thống lò hơi sưởi ấm bị hỏng, nổ tung gây chết người.

– Tới nơi rồi - bác tôi vừa nói vừa xoay chìa khóa trong ổ. - Tôi hi vọng là cô thích đồ đạc trong nhà. Một cô bạn đã chọn cho tôi.

– Hàng song mây. Nó dễ chịu đấy - tôi nhận xét với vẻ thận trọng.

– Cô ấy bảo tôi là ta sẽ cảm thấy giống như ở xứ sở nhiệt đới với bàn ghế làm bằng song mây. Cô cứ nhìn ngắm đi, quay sang đây này. Thấy cái gì ở đây không?

Món quà tuyệt vời này, món quà dành tặng cho một người đàn ông từng phải chong chong dán mắt bao nhiêu năm lên bức tường nhà tù, là một bức bích họa, một bức tranh vẽ cảnh hoàng hôn trên một hòn đảo ở Caribe, thứ mà ta có thể bắt gặp trong các nhà hàng Jamaica ở Brixton hay Notting Hill[31], nơi phục vụ món gà nướng đặc sản Jamaica[32] và nhiều món khác làm từ thịt dê.

– Cô thấy thế nào?

– Tuyệt vời ạ!

– Xem người ta vẽ nó khéo chưa này, khéo đến mức trông như nó đem lại cảm giác ta đang dạo bộ trên tường và thấy mình như đang ngồi trên bãi biển, thưởng thức rượu pân mạnh đựng trong một quả dừa. Cô có thích bức tranh đó không? Tôi thấy cô đã mỉm cười.

– Bức tranh thú vị lắm, thưa bác. Thế bác muốn cháu ngồi đâu?

– Bất kỳ chỗ nào cô thích. Cô không phải trả tiền chỗ ngồi đâu.

Tôi ngồi vào một trong những chiếc ghế song mây, không phải chiếc ghế rõ ràng là dành cho ông - một ngai vàng được đan bằng liễu gai có thành tựa lưng giống như đuôi một con công.

– Cô có muốn uống cà phê không?

– Vâng, có ạ. Cho cháu xin tí cà phê, thưa bác.

– Dạ thưa là từ mà chúng ta hiếm nghe thấy ngày nay. Cô hẳn đã được nuôi dạy nề nếp, gia giáo. Thế gia đình cô làm nghề gì?

Tôi đã luyện tập tất cả điều này tối hôm trước, tự bịa ra cho mình một lý lịch đơn giản, dựa trên những gì xảy ra với cô bạn tóc vàng Miranda có thật ngoài đời mà đôi lần tôi từng trò chuyện khi đi cùng xe buýt trên đường từ trường về nhà.

– Dạ, làm khung tranh ạ.

– Đó là một nghề cũng khá tốt đấy. Đòi hỏi phải khéo tay. Kiểu người làm việc với đôi tay của mình. Tôi nói có đúng không? Bố cô có những ngón tay nhanh nhẹn chứ?

– Vâng, có ạ.

– Và ông ấy hẳn cũng phải có đôi mắt cũng phải tinh tường nữa - bác tôi mỉm cười một cách giễu cợt. Tôi nghĩ ông bắt đầu nháy mắt với tôi để ra hiệu đồng ý nhưng kỳ thực trong bụng lại nghĩ khác.

– Giờ thì uống pha cà phê đã. Cô sẽ xem tôi pha cà phê theo kiểu cũ trong một cái phin với bột cà phê như thế nào chứ? Tôi không thể chịu được cái kiểu pha mới, pha vào bình. Thật là kinh tởm. À mà cô có muốn ăn thứ gì không? Ngay tại đây.

Trước đó, bác tôi đã mua một cái bánh.

– Tôi muốn mua một thứ bánh ngọt gì đó nhưng vì tôi bỏ quá nhiều thời gian chọn máy cassette ghi âm và máy đánh chữ nên tôi quên khuấy luôn cả việc đi xuống gian hàng bán thực phẩm. Tôi mua cái này ở một cửa hàng góc đường. Tôi không biết nó có ngon chút nào hay không. Người ta gọi nó là bánh Battenberg. Nào, ăn thử một miếng đi!

– Cháu không thích bánh nhưng không phải là không thích loại bánh đó.

– Tôi biết ý cô muốn nói là gì. Nghe có vẻ như là bánh của Đức. Tôi cũng thấy vậy. Nhưng người ta nói thực ra nó không phải là bánh của Đức đâu. Chỉ có cái tên thôi.

– Bác không thích nước Đức à?

– Tôi chưa từng bao giờ ở đó. Vậy nên, nói về nơi này thì tôi không có ý kiến gì. Đường chỉ là đường, nhà chỉ là nhà, đồng chỉ là đồng và cây chỉ là cây mà thôi. Còn người đi dạo lại là một vấn đề khác. Lần sau, tôi sẽ mua một cái bánh thật sự để cô thấy bánh là như thế nào. Nói về bánh thì tôi biết tất tần tật mọi thứ. Lĩnh vực của tôi mà. Có thể nói đó là một kiểu biết thưởng thức. Chẳng hạn như, một số người thưởng thức nghệ thuật và âm nhạc nhưng với tôi thì lại là bánh ngọt.

Bác tôi cắt một miếng bánh và nhai một cách nóng nảy, bực dọc. Miếng bánh xốp ướt dính vào lợi của ông và ông súc sạch nó bằng cà phê đặc.

– Được rồi, bây giờ thì bắt đầu công việc nào. Cô có muốn làm một điếu không? - ông giơ một bao thuốc lá hiệu Benson & Hedges đựng trong hộp vàng đắt tiền ra mời tôi. Thuốc lá của tôi là loại rẻ tiền nhất mà tôi có thể mua được - thuốc lá hiệu Players No. 6. - Hồi trước tôi hút Balkan Sobranie Black Russians[33], hương vị rất thơm. Nhưng loại đó đã đứt hàng từ lâu lắm rồi. Thế nên tôi chuyển sang hút thứ này. Cũng được, nhưng không có gì đặc biệt lắm. - bác tôi nhận xét.

Tôi rút một điếu và châm lửa. Nó cực kỳ êm. Tôi đâm nhớ cái luồng khói gắt và sít sịt cổ họng của những điếu Players.

Bác tôi đã sắp xếp tất cả mọi thứ trên một cái bàn gần cửa sổ: máy cassette ghi âm, máy đánh chữ và một tập giấy đánh chữ.

—Trước đây cô đã thấy thứ nào giống cái này chưa? - ông hỏi khi chúng tôi nhìn vào chiếc máy cassette ghi âm.

– Dạ có, nhưng thực ra cháu chưa từng sử dụng nó bao giờ.

– Thực ra. Ồ, đây là một từ tiếng Anh chính cống. Bản thân tôi chưa dùng từ này bao giờ nhưng tôi đã nghe người khác nói rồi. Có lẽ là tôi sẽ bắt đầu dùng nó. Cô có nghĩ là nó sẽ khiến cho tôi có vẻ bớt giống một người nước ngoài chính hiệu không?

Tôi để ý thấy bác tôi dường như muốn gây ấn tượng với tôi nhiều như thế nào. Trước giờ, tôi chưa từng gặp một kẻ tàn bạo nào. Có lẽ đây đúng là đặc tính của hạng người này. Nhưng sao tôi vẫn cảm thấy bác mình đáng thương. Tất cả mọi thứ đang tạo ra một ấn tượng bình thường - bức tranh tường, bộ bàn ghế song mây rẻ tiền, chiếc ngai vàng bằng liễu gai xòe ra như đuôi công trông đến buồn cười, căn nhà cao nổi trội hẳn trên con phố so với những căn nhà nghèo nàn và dơ bẩn khác ở xung quanh, chiếc bánh hạnh nhân màu hồng và bột bánh dính vào lợi của ông. Người đàn ông với cổ tay áo sáng lấp lánh những viên kim cương, mang đôi giày da lộn và đi cùng cô ả người Tây Ấn đội mũ tròn nhỏ làm từ nylon có họa tiết da báo dường như giống như một câu chuyện cổ được kể cho một đứa bé vào giờ đi ngủ và sáng hôm sau thì nó đã quên sạch.

– Chúng ta bắt đầu chứ, bác? - tôi hỏi.

– Phải, phải, tất nhiên rồi. Nhưng ai sẽ là người điều khiển máy ghi âm?

– Bác có muốn mình điều khiển không?

– Tôi không biết cách. Tôi đã xem cuốn sách đính kèm với nó nhưng tôi chẳng hiểu gì sất. Đây, cô xem này.

Những hướng dẫn vận hành máy cũng làm tôi nản chí. Có một biểu đồ chỉ dẫn những bước vận hành khác nhau mà ta cần phải làm để máy chạy được.

– Cháu thấy nó hơi chút rắc rối, - tôi nhận xét.

– Tôi để tùy cô giải quyết đấy. Cô có đầu óc học hành hiểu biết mà.

– Cháu nghĩ là cái tờ hướng dẫn sử dụng đó chẳng giúp ích được tí gì đâu. Thôi cứ thử nhấn cái nút này xem thế nào.

– Được.

Thế là tôi bấm nút “Play” và bác tôi bắt đầu kể.

– Ngày tôi đặt chân đến đây, ngày 14 tháng 12 năm 1956, là cái ngày mà tôi nhớ đến từng chí tiết.

– Đó có phải là nơi chúng ta bắt đầu không?

– Tất nhiên rồi. Đó là nơi khởi đầu câu chuyện.

– Không, không phải như vậy. Ý cháu muốn nói là nơi bắt đầu cuộc đời bác ấy.

– Cuộc đời tôi ư? Đây không phải là thứ mà chúng ta đang nói đến.

– Thế thì là cái gì?

– Sự nghiệp của tôi.

– Nhưng nếu muốn có một cuốn sách xuất bản được thì nó không đơn giản chỉ là một bảng liệt kê các sự kiện theo ngày tháng. Nó phải soi rọi ánh sáng vào thân phận con người.

– Nghe này, quý cô. Tôi chỉ muốn kể với cô một vài sự kiện, những sự kiện bị bỏ qua và công chúng không biết đến.

– Thôi được, đây là câu chuyện của bác, không phải của cháu. Nhưng, sự kiện không hấp dẫn bằng sự thật ẩn bên trong.

– Sự thật nào? - bác tôi hét lên, giọng nghe khàn khàn và cộc cằn. - Thưa quý cô, người ta thích nghe sự thật nhưng chẳng hiểu tí gì về sự thật cả. Sự thật sẽ làm cho họ phát ốm nếu họ biết được nó. Sự thật không dễ chịu chút nào. Nó dành cho người lớn chứ không phải cho trẻ con. Cô nghĩ sự thật là thứ gì đó tôi quẳng ra, giống như những đồng xu thí cho một thằng ăn mày ư? Người ta sẽ phải chôn chặt nó trong lòng cho đến tận ngày xuống mồ.

– Vậy thì bác muốn ghi lại những gì nào? - tôi hỏi, giọng lạnh tanh - Một câu truyện thần tiên chắc?

– Phải, đúng vậy, một câu truyện thần tiên mà người ta sẽ để mắt đến. Bởi vì, chỉ có thứ rác rưởi đó mới đủ vừa cho họ. Nó là tất cả những gì mà họ xứng đáng được nhận.

– Khinh thường độc giả không phải là một cách khởi đầu tốt đâu.

– Thế cô muốn gì ở tôi? - ông hỏi. Và con quỷ Sándor Kovacs già đột ngột xuất hiện ngay ở đó. Tôi biết điều này bởi vì tôi cảm thấy bị đe dọa một cách kinh hãi, đáng sợ.

– Truyện của bác - tôi nói, cảm thấy khó khăn hơn khi phải giữ sự biết điều lúc thốt ra những từ ngắn ngủi này.

– Truyện hả?

– Vâng ạ.

– Thế câu “truyện của bác” nghĩa là gì hả? - ông nhìn tôi bằng đôi mắt nâu mờ đục mà giờ đây đang ném ra những tia lửa vàng xuyên thấu trái tim tôi. Tôi hầu như không thể đáp trả ánh mắt chằm chằm đó. Tôi cảm thấy một con người bằng xương bằng thịt khác và một linh hồn đang lảng vảng rình mò ở bên trong.

– Sao vậy? - ông nói, gần như quát lớn - Cô có ổn không đấy?

– Không có gì đâu ạ.

– Cô ốm à?

– Không, bác cứ tiếp tục đi.

– Cô trông không khỏe chút nào - một bàn tay giơ lên một lúc rồi sau đó lại thả xuống.

– Cháu khỏe mà.

– Được rồi - ông lại ngồi xuống chiếc ngai vàng hình đuôi công giống như một ông vua đã kiệt sức. Thuở trước, khi ông còn giàu sụ, ông đã từng có một chiếc ghế bành thếp vàng mà tay dựa là hai chân của một con sư tử. Có người đã nói với ông là nó xuất xứ từ một cung điện ở Italy và được làm từ thời xưa. - Thế tại sao đột nhiên cô lại thiểu não như thế? Tôi đoán chẳng hạn như ai đó trong gia đình cô bị ốm phải không?

– À, bác biết không… - tôi nói một cách gấp gáp để khỏa lấp nỗi khiếp sợ của mình.

– Biết gì?

– Bố cháu không còn là người như trước đây nữa. Lời giải thích lấp lửng mơ hồ này thình lình đến với tôi vừa đủ để quật ngã ông bác. Đây là một thủ thuật mẹ tôi hay dùng để tạo ra một sự hiểu lầm nho nhỏ khiến đầu óc người ta trở nên dễ dao động vì nghi nghi hoặc hoặc còn ta thì đạt được mục đích là đổi đề tài, lạc hẳn sang một hướng khác mà không cần phải giải thích bất kỳ điều gì mang ý nghĩa chuẩn xác.

– Thế ông ấy bị bệnh gì vậy? - Ông bác Sándor hỏi tôi. Trông ông giống như một người vừa mới bị tuyên án tử hình. Điều này khiến tôi ngạc nhiên vì tôi cứ nghĩ là ông và bố tôi căm ghét nhau nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu tất cả những tình cảm đó là một kiểu gắn bó họ hàng máu mủ và nếu bố tôi khi đó có sắp mất thì những tình cảm mãnh liệt đó sẽ trở thành một bóng ma gào khóc cho một thi thể.

Tôi hạ giọng giống như kiểu thầm thì của một bác sĩ:

– Bác biết đấy…

Ông nghĩ bố tôi bị bệnh ung thư. Tôi thấy điều này trong đôi mắt của ông.

Ervin, thằng em đê tiện, đang chết! Chẳng bao lâu nữa, ông - Sándor - và cô gái trẻ đang đứng trước mặt ông sẽ là những người cuối cùng còn sống của dòng họ Kovacs. Ngay lúc đó, ông đột nhiên cho rằng tôi đến đây với tư cách là một người bí mật theo dõi cuộc sống của ông để về báo lại với bố tôi. Lý do có thể là cuối cùng Ervin, lúc sắp tàn cuộc đời, muốn dùng con gái của mình làm công cụ để hàn gắn, cải thiện quan hệ họ hàng. Chính người em trai đó đã cho phép người khác được nói lên sự thật về quá khứ, câu chuyện bắt đầu vào một thời điểm khác, tại một đất nước khác. Vì ông là cây cầu duy nhất còn lại nối giữa hai thế hệ. Ông - Sándor, sẽ trở nên bất tử bằng cách kể lại câu chuyện này, gửi nó lại cho thế hệ tương lai mai sau. Đây là cách duy nhất chúng ta trường tồn, cách duy nhất người chết nói chuyện được với người sống.

– Thôi được, để tôi bắt đầu bằng một sự kiện - ông nói và ngồi xuống chiếc ghế đuôi công, mở chiếc hộp sắt chứa đựng quá khứ của mình. - Tôi sinh ngày 27 tháng 2 năm 1916. Đó là ngày sinh nhật của tôi. Và năm nay tôi 61 tuổi.

– Bác sinh ở đâu?

– Tại một ngôi làng, ở Zémplen Hills, thuộc miền Đông Hungary, gần Tokaj, nơi người ta sản xuất rượu. Cô có nghe đến loại rượu đó chưa? Ngon lắm, rất ngọt. Người ta hay gọi đó là rượu của vua chúa. Giờ thì cô đã có một sự thật rồi nhé. À không, còn nhiều hơn cả một đấy chứ! Giờ thì cô cảm thấy vui vẻ chưa?

– Tên của ngôi làng là gì ạ?

– Cô chắc là không tin đâu nhưng đúng là ngôi làng có tên là Mad[34]. Đúng là như vậy đấy. Nhưng đó không phải là một nơi điên khùng mà thật ra nó rất đẹp.

– Kể cho cháu nghe thêm về nó đi.

Đã nhiều năm trôi qua kể từ ngày bác tôi nghĩ về làng quê cũ của mình cho nên kiểu gì thì nó cũng đã phai lạt trong trí nhớ của ông. Nhưng không, nó đã trở lại đây, ngay tức thì, khi ông hồi tưởng về nó.

– Đó là một ngôi làng êm ả và thanh bình. Không khí thơm ngát, một mùi hương dễ chịu phủ lên tất cả mọi thứ. Những chùm nho ấm áp trong nắng mặt trời lúc chúng đang chín mọng. Những cây mận đang mùa trổ hoa. Tôi nhớ về chúng rõ như in ấy. Mùa xuân, chúng nở những bông hoa tuyệt đẹp trong vườn và sau đó thì đậu quả. Chúng quả thật là ngọt ngào. Những quả mận ngon nhất mà ta được nếm trong đời. Cô biết không, bố tôi thường nâng tôi trên cánh tay của ông để tôi với tới và hái một quả mận cho ông ăn, rồi sau đó, tôi cũng hái một quả khác cho mình. Chà chà, những quả mận đó mới ngon tuyệt làm sao!

– Thế người ta dùng mận để làm gì?

– Chẳng để làm gì cả. Người ta chẳng làm gì với chúng cả, chỉ để ăn thôi. Có lẽ là làm mứt và làm bánh kuchen, một loại bánh mà tất cả phụ nữ trong làng đều làm. Cho mận lên trên cục bột nhào có rất nhiều đường rồi đặt nó vào lò, một cái lò bằng sắt rất lớn, không giống như bếp gas hiện đại ngày nay đâu. Còn nho mới là thứ quan trọng, là nơi đẻ ra tiền. Những vườn nho ấy.

– Người ta làm rượu vang ngay tại làng ư?

– Dĩ nhiên rồi. Rượu vang là toàn bộ công việc kinh doanh của làng. Nhưng không phải là loại rượu thường, không phải là thứ mà ta uống trong mấy quán rượu ở Budapest đâu. Đó là rượu thánh vì họ là những người làm rượu vang Do Thái. Họ sản xuất rượu để gửi sang miền Đông, tới tận Ukraine và Nga, cho những người theo đạo Do Thái chính thống để cầu chúc những điều phúc lành. Rượu lúc nào cũng có màu đỏ sẫm.

– Thế gia đình bác có kinh doanh rượu không?

– Có, bố tôi thì có. Cầu Thánh Allah phù hộ cho linh hồn ông được an nghỉ. Ông làm việc cho ông nội tôi, một trong số những thương nhân buôn bán rượu vang trong làng. Bố tôi giúp ông nội điều hành mảng kinh doanh, cụ thể là lo giấy tờ vận tải hàng bằng đường thủy. Ông thảo thư từ trao đổi với giới chức Nga bằng tiếng Nga và tiếng Kirin, hai thứ tiếng mà ông biết và dĩ nhiên là cả tiếng Hungary nữa. Bố tôi có thể nói là một người khá là có học, một người vô cùng hiền lành hòa nhã. Không giống tôi, nhỉ?

– Bác nói là mình có một người em trai.

Ông đã nói liên tục không ngừng suốt vài phút. Tôi nhận thấy mình có thể lên dây cót cho ông chạy đều đặn giống như một chiếc đồng hồ và ông sẽ dừng khi hết dây.

– Ồ, cô biết không. Tôi sống trong thiên đường cho đến khi mình lên 4 tuổi - bác tôi kể tiếp. - Khi đó chúng tôi có một cuộc sống hết sức đặc biệt. Những người hàng xóm, những người theo đạo Thiên chúa giáo, tất cả đều sống thân ái, hòa thuận với nhau. Một số người trong số họ là dân Hy Lạp vì người Hy Lạp thời đó cũng đóng vai trò rất lớn trong ngành kinh doanh rượu vang ở Hungary. Tôi không biết bây giờ có còn như vậy nữa hay không. Ta nhìn đâu cũng thấy những cánh đồng tươi đẹp, những vườn nho, những ngọn đồi phủ đầy cây cối. Và hoa nữa, cũng hết sức tuyệt đẹp. Tất cả mọi thứ đều bình lặng trừ những chiếc xe bò chất đầy những thùng rượu vang bằng gỗ miệt mài chạy về miền đông. Nếu tôi được sống lại một giây phút nào đó trong cuộc đời mình thì tôi sẽ sống lại quãng thời gian tôi lên 4 bởi vì chỉ giây phút sau đó, mẹ tôi, một người phụ nữ rất béo và to lớn, sẽ đi đến giường và từ bụng của bà sẽ chui ra một thằng, một thằng oắt con là em trai tôi - Ervin. Cô có muốn xem hình của nó không?

Tôi chưa từng thấy bất kỳ một tấm ảnh nào của bố lẫn mẹ tôi trước khi họ đến London, ngay khi chiến tranh sắp sửa xảy ra. Những tấm chân dung được lồng trong khung bạc sau lớp kính của ông bà tôi, những bức ảnh được chụp trong studio, được bố mẹ tôi để trong phòng ngủ của họ. Chúng đã ố mờ thành một màn sương màu chocolate sữa lờ nhờ lốm đốm, bay màu tới tận ngoài rìa.

– Đây này - bác tôi nói và lấy ra từ một chiếc hộp tráng men cũ có họa tiết hoa hướng dương trang trí một bì thư màu nâu bay mùi nước nho ép trước khi lên men thành rượu, mùi mồ hôi và phảng phất cả mùi nhựa cây.

Tôi gần như nhận ra ngay bà nội của mình. Bên một đầu gối của bà là một cậu bé khỏe mạnh có chiếc môi dưới dày, mái tóc bôi một lớp sáp thơm trong ốp ngược ra sau. Tôi có thể gọi đó là một dáng vẻ thể hiện con người ưa phiêu lưu mạo hiểm. Trên tay bà là bố tôi đang quấn tã, hé mặt ra ngoài lớp khăn len trắng - khuôn mặt của một đứa bé mới vài tháng tuổi nhưng dường như đã muốn tìm kiếm đôi mắt kính của mình.

Tôi phá lên cười.

– Cô thấy bức ảnh buồn cười lắm sao? Cuộc đời tôi chấm dứt khi nó ra đời. Ervin. Ôi chao! Thằng em cáu kỉnh!

– Ông ấy bị làm sao vậy?

– Nó là một thằng lúc nào cũng gào khóc. Nó cứ kêu gào inh ỏi rồi lại khóc nhai nhải. Nó không bao giờ rời lấy mẹ tôi nửa bước. Cô biết không, có một lần, nó tìm thấy một hộp hồ dán, giống như cái mà người ta dùng để dán nhãn lên mấy cái chai rượu vang đó. Tất cả mọi người ai cũng đều để thứ này quanh nhà. Nó tự bôi hồ dán lên người rồi chạy đến chỗ mẹ tôi, ép chặt mình nó vào mẹ để nó và bà có thể hoàn toàn dính chặt vào nhau. Phải mất nhiều ngày mẹ tôi mới gỡ được hồ dán ra khỏi quần áo nó.

– Ông ấy có ghen tị với bác không?

– Đố ai mà biết được? Nó thật là điên khùng. Đầu óc đầy những nỗi sợ hãi. Chẳng có thứ gì xảy ra trong cuộc đời nó để biến nó trở thành một thằng đàn ông thực sự, không giống tôi chút nào. Với tôi, chắc hẳn cuộc đời đó đã đi theo hướng khác. Những hoàn cảnh có thể đã khác.

– Bác vẫn còn giữ liên lạc với ông ấy chứ?

– Có lẽ chúng ta nên dừng ghi âm và nghe lại xem nó như thế nào để chắc chắn là mọi thứ đều chạy tốt.

– Vâng, được - tôi trả lời, hụt hơi trước tất cả những điều tiết lộ, thứ mà tôi chẳng biết tí gì, hoàn toàn không biết một chút nào. Bố tôi sinh ra tại một ngôi làng ư? Ông ư? Ngôi làng có những cây mận và nho ư?

Tôi nhấn một cái nút có ghi chữ “Stop” trên chiếc máy ghi âm rồi sau đó lại ấn nút “Play” một lần nữa. Chẳng nghe thấy gì. Chỉ toàn là một sự im lặng.

– Thử vặn cái núm chỉnh âm lượng xem. Có lẽ vấn đề ở chỗ đó.

Vẫn chẳng có tiếng nào vang lên.

– Có vấn đề gì với cái máy này thế nhỉ? Đây, đọc lại cuốn sách này lần nữa xem.

Tôi nhìn vào sách.

– Ồ. Có vẻ như là ta phải nhấn hai cái nút cùng một lúc. Không phải chỉ nhấn nút “Play” không thôi mà còn phải nhấn cả nút “Recorder” nữa. Nhất cả hai nút này.

Tôi ấn mạnh ngón tay của mình xuống hai nút. Một ánh sáng khác xuất hiện.

– Bác nói thử một điều gì đi.

– Thằng em trời đánh Ervin của tôi. Cái thằng nhãi lúc nào cũng gào khóc, ha ha. Nói thế đủ chưa?

Tiếng của ông sau đó vang lên: “Thằng em trời đánh Ervin của tôi. Cái thằng nhãi lúc nào cũng gào khóc, ha ha. Nói thế đủ chưa?”

Trước đây, bác tôi chưa nghe thấy giọng mình như thế này bao giờ. Ông biết ông không phát âm giống như một người Anh hay giống như một người có học bởi vì ông chưa hề được học hành giống tôi. Thế nhưng, lần đầu tiên khi ông nghe giọng mình phát ra từ cái máy ghi âm, ông chợt hiểu ra lý do vì sao không ai tin vào bất cứ điều gì ông nói ở tòa. Cái giọng đầy âm yết hầu, nghe lỗ mãng và nặng đến nỗi thậm chí đến chính ông cũng không phân biệt được một số từ.

Tôi nhận thấy bác tôi đã chịu đựng đủ rồi. Ông thấm mệt và không muốn nói thêm nữa. Ông trông như thể đã xé một phần tâm hồn mình và trao nó cho tôi, như thể ông đã đưa cho tôi lá gan hay hai quả thận của mình, ông trông không khỏe chút nào.

– Chúng ta sẽ bắt đầu lại vào ngày mai - ông bảo tôi. - Một sự khởi đầu mới.

Bác tôi đã chuẩn bị sẵn tiền trong một bì thư có đề tên của tôi trên đó.

– Tôi trả cô 40 bảng Anh một tuần nhưng mỗi ngày tôi sẽ thanh toán một phần, giống như cô nương trong truyện cổ tích Nghìn lẻ một đêm ấy. Cô ấy luôn luôn giữ lại phần kết câu chuyện đến đêm hôm sau mới kể tiếp. 8 bảng Anh không đủ để sống. Bằng cách này, ngày mai, cô sẽ buộc phải quay lại đây.

– Dĩ nhiên là ngày mai cháu sẽ trở lại.

– Có lẽ nếu câu chuyện cuộc đời tôi kéo dài đủ để có tiền mua một chiếc xe hơi nhỏ thì đó sẽ là một khởi đầu tốt cho cô trong cuộc sống.

* * *

Vì bố mẹ tôi không bao giờ trả lời bất cứ câu hỏi nào về quá khứ (Chuyện đó xong rồi. Nó đã qua rồi và giải quyết xong rồi. Giờ thì con đang ở Anh. Cái nơi đó chẳng có gì liên quan đến con cả. Ngừng bận tâm đầu óc đến cái thứ rác rưởi này đi. Câu trả lời là không, không và không) nên tôi đã học được cách ngừng đặt câu hỏi và cuối cùng tôi quên hẳn về nhu cầu muốn hỏi. Rồi bỗng dưng, một cái rương đầy châu báu mở ra và tràn ra ngoài tất cả những thứ quý giá này. Tôi thấy no nê với tất cả những gì mà bác tôi đã kể cho tôi. Nó không chỉ liên quan đến bố mẹ tôi, những người đột nhiên có thêm một chiều thời gian mà liên quan cả đến tôi. Trong quá khứ của tôi có những giáo sĩ Do Thái, có mận, có nho và có cả rượu vang. Tất cả mọi thứ bây giờ đều đã khác. Tôi cảm giác giống như mình vừa ăn hết cả một con ngựa.

Tôi không thể về nhà ngay. Vì vậy, tôi đi xem một bộ phim rồi lang thang dọc phố Bond, ngắm nhìn những bộ quần áo người lớn buồn tẻ nhưng đắt tiền không thể mua nổi được trưng bày sau những khung cửa sổ, những bộ đồ tôi không muốn mua nhưng vẫn thích nhìn những người khác đi vào rồi lại đi ra với những chiếc túi đựng hàng và đoán xem thứ gì có ở trong đó. Cái trò này làm tôi dịu lại và nguội xuống. Đó là một không gian trung hòa giữa nhà tôi và căn hộ của bác tôi. Khi tôi trở về Benson Court, bố mẹ tôi đã dọn gần xong món cá cuộn[35] ăn kèm với nước xốt cà chua và món đậu đút lò lên một cái mâm đặt trước ti vi.

– Công việc có tốt không con? - mẹ tôi hỏi - Con có một ông chủ đáng kính chứ?

– Đừng để ông ta lợi dụng chỉ vì ông ta trả lương cho con một cách thậm thụt vì lén lút trốn thuế - bố tôi cảnh báo. - Loại người vi phạm pháp luật như vậy không phải là người tử tế đâu.

– Con bé không đóng thuế - mẹ tôi nói.

– Đúng là điều anh muốn nói tới đấy. Người ta có thể bắt con bé vì chuyện trốn thuế đó.

Tôi ngồi xuống một chiếc ghế bành cạnh bố mẹ và chúng tôi xem tin tức trên ti vi.

– Anh phải nói là anh thấy bà này khá hấp dẫn đấy - bố tôi bình phẩm. - Em thì thấy sao, hả Berta?

– Bà ấy nên đội một chiếc mũ. Nó sẽ khiến cho bà ấy nổi bật hơn, giống như Nữ hoàng khi ở giữa một đám đông lớn.

– Một nhận xét tốt đấy. Có lẽ anh sẽ viết một lá thư.

– Đó chỉ là một ý kiến thôi mà. Nhưng anh định gửi thư đến đâu?

– Đến nhà bà ấy.

– Hay là anh cứ bỏ thẳng vào hộp thư nhà bà ấy. Đỡ phải mất một con tem.

– Ta không thể đơn giản đi bộ đến thẳng trước nhà người ta rồi nhét thư vào hộp thư của họ được, phải không nào? Chả nhẽ không có cảnh sát canh gác, bảo vệ bà ấy khỏi những kẻ ám sát à?

– Những kẻ ám sát nào cơ?

– Mấy tên Ireland ấy.

– Ồ, phải rồi. Đúng là những kẻ man rợ đó.

– Vivien - bố tôi quay sang tôi hỏi. - Con có thể nói cho bố mẹ biết điều gì về chuyện này được không? Con đi ra ngoài nhiều hơn bố mẹ mà.

Tất cả chúng tôi đều biết sẽ chẳng có lá thư nào được gửi đi, cả thư có dán tem lẫn thư không dán tem.

– Con hầu như không đi ra ngoài nữa - tôi trả lời.

– Bà ấy trông đúng là một phụ nữ xinh đẹp - mẹ tôi lại cất lời khen. - Margaret, một cái tên thật đáng yêu.

Tôi không thích mái tóc, bộ trang phục, hàm răng hay đôi mắt điên dại của người đàn bà đó.

– Bà ấy nói cứ như đang sủa vậy - tôi nói. - Bố mẹ cứ nhìn bà ấy xem. Bà ấy giống như một người nào đó mà ta trò chuyện trên xe buýt. Bố mẹ cứ ngỡ người ta khá tử tế cho đến khi người ta nói đụng đến một điều gì khiến bố mẹ nhận ra đó là một kẻ điên trốn thoát khỏi bệnh viện tâm thần hay đại loại là như thế.

– Con đào ở đâu ra cái ý kiến xấu xa kinh tởm như vậy hả? - bố tôi vặn hỏi.

– Ý kiến nào cơ ạ? Đó không phải là một ý kiến.

– Đó là một quan điểm.

– Không, không phải, bố ạ. Chỉ là một cảm nghĩ mà thôi.

– Cảm nghĩ à? - bố tôi nhắc lại. Tôi biết chính xác điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Bố tôi mở miệng nói. Tôi có thể nhìn thấy chiếc lưỡi đỏ của ông chuyển động quanh khoang miệng. - Ý tưởng là thứ tồi tệ và khi chúng gắn liền với cảm nghĩ thì khi đó ta sẽ có thảm họa.

– Con bé chắc hẳn là bị tiêm nhiễm từ một trong số bạn bè của nó, - mẹ tôi nói và đứng dậy đi kéo các tấm rèm cửa.

– Còn nói về quý bà đáng yêu này, người ta cũng có cảm nghĩ, nhưng là cảm nghĩ về những người bạn.

Bố mẹ tôi không tin tưởng vào bạn bè. “Bố đã từng có một người bạn,” - bố tôi kể. - “Cậu ta mượn xe đạp của bố rồi lén đạp xe về vùng quê chơi. Khi cậu ta trả xe lại cho bố, sơn xe tróc hết cả ra. Cậu ta chưa bao giờ nói cho bố biết là cậu ta đã đạp xe của bố đi chơi xa khỏi thành phố. Sau đó, bố nói với cậu ta: ‘Cậu với tớ đến đây là chấm hết’.”

Sự việc này xảy ra vào năm 1935. Người bạn cũ của bố tôi đã nhận được một lá thư đoạn tuyệt tình bạn. Trong thư, bố tôi chỉ rõ những điều khoản từ bỏ quan hệ, bao gồm việc trả lại các album sưu tập tem, v.v…, ngưng lui tới những quán cà phê nhất định nơi bố tôi đã từng ghé qua để uống cà phê và thưởng thức bánh ngọt, cắt đứt với toàn bộ thành phố trong phạm vi địa hạt Bạn và Tôi. Đó là lá thư thành công nhất của bố tôi: có bắt đầu, có kết thúc, có ký tên (Ervin Kovacs), có gửi đi và đến được địa chỉ cần gửi.

– Bố sẽ tha thứ cho cậu ta nếu cậu ta xin lỗi - bố tôi nói. - Cánh tay bố vẫn rộng mở.

– Ít nhất thì anh ta cũng phải gửi thư hồi âm cho anh chứ - mẹ tôi hùa theo. - Anh ta chẳng thèm gọi điện thoại để khẳng định sẽ phớt lờ anh, ngay cả khi đã nhận được một lá thư từ bạn như thế.

Tôi về phòng mình và cố gắng đọc sách nhưng đầu óc tôi đầy những ý nghĩ về thế giới ảo huyền của ông bà mình và tôi đã tìm kiếm rất lâu tấm bản đồ của Hungary trong các tập bản đồ của mình. Chưa bao giờ bằng lúc này, tôi ước Alexander còn sống để chúng tôi được cùng nhau ngồi bên chai rượu vang và tôi có thể kể cho anh nghe tất cả mọi chuyện. Anh sẽ lại vặn vẹo những ngón tay dài xanh xao của mình, gật gù và suy nghĩ một chốc trước khi phát biểu về tình hình. Ban đầu tôi có thể phản đối nhưng chắc chắn là tôn trọng cách nhìn nhận vấn đề của anh. Tôi hồ nghi không biết liệu mình có chống lại ý kiến của anh không nhưng tôi sẽ ngầm lật đi lật lại vấn đề trong óc của mình để thử nhìn mọi sự theo một vài cách khác.

Mặc dù thời trẻ, tôi đã quyết định trở thành một người trí thức có bằng đại học trong gia đình để đương đầu với tất cả những oán giận điên dại, những cơn thịnh nộ và hờn dỗi, sự quát tháo, những ám ảnh và cưỡng bách của bố mẹ nhưng điều đó không có nghĩa là bản thân tôi hoàn toàn có lý trí.

Khi tôi còn là một đứa trẻ, tôi có tập truyện Struwwelpeter gồm những câu truyện đầy những cảnh báo nhân quả đối với những nhân vật xấu xa, độc ác như Frederick tàn bạo, Cậu bé mút tay và Những cậu bé đen như mực[36] (vì mẹ tôi cũng có cuốn sách này khi bà còn là một cô bé giống tôi. Thế là tôi biết tất cả về những truyện thần tiên, những khu rừng rậm và những mụ phù thủy. Tôi đã tới tất cả những nơi ghê rợn đó trong bóng tối và giống như Những người khờ dại, tôi gần như lạc lối ở đó. Tôi chưa bao giờ thật sự chắc chắn về thái độ đạo đức của mình.

Chú thích:

[27] Cửa hàng bách hóa Harrods là một trong những cửa hàng sang trọng nổi tiếng nhất thế giới, nằm trên đường Brompton ở khu Knightsbridge của London.

[28] Nữ ca sĩ người xứ Wales sinh ngày 8.1.1937, bắt đầu nổi tiếng vào cuối thập niên 50 và lừng danh trên toàn thế giới.

[29] Một nhân vật phản diện người Do Thái trong tác phẩm Oliver Twist của nhà văn Anh Charles Dickens. Lão già có tính cách độc ác này chăn dắt một đám trẻ đường phố, bắt chúng phải đi móc túi và làm nhiều việc phạm pháp khác để đổi một chỗ ngủ qua đêm.

[30] Triều đại nữ hoàng Victoria từ 1837-1901.

[31] Brixton là một quận phía Nam London; Notting Hill cũng là một quận của thủ đô Anh, nổi tiếng toàn thế giới vì sự giàu có và thời thượng của nó.

[32] Món jerk thịt gà hay thịt heo là món ăn dân tộc của Jamaica. Thịt được ướp rất nhiều ớt Scotch Bonnet - một giống ớt có hình dạng giống chuông Đà Lạt của Việt Nam nhưng nhỏ hơn, rau húng tây, hành tây và hành lá. Sau đó, thịt được gói trong lá ớt và nướng trên lửa than từ 6-8 giờ.

[33] Thuốc lá nhãn hiệu Balkan Sobranie Black Russians là một loại thuốc lá được sản xuất tại Ukraine.

[34] Mad nghĩa là điên rồ.

[35] Cá cuộn –fishfinger- là một món chế biến sẵn, thường được làm từ phi lê cá có thịt trắng như cá tuyết, cá minh thái... Phi lê cá được cắt thành từng thanh rồi được tẩm bột chiên xù hay nướng.

[36] Struwwelpeter là một chùm truyện tranh gồm 10 truyện

của tác giả người Đức Heinrich.