Chương 10
Sáng hôm sau, tôi lại ngồi vào chiếc ghế song mây và đã thành thạo cách sử dụng chiếc máy ghi âm. Chúng tôi lại bắt đầu từ đầu. Bác Sándor lại kể cho tôi nghe lần thứ hai về những cây mận và rượu vang. Ông vẫn nhớ tất cả mọi thứ mà ông cứ ngỡ là mình đã quên, chẳng hạn như ngôi thánh đường Do Thái có trang trí hình những con vật ở bên trong, những con sư tử và những con quái vật sư tử đầu chim phía bên trên hộp đựng pháp điển. “Bên trong thánh đường là một màu xanh dương tuyệt đẹp” - ông hồi tưởng - “Cô có biết cái màu gọi là xanh dương hoàng gia đó không? Chính nó đó. Đó là một chốn linh thiêng nhưng cô biết đấy, đối với một đứa trẻ thì nó rất là hấp dẫn vì tất cả những cảnh trang hoàng của nó. Và phía bên ngoài có hai cửa sổ. Chúng giống như một cặp mắt nâu sẫm lúc nào cũng nhìn tôi và chú ý đến tất cả mọi thứ. Lúc tôi còn sống ở làng, ngôi thánh đường đã có hơn 100 năm tuổi.
Trong suốt thời gian diễn ra phiên tòa xét xử bác tôi vào năm 1964, thông qua những gì được người ta đề cập về ông cộng với những hồ nghi của tôi về việc chúng tôi có quan hệ họ hàng với nhau, tôi nhận ra rằng chắc phải có một lý do nào đó ngoài chuyện tằn tiện mà bố mẹ không nấu gà tây vào dịp Giáng sinh, không tặng cho tôi một chiếc tất treo cuối giường và bỏ đầy quà vào đó. Bố mẹ tôi cũng chẳng mua trứng phục sinh bằng chocolate vào dịp lễ Phục sinh.
– Con nghe này - bố tôi nói trong một lần tôi cật vấn ông trước khi tôi rời khỏi nhà để đến trường đại học - khi bố mẹ đến đây, đến nước Anh này, bố mẹ có một sự lựa chọn. Đó là lựa chọn giữa cơ quan phụ trách về người Do Thái tị nạn và những quý bà tử tế đến từ WRVS. Mẹ con đã ngó ngàng bên này rồi lại để ý tìm hiểu bên kia. Và bà ấy đã đi đến một quyết định. Bố ủng hộ mẹ cả hai chân hai tay và con nhìn xem, mọi thứ trở nên ra sao nào? Chẳng còn làm phiền chúng ta nữa! Bố nghĩ, đó là một việc đúng cần làm. Và giờ thì con đã thành người Anh rồi. Chẳng còn liên quan đến thứ gì khác nữa.
Vậy nên, ở một mức độ khá hời hợt, tôi hiểu rằng bố mẹ tôi là người Do Thái nhưng tôi thì không, bởi có một sự thật rằng, ngay trước khi tôi sinh ra đời, bố mẹ tôi phát hiện ra tôi được phép rửa tội theo luật giáo hội Anh. Vậy là, bố mẹ tôi đã đến một nhà thờ ở địa phương và để cho tôi được tắm nước thánh. Điều này về sau đã xua tan bớt phần nào mối nghi ngại của bố mẹ Alexander về tôi và cho phép chúng tôi được làm đám cưới trong một nhà nguyện nhỏ của thánh đường Hereford. Bố mẹ tôi để tôi được rửa tội vì sau khi kết thúc nghi lễ này, ta sẽ có một tờ giấy chứng nhận. Bố mẹ tôi chẳng thích một loại giấy tờ chính thức nào hơn tờ giấy chứng nhận này có đầy đủ tên của cả hai người trên đó, thứ mà họ có thể trình ra cho các nhà chức trách nếu bị những người này đến nhà yêu cầu cho xem giấy tờ.
Nhưng niềm tin tôn giáo cần phải đi xa hơn đó để bám trụ trong tâm hồn ta, nơi nó có giá trị. Và rồi, cả Thiên chúa giáo lẫn Do Thái giáo đều không làm được điều đó. Dù vậy, tôi vẫn cảm thấy bị hấp dẫn và bị sốc trước những gì ông bác Sándor phải kể về việc bố tôi được nuôi dạy trong môi trường như thế nào. Bố mẹ tôi thuộc tuýp người thành thị luôn tránh xa chỗ có cỏ vì “ai cần đến cỏ kia chứ?”. Họ chưa từng bao giờ đi trên xa lộ nhưng họ khâm phục ý tưởng xây dựng đường cao tốc. Nhưng giờ thì hóa ra bố tôi biết tất cả về những vườn cam, vườn nho và những con ngựa. Bà Prescott đã nói khá đúng về hình thức bề ngoài đậm chất nông dân của tôi. Đôi bàn tay to bè vuông vức, đôi bàn chân thô kệch. Đích thị là đặc điểm nguồn gốc dân quê lao động.
Ban đầu, quá trình phỏng vấn ông bác Sándor đã đem lại cho tôi một khả năng lắng nghe mà không ngắt lời, sử dụng đôi tai thay vì hai mắt. Thỉnh thoảng, tôi hỏi ông một câu nhưng phần lớn thời gian, tôi giữ im lặng. Tôi để ông nói. Tôi đã tìm thấy một cách lèo lái ông như thể ông là một con tàu chạy ở đây một chút, ở kia một chút và cứ như thế, ông nói, nói và nói liên tục, không thể ngừng lại. Sau này, bác tôi nói với tôi rằng ông cảm thấy như mình đã nuốt phải một con rắn và con rắn đó đang rút sạch dưỡng chất bên trong con người ông. Bất cứ thứ gì ông nuốt vào, con vật đó cũng ngốn sạch và thế là ông chẳng còn lại một chút chất dinh dưỡng nào. Ông cần tôi bắt con rắn đó ra khỏi người ông. Con rắn đó giờ đây đang thò ra khỏi miệng ông với cái đuôi lời ra trước, từng phân từng phân một. Còn cái đầu của nó thì đang bị vùi tận trong lòng trong ruột của ông. Có lẽ đây chính là thứ gây ra chứng rối loạn tiêu hóa kinh khủng ở ông - bác tôi đoán và mỉm cười buồn bã.
– Trước tiên, cô cần phải có một bài học lịch sử nho nhỏ để hiểu được những gì xảy ra với chúng tôi - ông bắt đầu nói.
– Vâng, cháu xin chăm chú lắng nghe bằng cả hai tai.
– Cô có học lịch sử chứ?
– Dĩ nhiên là cháu có ạ.
– Nhưng chỉ toàn nói về mấy ông vua, bà hoàng Anh với Pháp của cô mà thôi, không phải lịch sử đúng nghĩa. Giờ thì cô nghe này, trong Thế chiến thứ nhất, khi tôi còn là một đứa bé con, chúng tôi sống tách biệt với tất cả mọi thứ. Một số thanh niên ra đi chiến đấu cho hoàng đế nhưng thật sự chúng tôi như bị bỏ rơi vậy. Cuộc chiến bùng nổ trong làng cũng là cuộc tranh cãi giữa bố tôi với ông nội tôi. Khi đó là vào năm 1922, tôi đã sáu tuổi còn thằng Ervin thì mới lên hai. Cô có biết là chúng tôi đã có một cuộc cách mạng nhỏ của Cộng sản ở Hungary không? Đúng vậy đấy, cái ông Bela Kuhn[37] cho rằng chúng tôi nên đi theo con đường giống như nước Nga Xô Viết… Thế là ông ta gây ra một cuộc đại náo loạn giống như những người luôn luôn có nhiều ý tưởng trong đầu, những ý tưởng kêu vo vo giống như những con ong, buộc họ phải để cho chúng bay ra khỏi miệng; bằng không, họ sẽ phát điên với những tiếng kêu trong đầu đó. Nhưng ông ta chẳng làm được trò trống gì ngoại trừ việc bắt đầu gây đảo lộn công việc kinh doanh cá thể của người dân. Thế rồi dân người ta cũng nhận ra bản chất của vấn đề và quay lưng với ông ta. Đột ngột lắm. Dĩ nhiên làm sao chúng ta biết được đôi khi một cơn cảm lạnh lại có thể biến thành một chứng bệnh ung thư? Không thể nói trước được.
“Dù sao chăng nữa, ông nội tôi cũng là một người rất sùng đạo. Ông có một bộ râu thơm mùi thuốc rê và quăn phủ xuống hai tai. Ông tin rằng đấng Messiah - tức Đấng cứu thế - sắp sửa quay trở lại trần gian vào bất cứ lúc nào. Vì thế, điều thực sự đáng cho là vấn đề chính là những gì mà đám tiện dân ở Budapest suy nghĩ, bởi họ đang bị lừa dối. Thế mà bố tôi lại tìm đến những cuốn sách. Không phải để tìm hiểu về chính trị vì ông không khoái cái món đó. Ông bắt đầu đọc về những tôn giáo khác, về hàng xóm láng giềng theo đạo Cơ đốc của chúng tôi, vì như tôi đã nói, thời đó người ta sống với nhau chan hòa lắm. Đặc biệt là người Hy Lạp, chúng tôi luôn luôn thích họ. Sau đó, bố tôi lại bắt đầu tìm hiểu về các tín đồ đạo Hồi, đạo Hindu và đạo Phật, tất tần tật mọi thứ hiện diện trên thế giới này. Ông thường xuyên gửi thư đặt mua sách tận Budapest và đêm về, ông nghiền ngẫm chúng trong lúc mẹ tôi giặt giũ hay lau chùi. Đầu óc ông lúc nào cũng để ở trong một cuốn sách nào đó và rồi ông bắt đầu nói tất cả những điều điên khùng về thánh Allah, về Phật, về thần Shiva. Không ai hiểu ông đang nói gì. Mẹ tôi úp hai tay bà lên đôi tai tôi mỗi khi bố bắt đầu mở miệng. Tôi còn nhớ đôi tay bà có mùi nước giặt xà phòng từ công việc giặt giũ.
“Cuối cùng, mọi sự trở nên quá sức chịu đựng đối với ông nội tôi. Là một người vô cùng mộ đạo, đối với ông, chỉ có duy nhất một thứ có ý nghĩa. Đó là lời răn đầu tiên của đấng Messiah. Cô có biết lời răn đó không?”
– Ngươi không được hãm hại người khác? - tôi hỏi lại ông bác Sándor.
– Không, không phải. Đó không phải là lời răn đầu tiên. Lời răn đầu tiên là “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngươi không có Thiên Chúa nào khác ngoài Ta”. Cô có nghe điều răn này chưa? Đối với ông tôi, đây là một thông điệp tối hệ trọng. Vậy cho nên khi thằng con trai của ông bắt đầu nói về Chúa Giê-su, về Phật và về thần Shiva, mọi thứ hệt như thể thằng con trai đó đang trở thành một tên Đức Quốc xã dù rằng về sau ông chẳng biết tí gì về phát xít Đức. Chuyện này xảy ra nhiều năm trước khi có nạn tàn sát người Do Thái của Đức Quốc xã.
“Một ngày nọ, ông tôi và bố tôi cãi nhau ngoài đường, trước mặt tất cả mọi người. Cả làng dừng lại xem. Đó là một cuộc đấu kiêu hùng giữa cha và con. Tôi cố gắng lắng nghe họ cãi nhau nhưng mẹ tôi đã lấy tay bịt tai tôi. Trong lúc tôi đang vặn vẹo mình, tìm cách chạy xa khỏi bà vì tôi là một thằng bé rất mạnh thì thằng nhãi Ervin em tôi gào thét inh ỏi. Chẳng phải vì cái gì ghê gớm, chỉ là muốn có một mẩu bánh mì và mật ong. Thế là, cô thấy đấy, tai tôi đã bị mẹ tôi lấy tay bịt chặt còn thằng em nhãi nhép thì cứ quác quác cái mồm. Nó làm ầm ĩ quá khiến tôi không tài nào nghe được chuyện gì đang xảy ra. Nhưng rồi tôi thấy ông tôi bốc một cục phân ngựa trên đường. Cô phải nhớ rằng ông tôi là một người hết sức sạch sẽ, sạch sẽ nhất luôn, ông rửa tay cả ngày và cầu nguyện với đôi tay sạch sẽ chắp lại trước ngực. Ông chẳng làm bất kỳ việc gì dính dáng tới lũ súc vật, chỉ với nho và giấy tờ mà thôi. Ấy thế mà ông đã bốc cục phân ngựa và ném cái thứ cặn bã dơ bẩn ấy vào bố tôi.
“Ôi không”, mẹ tôi kêu lên thất thanh còn thằng nhãi Ervin vẫn nhai nhải gào khóc đòi bánh mì và mật ong. Tôi cố luồn ra khỏi cửa để nhìn rõ hơn vì người ta đứng chắn hết lối. Toàn người lớn. Thế nên tất cả những gì tôi có thể thấy là nhìn qua chân của họ khi họ không chạy qua chạy lại vòng quanh. Tôi muốn thấy bố tôi sẽ làm gì. Ông có dám bốc phân ném lại ông tôi hay không? Nhưng bố chẳng làm gì cả. Ông chỉ đứng im ở đấy và bắt đầu chửi mắng những người đang bu quanh xem. Ông chửi họ là đồ xấu xa, là phường dốt nát. Rồi bố tôi bước nhanh như chạy khỏi đường cái. Không ai theo kịp ông ngoài lũ chó. Ông đi ra xa tới những vườn cam và mất dạng sau những lùm cây.
“Và sau đó, gia đình tôi rời khỏi làng, rời khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Tôi không bao giờ được ngắm nhìn lại quê hương của mình lần nữa. Chúng tôi chuyển đến Budapest. Mối quan hệ giữa chúng tôi và vùng đất Zémplen đến đây là chấm hết. Thôi, giờ thì ta nghỉ, làm một tách cà phê và chút bánh bích quy. Hay là cô muốn ăn một miếng bánh của Đức? Xin lỗi là tôi vẫn chưa tới cái chỗ người ta bán bánh ngọt hảo hạng.”
– Dạ không, cháu cảm ơn.
– Tôi không trách cô đâu. Thứ bánh này tệ quá mà. Thôi, kiểm tra lại cho chắc chắn mọi thứ vẫn chạy tốt.
Tôi tua lại băng ghi âm và giọng của bác tôi từ trong chiếc máy phát ra: “…Và phía bên ngoài có hai cửa sổ. Chúng giống như một cặp mắt nâu sẫm lúc nào cũng nhìn tôi và chú ý đến tất cả mọi thứ…”
– Là giọng tôi đấy à? - Ông bác Sándor hỏi, cảm thấy như đang nhìn mình trong gương. Khi ông làm vậy, ông nhìn thấy một khuôn mặt phệ và chiếc môi dưới trề xuống. Chiếc máy ghi âm cho ông biết giọng của ông nghe như thế nào và nó đã làm ông thất vọng, chùng xuống.
– Hình như có ai đang gõ cửa phải không bác? - tôi hỏi
– Hả? Ừ đúng. Có tiếng gõ cửa. Để tôi đi xem ai.
Bác Sándor chỉ mở he hé cánh cửa. Tôi không thể thấy người đứng ngoài kia là ai.
– Ồ, ra là mày - bác tôi thốt lên với một vẻ mỉa mai - lại đến nữa.
– Cái cửa sổ vẫn bị hư - một giọng nói cao và sắc nhưng không ẻo lả, nữ tính, vang lên từ phía bên kia cánh cửa. Các từ bay ra giống như những mũi tên bằng kim loại thoát khỏi cái miệng mà tôi không nhìn thấy.
– Làm gì mà mày cứ nhắng nhít cả lên như thế hả? Không khí trong lành sẽ tốt cho mày đấy. Mày nên để mở cửa sổ suốt đêm mà ngủ. Đến tao cũng định làm thế nữa là - ông bác Sándor quay sang nháy mắt với tôi.
Một tràng cười ngắn và cộc lốc vang lên:
– Vậy thì ông đừng hòng thu tiền thuê nhà chừng nào ông chưa sửa cửa sổ.
– Ái chà. Dám đe dọa cơ đấy. Cô nghe thấy không, Miranda? Thôi! Biến đi mà lái cái tàu lửa vớ vẩn của mày. Tao đang bận. - Bác tôi đóng sập cửa vào mặt người khách.
– Có phải anh chàng đó ngủ trong phòng có cửa sổ bị hư không hả bác? - tôi hỏi với một vẻ hào hứng vì tôi cho rằng mình vừa mới phát hiện một bằng chứng không thể chối cãi được chứng tỏ ông bác của mình là một người cho thuê nhà xấu xa.
– Thằng ranh con đó ở phòng có cửa sổ là may mắn lắm rồi. Nó đã có không khí thông thoáng rồi còn gì. Tôi ấy à, có lúc tôi còn phải ngủ trong một cái hố, hố đúng nghĩa nữa ấy chứ.
– Dạ thưa bác, đó là chuyện hồi xưa, xảy ra ở bất kỳ một nơi nào khác nhưng bây giờ ở đây, ở ngay thủ đô London này, bác phải có trách nhiệm của một người cho thuê nhà. Đã có luật đàng hoàng. Bác không thể…
Bác tôi nhìn tôi, đứa cháu gái đã học đại học, nghiên cứu về Shakespeare và trước đó đã thừa nhận không biết gì về cuộc sống. Ông nghĩ rằng đã đến lúc tôi cần phải nghe một số sự thật về luật pháp. Ông không muốn để cho tôi ngu ngơ, không biết gì vì theo kinh nghiệm của ông, những kẻ khù khờ như vậy thường dễ bị lừa gạt, hiếp đáp và ông không muốn điều đó xảy ra với tôi. Ông muốn tôi biết cách tự bảo vệ mình như thế nào chứ không phải trở thành một nạn nhân. Trong suy nghĩ của ông, nếu ta chủ tâm muốn làm rối tung đầu óc của một người và làm cho anh ta trở thành một kẻ mất trí bằng những điều vô lý, xằng bậy, ta nên bắt đầu thử thực hành trước trên dân trí thức, những kẻ khờ khạo nhất.
Một người trí thức chẳng biết tí gì về cách làm sao tự chăm sóc mình khi thời cuộc khó khăn vì anh ta tin rằng suy nghĩ quan trọng hơn hành động. Ngược lại, bác tôi biết rằng thực tế hoàn toàn trái ngược với việc đó.
– Phải rồi, luật pháp - ông nói nhẹ nhàng, ban đầu cố để không làm tôi sợ. Thế nhưng, ông thực sự đã làm tôi thấy hãi vì hai bên khóe miệng ông đã bắt đầu xuất hiện bọt trắng. - Cô muốn nói với tôi về luật pháp à? Thế cô chỉ cho tôi xem luật có chỗ nào quy định một người cho thuê nhà phải kiếm lợi nhuận nào?
– Luật pháp không phải được xây dựng để bảo vệ kẻ mạnh, nó được làm ra để bảo vệ người yếu.
Tôi không phải là người quan tâm đến chính trị, hoàn toàn không. Giống như bố mẹ mình, tôi chưa bao giờ đi bầu cử. Thế nhưng, những ý nghĩ kiểu như thế này là sản phẩm thu được từ đời sống sinh viên. Ta không thể tránh né chúng được.
– Ái chà! Ái chà! Ái chà! Tôi hiểu rồi. Giờ thì tôi hiểu ý cô rồi. Chủ nghĩa xã hội chứ gì. Nghe này, cô sắp sửa được nghe về chủ nghĩa xã hội ngay thôi, khi chúng ta đi đến phần đó trong câu chuyện của tôi. Rồi cô sẽ không ưa những gì tôi buộc phải kể ra với cô đấy.
– Cháu không quan tâm đến chính trị đảng phái này nọ. Nhưng dù sao, đó không phải là chủ nghĩa xã hội. Đó là chủ nghĩa cộng sản. - Alexander đã nói với tôi như vậy.
– Cũng thế cả thôi.
– Không, không phải giống nhau đâu. Chủ nghĩa cộng sản là nhà nước toàn quyền lãnh đạo còn cái mà cháu muốn nói là những bộ luật bảo vệ…
– Lợi nhuận của tôi? Thế có bộ luật nào bảo vệ điều đó không? Không. Chỉ đối với lũ ăn xin cố ăn bám ăn chực tôi mới có luật bảo vệ chúng mà thôi. Còn đối với tôi thì chẳng có bộ luật nào.
– Tại sao trên thế gian này cần phải có một bộ luật bảo vệ lợi nhuận của bác? Tất cả mọi người ai cũng có quyền được có một mái nhà che mưa che nắng. Lợi nhuận không phải là thứ lương thiện. - Đây là một trải nghiệm mới đối với tôi: sự phẫn nộ về đạo đức.
– Ồ, thế ra cô không muốn một người cho thuê nhà kiếm lời à? Cô nghĩ ông ta là một nhà từ thiện chắc? Mà tại sao phải bố thí chứ? Tại sao người ta phải trở thành nhà hảo tâm thiện nguyện? Hội từ thiện đầy những kẻ chẳng có gì tốt hơn để làm vì phường đó không cần đến lợi nhuận. Chúng đã có sẵn tất cả những gì chúng cần và thế là mở một hội từ thiện. Tốt thôi, hãy để chúng làm chủ nhà đi còn tôi sẽ tìm một việc khác kinh doanh. Nhưng quay lại chuyện bây giờ, có một thằng oắt con đến chỗ tôi và nói với tôi rằng nó nghe nói tôi có một phòng cho thuê. Tôi nói cho nó biết giá thuê nhà và nó trả lời “Được, tôi thuê nhà, tôi chịu giá này”. Thế còn tại sao giá thuê nhà lại là 6 bảng Anh? Vì chính phủ bảo tôi rằng tôi không được phép cho thuê cao hơn 6 bảng. Đó là luật, luật của cô đấy. Thế là, trong khi tôi không thể kiếm một đồng lời nào với cái giá cho thuê 6 bảng đó thì cái thằng nhãi ranh đó lại đòi hỏi phải sửa cửa sổ, không phải ngày mai hay hôm nay mà cái chính là nó muốn cái cửa sổ đó không bao giờ bị hỏng nữa. Nếu tôi có chút tiền lời, tôi đã sửa cái cửa sổ cho nó rồi.
Gương mặt tôi lộ ra một sắc thái cảm xúc mà bác tôi đã từng nhiều lần nhận ra trước đó, khi người ta nhìn vào ông. Ông biết nó rất rõ, đó là một sự pha trộn lẫn lộn nửa sợ hãi, nửa khinh thường, một cảm giác buồn nôn tởm lợm trước một thứ gì đó mà ta không muốn chạm vào, hay nếu thực sự buộc phải chạm vào thì ta sẽ lấy một mẩu giấy, chụm các ngón bốc nó lên rồi sau đó đi rửa tay.
Chính trị chẳng có ý nghĩa gì với ông bác của tôi cả. Con người này quả thực là một lão Fagin. Và bây giờ thì có lẽ tôi cần phải đánh giá lại những suy nghĩ trước đây của mình về kẻ tội phạm hung ác thời Nữ hoàng Victoria này.
– Tôi xin lỗi vì đã làm cô sợ - ông bác Sándor nói, giọng run run. - Thôi đừng để ý đến điều đó nữa. Cô phải hiểu rằng tôi không phải là một người hung bạo. Tôi chỉ hơi cao giọng chút thôi. Thỉnh thoảng ấy mà.
Bác tôi lau mồ hôi. Ông rút khăn giấy trong chiếc hộp để trên bàn và tự lau cho mình. Những lớp khăn giấy màu đỏ tía mủn ra, dính khắp da ông. Đôi mắt ông mờ đục và nhìn tôi với một nỗi sợ hãi.
– Được rồi, chúng ta tiếp tục công việc thôi - tôi nói. Tôi đã nghe đủ rồi và tôi cũng đã biết bác tôi là loại người như thế nào.
Tất cả những gì mà bố tôi đã kể cho tôi nghe về bác tôi là đúng, chỉ qua tình huống một lần trong đời như thế này cũng đủ để miễn cưỡng công nhận như vậy. Kế hoạch của tôi sẽ như sau: sáng mai, tôi sẽ đến lấy 8 bảng Anh tiền công của tôi và chấm dứt trải nghiệm này. Tôi không xem bác tôi là một con quỷ, đó là sự đặt điều vô lý của những kẻ thích gây giật gân. Ông chỉ là một kẻ hết sức khó ưa, một con người gây khiếp đảm và tôi không muốn dính dáng thêm chút nào với ông. Hài lòng với những thông tin mà ông đã cho tôi biết về ông bà tổ tiên mình ở một làng quê nông thôn, tôi biết rằng bất cứ thứ gì khác ông có thể kể tiếp cho tôi cần được trả với cái giá quá cao - một kiểu ô uế do một người mà tôi không còn đủ sức chịu đựng để ở đây thêm nữa gây ra. Bố mẹ tôi yêu tôi và họ đã đúng khi cố bảo vệ tôi khỏi người họ hàng khủng khiếp này.
Nhưng bác tôi không để mọi việc dừng lại ở đó. Đối với ông, phải làm cho tôi hiểu là một điều hết sức quan trọng.
– Không, trước tiên cô phải nói cho tôi biết vì sao cô quan tâm đến mấy cái mớ luật này?
– Bởi vì chúng công bằng - tôi cảm thấy hài lòng với cái lý đơn giản trong câu trả lời của mình. Nếu Alexander mà còn sống, hẳn anh cũng phải công nhận đây là một câu trả lời sắc bén, ngắn gọn và dứt khoát.
– Công bằng à? Thế nó có nghĩa gì nào?
Tất cả mọi người đều biết công bằng có nghĩa là gì. Nó là nền tảng cơ sở của xã hội Anh, là bản năng của người Anh trong việc đánh giá đúng sai. Tất cả những người di dân đều hiểu điều đó, ngay khi họ vừa bước chân khỏi thuyền tị nạn. Đó là đối xử đàng hoàng, mã thượng và tất cả chỉ đơn giản có vậy. Bố mẹ tôi tán thành cái ý kiến được số đông nhiều người ủng hộ. Mẹ tôi đã từng có lần nhấn mạnh đảng quốc xã không bao giờ tin vào lý tưởng này. Chúng sẽ cười vào điều đó.
Nhưng chính xác công bằng là cái gì? Trước đây, tôi vẫn thường cho rằng mình hiểu được ý nghĩa của từ này nhưng sau ngày hôm nay, tôi sẽ về tra lại từ điển để chắc chắn.
– Cháu không dám chắc đó là thứ mà ta có thể định nghĩa, - tôi trả lời bác mình - nhưng cháu cho rằng công bằng là chuyện liên quan đến tôn trọng người khác.
– Công bằng là thứ cần phải giành giật mới kiếm được.
– Tại sao lại như vậy?
– Ta phải có những phẩm chất bên trong mà người khác nể trọng.
– Chẳng hạn như?
– Sức mạnh, trí tuệ thông minh. Trong rừng, sư tử được tất cả những loài vật khác nể trọng.
– Đó không phải là nể trọng mà là khiếp sợ.
– Cũng thế cả mà thôi.
– Cháu thử lấy một ví dụ nhé, bác có tôn trọng cái anh chàng vừa gõ cửa nhà bác không?
– Thằng ranh con đó à? - ông bác Sándor bắt đầu cười lớn. - Cô nghe này, nó không phải là một thằng tồi nhưng tôi phải tôn trọng nó ư? Vì lẽ gì cơ chứ? Nó mới 20 tuổi đầu và mặc độc cái áo khoác da bốc mùi.
– Tại sao không? Anh ấy cũng là một con người cơ mà.
– Người thì sao nào?
– Là người cho nên anh ta đáng được tôn trọng.
– Tại sao?
– Vì anh ấy là anh ấy. Đơn giản chỉ là thế.
Tôi lắc lắc đầu.
– Ôi, Miranda, cô chỉ mới bắt đầu bước vào ngưỡng cửa cuộc đời thôi. Tin tôi đi, nơi tôi đến…
– Bác đến từ đâu không quan trọng. Tất cả cũng như nhau cả thôi.
– Không hề giống nhau đâu. Thôi được, hãy nghe lại băng ghi âm. Có lẽ nếu cô nghe lại, cô sẽ thấy một quan điểm khác.
– Được rồi, thì nghe lại - tôi nói, giọng lạnh tanh. - Chúng ta đến đâu rồi nhỉ? À, phải rồi, tới đoạn bác rời khỏi làng quê của mình. Thế tiếp theo thì điều gì xảy ra?
– Điều gì xảy ra tiếp theo ư? Chúng tôi - tôi, bố tôi và thằng em trai của tôi - dọn đến Budapest.
Chắc hẳn là bác tôi đã cảm thấy rằng mối quan hệ giữa tôi và ông lúc trước mới là tốt đẹp nhất chứ không phải hiện tại, vào lúc này, vì khi đó, ông vẫn còn là một ẩn số và còn chứa đựng một thứ gì đó mà ông biết là tôi rất muốn tìm hiểu khám phá ra. Đó chính là quãng đời đầy bí ẩn mà những người không muốn dẫn tôi quay trở về nó, những người từ chối trao tặng cho tôi món quà này, đã sống trước khi tôi được sinh ra. Và bác tôi đã bắt đầu thích thú với một số kỷ niệm quá khứ, thứ đã đưa ông về với một thời kỳ vô cùng dễ chịu trong khi tương lai chỉ là một loạt những cánh cửa mà ta sẽ phải mở với toàn những điều bất ngờ không dễ chịu đang chờ đợi ở phía bên kia.
Bác tôi không hiểu ra rằng giữa chúng tôi đã kết thúc. Tất cả đã chấm hết ngay buổi sáng thứ hai gặp nhau.
– Bố tôi hoàn toàn cắt đứt với ông nội tôi, với ngôi làng, với tất cả mọi thứ, kể cả công việc buôn bán rượu vang - ông bác Sándor tiếp tục kể. - Thế là chúng tôi đón tàu hỏa lên thành phố. Tôi chưa từng đi tàu hỏa bao giờ. Tôi chưa từng thấy một nơi nào lớn hơn Tokaj. Cô có biết một nơi như Budapest hồi đó là như thế nào không? Cô đã từng trông thấy nơi đó chưa?
– Dạ chưa.
– Thế thì đừng có đến đó mà làm gì. Bây giờ nó đúng là một cái hang thối tha cứt đái. Nhưng hồi đó thì khác. Hồi đó nó thực sự là một thành phố. Có một dòng sông chảy qua, là sông Danube đấy, với những cây cầu bắc ngang và tất cả những tòa nhà tuyệt đẹp. Cô có biết đó là hai thành phố khác biệt nhau, Buda và Pest, hay không? Ờ, rồi tôi trở thành một thằng bé ở Pest. Tôi bắt đầu trở thành dân của cái thành phố đó xuất phát từ những điều rắc rối và thôi không là người ở đó cũng vì những điều rắc rối. Rắc rối. Cô có hiểu không?
– Vâng, cháu hiểu ạ.
Bác tôi để ý thấy tôi hơi mỉm cười và đã cảm thấy bớt sợ hãi. Ông cho rằng có hai loại người. Một loại dễ bực mình, nóng tính giống như lửa diêm bén vào cỏ khô và bùng cháy nhanh, sáng, dữ dội nhưng chỉ một chốc là xong: đó là ông. Loại người thứ hai có ngọn lửa giận dữ dồn nén dưới đám tro tàn cháy âm ỉ suốt năm này qua năm khác: đó là bố tôi. Ông hi vọng tôi giống ông, nóng bừng mãnh liệt nhưng chóng nguội. Ông đã đúng. Tính cách con người tôi chính xác là như vậy trong khi bố tôi thì không bao giờ tha thứ, không bao giờ quên và luôn luôn giữ sự oán hận trong lòng.
* * *
Rồi bác tôi cứ tiếp tục câu chuyện đáng quan tâm của ông và tôi phải thừa nhận rằng mình không thích con người cực kỳ xấu xa này nhưng tôi vẫn miễn cưỡng bị cuốn mỗi lúc một sâu hơn vào thế giới của ông. Với tôi, nó giống như một bộ phim hay một cuốn tiểu thuyết mà ở đó tôi đang dần bị choán hết tâm trí. Bác tôi là một người kể chuyện kỳ lạ. Ông có thể khiến từng khoảnh khắc của quá khứ trở nên sống động, ông có cái tài ăn nói hoạt ngôn bẻm mép của một kẻ dụ dỗ. Tôi có thể mường tượng ra bằng con mắt bên trong mình cảnh ông đặt chân đến nhà ga tàu hỏa thông qua miêu tả của ông và hình dung ra tất cả những người mà ông trông thấy - chỉ riêng tại giáo đường Do Thái vào những dịp lễ lớn, ông đã trông thấy không biết cơ man nào là người và tất cả họ đều đi lên, đi xuống như thể đang có việc gấp gáp cần phải giải quyết, nhảy lên, nhảy xuống xe điện và hối hả chạy khắp nơi. Toàn bộ thành phố đều trở nên sống động như thật! Bà nội tôi đang bồng bố tôi trên tay vì ông đã ngủ lúc ở trên tàu và khi bà cố gắng đánh thức ông dậy, ông bắt đầu gào khóc nên bà phải bồng ông. Bố tôi ngủ lại ngay tức thì. Vì vậy, ông không bao giờ được trông thấy những gì mà ông bác Sándor của tôi nhìn thấy ngay trong cái giờ đầu tiên họ đặt chân đến Budapest.
– Cô có chắc là cái máy này vẫn đang chạy tốt đấy chứ? - bác Sándor hỏi sau một lúc hồi tưởng thật lâu về cuộc đời mình trước đây.
– Bác có muốn cháu cho chạy lại băng kiểm tra không?
– Ừ, chạy lại đi cho chắc ăn.
Tôi nhấn vào cái nút tua lại và để cho băng chạy trở về trước trong khoảng một, hai giây, “…với những cây cầu bắc ngang và tất cả…”
– Nó chạy tốt lắm ạ, - tôi nói. - Thế bác sống ở đâu và làm sao bố của bác tìm được một căn hộ và một công việc để sống?
Chúng tôi còn 40 phút nữa. Vì vậy, có lẽ tôi sẽ cố moi tất cả càng nhiều thông tin càng tốt trước khi tôi rời khỏi đây. Tôi nghĩ khi tôi trở về nhà, tôi sẽ ghi chú lại một số điều, chỉ để dành riêng cho mình, không vì một lý do nào khác.
– À, điều này thì tôi chưa bao giờ khám phá ra được. Tôi chỉ biết là ông viết thư, viết rất nhiều thư. Một số thư ông nhận được hồi âm và một số thư thì không có câu trả lời nhưng rốt cục thì ông cũng có được một công việc ở một công ty sản xuất mũ. Ông làm một chân thư ký kiêm kế toán, cô biết rồi đấy, và ông cũng phụ trách cả phòng xuất khẩu vì ông nói được tiếng Nga.
– Sản xuất loại mũ nào vậy ạ? Mũ cho phụ nữ à?
– Không, không, không. Mũ phớt mềm, thấp. Thời đó, đàn ông người nào cũng có một chiếc. Chúng là những chiếc mũ chất lượng hảo hạng và người ta xuất khẩu chúng đi khắp mọi nơi. Và thời gian ấy thì cái công ty đó nhận bố tôi vào làm việc.
Cô nên nhớ rằng lúc này là vào năm 1924. Người ta nghĩ rằng họ sẽ vẫn xuất khẩu được mũ phớt sang Nga nhưng họ không biết một điều là, trước hết, người Nga không muốn đội một loại mũ nào, ngoại trừ thứ mà mấy tay công nhân hay đội, mũ lưỡi trai ấy. Thứ hai, ngay cả khi họ muốn mua một chiếc mũ phớt, họ cũng sẽ chọn cái sản xuất tại Moskva chứ không phải là mũ do tư bản làm ra. Bố tôi đã giải thích tất cả điều này cho công ty sau khi ông chẳng tìm được khách hàng nào ở Liên Xô để mà bán mũ. Và bây giờ thì ông làm quen rất nhanh với nhiều ngôn ngữ, nhân tiện phải nói rằng ở điểm này thì ông với tôi đều giống nhau. Ông học tiếng Đức, đêm nào cũng học qua sách và đi đến các quán cà phê để luyện nghe vì thời đó có nhiều người nói tiếng Đức. Chẳng bao lâu sau, bố tôi thành lập phòng xuất khẩu sang thị trường Đức. Lúc này, ông đích thực trông giống một người Hungary, chẳng râu ria, chẳng để gì cả. Công ty đặt ở quận Erzsébetváros, quận thứ bảy của Budapest, và đó cũng là nơi mà chúng tôi có một căn hộ trong một tòa nhà cũng không đến nỗi là tồi tàn. Đây là nơi mà tôi bắt đầu cuộc sống mới với tư cách là một thằng bé thành thị.
Bác tôi kể tiếp cho tôi nghe ông buộc phải ngưng cách nói chuyện như một đứa trẻ nông thôn như thế nào. “Tôi muốn trở thành một người Hungary, giống như tất cả những người khác xung quanh. Điều này vô cùng quan trọng đối với tôi, trở thành một người Hungary chứ không phải một người Do Thái. Tôi cần phải nói ngôn ngữ của họ, không phải tiếng Đức cổ của người Do Thái ở Trung và Đông Âu, thứ tiếng mà chúng tôi đã nói thuở còn bé. Và bố tôi cũng không thích nói thứ tiếng cũ vì ông không còn thích thú với chuyện là người Do Thái nữa. Ban ngày, ở công ty, ông bán mũ. Đêm về, ông đọc đủ các loại sách tôn giáo và ông thích đạo Phật nhất, ông nói các tín đồ đạo Phật là những người tử tế, trầm lặng, hòa nhã, không bao giờ làm hại đến ai. Dĩ nhiên, mẹ tôi chẳng mảy may buồn để tâm đến điều này. Bà giữ tất cả những giáo lý Do Thái giống như bà vẫn luôn theo từ trước đến nay.
– Thế còn em của bác thì sao, ông Ervin ấy? Ông ấy đã thích nghi với cuộc sống mới như thế nào?
– Chậc, ngay từ đầu nó đã là một con gà công nghiệp ở thành thị rồi, vì nó là cái thằng bám váy mẹ, mà một thằng bám váy mẹ thì không thể nào sống nổi ở làng quê. Nên nhớ, nó lúc nào cũng là một đứa làm người ta khó chịu. Nó đúng là một thằng nhãi tai ương! Mới chỉ nhớ lại về nó mà tôi đã muốn cười phá lên rồi. Tôi nhớ là khi nó bắt đầu đi học, mẹ tôi phải đứng ở ngoài cửa lớp trong khi nó gào khóc với bà rằng đừng bỏ nó, đừng bỏ một em bé còn nhỏ. Nhưng có một điều khôi hài là, cô biết không, tôi - một thằng từng chạy lông nhông khắp các cánh đồng, nhảy nhót suốt cả ngày dưới những giàn nho và tót tới những chuồng ngựa để nhìn ngắm lũ súc vật này - hóa ra lại thích đi học khi đến Budapest. Tôi không phải là một đứa ngu dốt. Tôi đứng đầu lớp trong nhiều môn học, kể cả môn toán, thứ mà lúc nào đối với tôi cũng dễ như bỡn. Các con số cứ nhảy múa trong đầu tôi giống như những vũ công. Nếu tôi nhắm mắt lại, tôi có thể thấy chúng đang nắm tay nhau và sau đó, khi chúng đã nắm tay nhau xong rồi, chúng biến thành những con số khác. Tôi chưa bao giờ hiểu được rằng chỉ có tôi mới thấy được điều này trong đầu. Tôi cứ ngỡ là ai cũng vậy nhưng có nhiều thằng con trai khác lại rất chậm với mấy con số và ta luôn luôn có thể lừa gạt được chúng, giống như cái trò bịp với ba cái cốc và quân xúc xắc. Còn Ervin ấy à, nó là một đứa hoàn toàn khác. Nó học hành ở trường không ra sao nhưng tay chân nó thì lại rất khéo. Lúc nào tay nó cũng bận táy máy một thứ gì đó, lúc nào cũng sơn cũng vẽ.
– Vẽ ư?
– Phải. Quả là một điều ngạc nhiên lớn, phải không?
– Cháu không biết có chuyện này. Bác không kể về ông ấy có vẻ như là một nghệ sĩ.
– Tôi không nói nó là một nghệ sĩ. Tôi chỉ nói nó hay vẽ tranh. Nhưng nói vậy không có nghĩa là tranh của nó đẹp.
– Thế chúng trông thế nào ạ?
– Ờ thì, cô biết không, nó lấy ra một cái bát đựng hoa quả vào đó rồi vẽ một bức tranh. Kiểu gì đi chăng nữa thì nó cũng vẽ như thể muốn hoa quả trong bức tranh của nó giống như hoa quả bày trong cái bát nhiều hơn là giống với hoa quả thật ở ngoài đời; như thể nó đang cạnh tranh với thiên nhiên. Đây cũng là điều mà tôi đã nói với nó và nó liền nổi đóa lên với tôi. Mẹ tôi cũng giận vì bà bảo tại sao tôi có thể đối xử không tốt với đứa em trai nhỏ bé của mình như vậy? Lẽ ra ta nên khuyến khích nó mới phải. Đó là mẹ tôi, bà là một phụ nữ vô cùng nhẹ nhàng, mềm mỏng theo kiểu những bà mẹ. À mà mấy giờ rồi nhỉ?
– 11 giờ rưỡi.
– Thôi được rồi. Dừng ở đây thôi. Cô nên bắt đầu đánh máy lại đi. Cô cần phải rời khỏi đây lúc một giờ chiều cho nên phải nhanh lên thôi. Tôi sắp sửa có khách rồi.
* * *
Tôi ngồi xuống cái bàn trông ra ngoài phố. Lũ trẻ con đang chơi đùa, lũ chó đang sủa ăng ẳng, lũ mèo đang lim dim ngủ còn một con chuột và một người chuyên đi mua đồ đồng nát đánh một chiếc xe ngựa thồ chạy ngang qua.
Bác tôi đi vào phòng ngủ nằm. Tôi nghĩ ông thấy buồn ngủ. Tôi bắt đầu nhiệm vụ nặng nề mệt mỏi là đánh lại những gì đã ghi vào băng ra máy đánh chữ, mỗi lần nửa câu, tua lại băng từng centimet một. Giọng bác tôi vang khắp căn hộ và cũng cái giọng ấy đang ngáy nhè nhẹ, lọt ra ngoài cánh cửa phòng ngủ. Nghe lần đầu thật là thú vị nhưng khi nghe lại lần nữa, tôi bắt đầu chú ý cách ông tạo câu. Và rồi, cái giọng đầy âm sắc yết hầu làm tôi thấy chói tai khó chịu vào lần đầu tiên nghe thấy ấy bắt đầu đi vào trong đầu tôi. Tôi có thể nghe thấy một bộ óc đang tái tạo quá khứ từ chất liệu bí ẩn của nó.
Nhưng nó cũng đang thấm mệt. Khi bác tôi ngủ dậy, tôi nói với ông qua cánh cửa phòng ngủ. “Một giờ đúng rồi. Cháu xong việc rồi. Cháu về đây”.
– Đợi đã - ông nói. - Chờ tôi chút xíu. Có một người mà tôi muốn cô gặp.
Bác tôi vội vàng mặc quần áo và bước ra khỏi phòng ngủ trong bộ comple xanh da trời, chiếc áo sơ mi màu hồng và cà vạt tơ tằm màu tía. Tóc ông chải bóng mượt ngược ra sau còn da thì thơm mùi nước hoa đắt tiền. Tôi chưa từng biết một người đàn ông có mùi thơm nào khác ngoài mùi xà phòng tắm. Da của Alexander có mùi của chính anh và mùi của sợi vải quần áo, còn miệng thì thơm mùi kem đánh răng.
– Tôi trông được chứ? - ông hỏi.
– Rất đẹp ạ.
– Tôi đang đợi một quý cô. Đàn ông lúc nào cũng cần phải ăn mặc bảnh bao để tháp tùng phụ nữ. Họ không muốn thể hiện sự mất tôn trọng đối với phụ nữ mà. Thôi nhanh lên nào.
– Vậy là cuối cùng bác cũng đã thực sự hiểu tôn trọng là thế nào rồi - tôi nói lúc tôi và ông đi xuống cầu thang, ngang qua những bức tranh vẽ cảnh săn bắn.
– Chuyện đó khác.
– Thế bác sẽ gặp cô ấy ở đâu?
– Cô ấy đang đợi ở hành lang. Rồi cô sẽ gặp cô ấy. Cô ấy lúc nào cũng dậy sớm, từ lúc tinh mơ. Eunice đúng là người như thế đó. Đây, cô ấy đây rồi.
– Eunice này - bác tôi giới thiệu - anh muốn em gặp Miranda, người mà anh đã kể cho em nghe rồi đấy, người đang giúp anh viết tất cả mọi thứ ra, tất tần tật mọi thứ, như ta đã bàn với nhau ấy.
– Rất vui được gặp cô - Eunice nói và chìa ra một bàn tay đeo găng tay da màu xanh da trời.
Đây là lần đầu tiên tôi gặp người đàn bà của bác tôi và cảm thấy cái bàn tay có xương nhỏ nhắn, thanh tú nằm trong tay tôi giống như một cái muỗng bạc. Khi đó, Eunice là một phụ nữ xinh đẹp và thanh lịch hơn bất kỳ một người nào mà tôi đã từng biết. Bà ấy mặc một bộ comple xanh nước biển đi cùng với một chiếc áo kiểu màu trắng, mang đôi găng tay xanh nước biển có ba chiếc cúc ở cổ tay. Tóc của Eunice trông như một cái mũ óng mượt với những gợn xoăn màu đen pha xanh nước biển. Bên dưới mái tóc đó là một đôi mắt thẫm nhìn tôi như thể đang chụp hình để chuẩn bị phóng to ra rồi sau đó dùng kính lúp mà săm soi kiểm tra.
– Cô nghe thấy chứ? - ông bác Sándor hỏi tôi lúc Eunice chào hỏi. - Cô có biết cô ấy đến từ đâu không?
– Từ xứ Wales ạ?
– Chính xác, từ Wales đấy, giống như nữ danh ca Shirley Basey. Vịnh Tiger[38]. Cùng một nơi. Thế cô nghĩ thế nào về nơi đó? - Ông hỏi và đặt một nụ hôn lên khuôn mặt Eunice. Nhờ đó, tôi biết bà ấy là bạn đặc biệt của ông, bạn gái của ông, rất khác với cô ả gái điếm non choẹt mà ông đã dẫn tới căn hộ của gia đình tôi khi xưa.
– Anh có một món quà cho em - ông nói với cô bạn gái đặc biệt của mình. - Anh sẽ cho em thấy khi chúng mình đến đó.
Ánh nắng mặt trời chiếu lên mái tóc của Eunice. Trông bà ấy giống như một món đồ trang trí bằng sơn mài đen. Họ cùng đi xuống phố với nhau, tay trong tay, giữa ánh nắng mặt trời mùa xuân ấm áp.
Trong lúc tôi trông theo bác Sándor và Eunice cùng nhau đi xuống phố thì giọng nói của anh chàng đã gõ cửa nhà bác Sándor vang lên: “Này, cô em là ai vậy?”
Tôi quay sang. Anh ta vừa mới ra khỏi căn hộ của mình và đang ngồi ở bậc thềm nhà, cửa vẫn để mở ở sau lưng. Ấn tượng đầu tiên của tôi về anh chàng này là khuôn mặt góc cạnh cùng đôi mắt xanh lơ, mái tóc đen cắt hết sức ngắn hất ngược từ trán ra sau, mấy ngón tay đang kẹp điếu thuốc rê đưa lên môi hút và cái miệng đỏ đang nở một nụ cười phóng đãng. Một chàng trai 21 tuổi mang phong thái tự tin gợi tình, tự mãn và sắc sảo của một người biết rõ rằng anh ta luôn luôn phải để ý thể hiện mình là số một, vì sẽ chẳng ai khác làm điều đó cho anh ta cả.
Tôi không biết phải trả lời câu hỏi của anh ta thế nào. Cần phải suy nghĩ một chút mà tôi thì giật mình vì bị hỏi quá đường đột nên không biết cách nào để giới thiệu về mình.
– Trong khi đang lục tìm trí nhớ cho tên mình, cô em có muốn lại đây ngồi chơi chút không?
– Ngồi đâu cơ?
– Ở đây này, ngồi luôn chỗ cái bậc thềm này nếu như cô em không chê nó quá cứng cho cái mông của mình. Dù sao thì tôi trông cô em mông má cũng ngon lành đấy - Anh ta bật cười. Tiếng cười ngắn và sắc, chẳng có chút vui thú hay hài hước nào.
Thế nhưng, sau hàng giờ ở căn phòng bên trên của ông bác - hàng giờ chìm trong đám bụi mờ quá khứ của dòng họ Kovacs, những ký ức hoen ố xưa cũ, những tấm ảnh đã phai nhạt, ánh mặt trời băng giá - tôi cũng bật cười theo. Và dĩ nhiên, không phải là tôi cũng không có một động cơ thầm kín. Tôi muốn nghe từ chính miệng của một trong những người thuê nhà nhận xét người đàn ông mang tên Sándor bây giờ là người thế nào. Đây là người đang có chuyện bất bình, than phiền về ông bác của tôi. Vì vậy, tôi ngồi xuống.
– Cô em có muốn làm một điếu rê không? - anh ta vừa hỏi vừa chìa cho tôi một lon sợi thuốc lá. - Nếu cô em thích, tôi có thể quấn cho cô em một điếu.
– Ồ không, cảm ơn anh. Tôi có thuốc lá của mình rồi. Thế anh sống ở đây lâu chưa?
– Vài tuần.
– Anh thấy có được không?
– Không, chẳng được tí nào. Lão già đó đúng là đồ vô lương tâm. Lão ta có thể ngửi được mùi của tờ một bảng Anh từ cách đó cả ba, bốn mét, - Anh ta vê vê hai ngón tay vào nhau như thể đang sờ tờ tiền. Một cử chỉ thể hiện thái độ bất mãn, khó chịu. - Thế cô em đang làm gì trong căn hộ của lão ấy đấy?
– Tôi làm việc cho ông ấy.
– Làm gì?
– Làm công việc giấy tờ ấy mà, - tôi trả lời.
– Ra thế.
Tôi châm một điếu thuốc lá và chúng tôi ngồi vài phút, lặng im hút trong khi người ta đi qua đi lại trên phố. Như thể các lỗ chân lông của tôi đã ngấm đầy ông bác, tôi cố gắng tống ông ấy ra bằng mỗi hơi thở. Khi tôi về đến nhà, tôi sẽ tắm rửa, ngâm mình trong bồn và nằm mơ màng giữa những con vịt vàng trên tấm rèm che bồn tắm, cố gắng nghĩ về những gì, nếu có bất kỳ thứ gì mà tương lai có thể mang lại cho tôi. Một con mèo đen ngồi sát xuống đất và tè vào một cái cây bên kia đường. Xong việc, nó quay sang gầm gừ vào chân một người qua đường.
– Cô em có muốn xem cái cửa sổ của tôi không? - anh chàng thuê nhà đề nghị. Điếu thuốc rê của anh ta đã cháy hết nên anh ta cẩn thận vứt nó vào chiếc lon đựng sợi thuốc của mình. - Thôi nào tôi không cắn cô em đâu mà sợ, dù tôi cũng thích cắn lắm đấy, - Anh ta lại cười, tiếng cười sắc và thô cứng, để lộ ra hàm răng nhọn nhỏ.
Tôi tò mò muốn biết ông bác Sándor của mình đã cố gắng xoay xở nhồi nhét nhiều căn hộ vào ngôi nhà này như thế nào. Thế nên tôi đứng dậy. “Đi nào, chỉ cho tôi xem”.
Cánh cửa căn hộ anh chàng thuê nhà ở nằm ở sau hành lang. Một căn phòng mà ban đầu được xây rộng rãi, đẹp đẽ và hết sức cân đối hài hòa với trần nhà cao và những đường gờ thanh thoát, nhưng sau đó bị băm thành vài miếng nhỏ giống như miếng thịt của người đồ tể, với một phần ba của cái mà trước đây từng là một cửa sổ có khung kính trượt rõ ràng là nhìn ra mảnh vườn.
– Lạnh buốt phải không? - anh ta hỏi tôi. - Tôi đi đặt ấm nước đây. Rồi cô em có thể thấy điều gì đã xảy ra: kính phía ô cửa trên cùng có một đường nứt chéo. Tôi cứ nghĩ không biết điều gì sẽ xảy ra nếu ta đẩy nó bằng một ngón tay nhỉ? Rồi nó vỡ ra. Nhìn này, chỗ vỡ ấy đấy.
Mảnh vườn tối tăm và um tùm cỏ dại, phủ đầy những cây con do hạt tự phát tán mọc lên và những cành cây bị gãy rụng qua những trận bão vào mùa đông. Chẳng hề có thảm cỏ hay lối đi. Trên mặt đất hiện lên một khoảnh hình tam giác rõ ràng bị ép mạnh xuống đám lá tầm ma, bồ công anh và chút chít. Khoảnh xanh phản chiếu ánh sáng có ba góc kỳ dị hắt ngược ánh sáng chói lóa lên bầu trời đang thả chút mây trên bề mặt của nó. Còn khung cửa sổ thì trống một lỗ hình tam giác mà từ đó, những cơn gió nhẹ đầu hè đã thổi qua.
Căn phòng chẳng bài trí gì nhiều: một chiếc giường đơn, một cái bàn có tráng men ở trên mặt với một cái bếp hâm và một chiếc ấm điện, một chiếc ghế bành cứng, nhỏ bọc vải nhung lông màu hạt dẻ và có hai tay ghế nhuộm màu gụ, một cái tủ com mốt bằng gỗ dán bày một dãy năm, sáu cuốn sách, toàn là truyện kinh dị. Chen giữa cái giường và cửa sổ là một cái bể thủy tinh nhỏ trong đó thả vài con cá vàng nhiệt đới màu sắc óng ánh như huỳnh quang.
– Mấy thứ đó là gì vậy?
– Dĩ nhiên là cá của tôi rồi. Cô em có muốn lại đây cho chúng ăn không?
– Ồ, không. Mà tại sao anh lại đem cá đến đây vậy? Chỗ này còn khó mà đủ chỗ để dang tay ra nữa là.
– Tôi có đem chúng theo tới đâu. Ở nhà, tôi còn có nhiều hơn nữa kìa. Nhưng cái bể cá đó lớn quá so với căn phòng này nên tôi phải bắt đầu nuôi lại đám khác. Đấy là một sở thích. Tôi thích ngắm nhìn chúng. Chúng đẹp và im lặng nữa, không hề om sòm, ầm ĩ gì cả.
– Thế còn mấy con kia thì sao?
– Có người đang chăm sóc chúng. Chúng sống tốt. Nhưng mà cái cửa sổ của tôi thì sao? Cô em có thể nói giùm lão già ấy sửa cho tôi chứ?
– Tôi chẳng có chút ảnh hưởng gì đến ông ấy cả.
Chúng tôi đứng sát vào nhau gần cái bể cá. Tôi có thể cảm nhận thấy hơi thở của anh ta phả vào cổ mình. “Tôi nghĩ là anh chàng cá xanh kia hơi thích cô rồi đấy. Nhìn xem cái cách chàng ta bơi vòng quanh vòng quanh theo hình tròn kìa. Cô em đã khiến chàng ta trở về đúng với trạng thái của mình. Chàng ta chưa quen với khách nữ mà. Thật sự cô em là người đầu tiên mà chàng ta nhìn thấy ngoài tôi kể từ khi chàng ta rời cửa hàng bán cá cảnh đấy.
Không gian chật chội của căn phòng nhỏ bé, sự hiện diện thể xác của anh ta sát bên cạnh tôi, hình ảnh đôi cánh tay có những sợi lông màu đen và bàn tay có những ngón dài đang chỉ vào chiếc bể cá, cái mùi tổng hợp xạ, chanh và da thuộc kỳ lạ, gây kích thích khuấy động của anh ta làm cho tôi xáo trộn. Hơi thở của tôi tưởng như bị kẹt chặt trong lồng ngực.
– Cô em đã nghỉ chưa? - anh ta hỏi - Cô em vẫn chưa uống tí trà nào hết.
– Tôi phải đi về thôi.
– Tôi cũng chuẩn bị đi ra ngoài đây. Tôi sẽ đi bộ cùng cô em nếu cô em thích.
Tôi không thể ngăn anh ta được. Đây là một đất nước tự do và bất cứ ai cũng có quyền đi xuống phố.
* * *
Chúng tôi bắt đầu thả bộ dọc phố Parkway tới ga tàu điện ngầm Camden, đi ngang qua cửa hàng bán thú cảnh nơi anh ta đã mua mấy con cá vàng. Những chiếc lồng treo trên khung cửa sổ đầy những vật nuôi bị nhốt.
– Nếu có thể được, cô em thích mình có con gì, vẹt hay là khỉ? - anh ta hỏi tôi.
Lũ vẹt sặc sỡ đủ màu sắc và có những con mắt bé tí vốn dĩ di truyền từ thủy tổ của chúng. Tôi không thấy có con khỉ nào ở đó nhưng những bàn tay của chúng làm tôi thấy phiền.
– Tôi thích có một con ngỗng, - tôi trả lời - một con ngỗng Canada.
– Đó cũng là chim nhưng không phải là chim vẹt.
– Đúng là không phải chim vẹt.
– Còn tôi, tôi sẽ chọn một con khỉ. Tôi sẽ để nó ngủ trên giường mình. Chắc chắn đó phải là một con khỉ cái rồi. Có ai muốn “của quý” của một con khỉ chọc vào người mình giữa đêm đâu. Nhưng với cô nàng khỉ kia thì cũng không có trò khỉ gì đâu, chỉ là ôm ấp, vuốt ve thôi.
– Có vẻ như anh đang cần có bạn gái đấy nhỉ - tôi chòng ghẹo. Câu chuyện tầm phào của anh ta đang làm cho tôi cảm thấy dịu bớt căng thẳng sau hàng giờ phiền nhiễu với ông bác của mình.
– Tôi đã có một cô bạn gái - anh ta nói, gương mặt có vẻ như hơi ửng đỏ.
– Thế cô ấy sống ở đâu? - tôi hỏi.
– Cô ấy đã trở về nhà, nơi tôi ra đi.
– Thế cô ấy có định quay lại London để ở cùng anh không?
– Tôi không nghĩ vậy.
Dường như đó là một chuyện bịa không ổn, thậm chí tôi tự hỏi liệu cái cô bạn gái ấy của anh ta có tồn tại hay không. “Thế thì có lẽ cô ấy chẳng còn là bạn gái của anh nữa rồi” - tôi nói.
– Không, cô ấy vẫn là bạn gái của tôi đấy chứ. Thế còn tên cô em là gì?
– Miranda. Còn anh?
– Tôi là Claude. Được rồi, cứ cười đi, ai cũng thế mà. Mẹ tôi lấy ý tưởng đặt cái tên này từ phim ảnh. Có một ông nghệ sĩ nào đó đóng vai một người Pháp trong một bộ phim mà bà xem nhưng ngay cả ông ấy không phải là người Pháp. Chỉ là do mẹ tôi tưởng vậy mà thôi.
– Chuyện hơi buồn cười đấy nhỉ. Chẳng nhẽ anh không có một cái tên lót mà anh có thể sử dụng được à?
– Có chứ, Louis. Nói tắt của Louise, là cái tên người ta gọi tôi ở trường. Cô em thấy đấy, cái tên của tôi bị kẹt chặt ở cả hai đầu. Tôi bị kẹt với cái tên Claude. Ta phải học cách sống chung với nó.
Claude cao hơn tôi và anh ta bước nhanh, vai chùng xuống, hai tay đút trong túi quần jeans như thể đầu anh ta đang rẽ không khí, đẩy nó ra đằng sau để lướt về phía trước. Cái tên của anh chàng này thể hiện đúng khuôn mặt của anh ta và anh ta thách thức bất cứ ai tiếp xúc với nó, như thể một người xấu xí học cách sống với cơ thể của mình, biến nó thành một thứ gì đó hấp dẫn và thú vị.
Chúng tôi đi xuống thang cuốn ở ga tàu điện ngầm Camden và chờ ở sân ga. “Tôi sẽ bắt đầu làm ở đây vào tuần tới, - Claude vừa nói vừa châm điếu thuốc nhỏ của mình - “với tư cách là một người gác tàu.”
Lũ chuột chạy lên chạy xuống đường ray. Tàu tới cùng với một luồng không khí lạnh kéo dọc theo đường hầm. Âm thanh ồn ào tràn ngập không gian nhỏ hẹp. Chúng tôi lại đi trở lên phố Bond lúc trời trưa nắng ấm tuyệt đẹp và gió nhè nhẹ thổi suốt. Hai bên vỉa hè các con đường đẩy ta về phía trước giống như những động mạch đẩy máu lưu thông không ngừng.
“Chuyện cái cửa sổ của tôi” - Claude nói - “Cô em thấy…”. Nhưng tôi đã trôi xa khỏi chuyện đó và chìm vào suy nghĩ riêng tư của mình, nhớ lại những gì ông bác Sándor đã kể với tôi: quãng đời thơ ấu của hai anh em lúc ở ngôi làng, việc dọn đến Budapest, chuyện bố tôi khéo léo về đôi tay còn bác tôi thì giỏi về cái đầu. Tôi thậm chí không biết cái thành phố đó trông ra sao. Tôi không thấy tò mò về cái nơi mà bố mẹ tôi đã rời bỏ để đến đây, ngoại trừ một chuyện mà tôi biết là nó lạnh, tối tăm, khắc nghiệt và xấu xa tồi tệ. Ở đó có những quảng trường và hầm rượu, là nơi người ta bắn giết người khác. Trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh, người ta ẩn nấp ở khắp mọi nơi, bất kỳ nơi nào mà họ có thể tìm thấy chỗ giấu mình. Năm 1956, người ta nổi dậy chống lại Liên Xô và đã bị đè bẹp. Tôi không thể hình dung ra cảnh đó và cho đến bây giờ cũng không bao giờ muốn nghĩ đến điều đó.
Rồi thì, tôi phát hiện ra tôi và Claude đã lạc nhau trong đám đông vì tôi chỉ còn đi một mình trên vỉa hè. Thế là tôi quay ngược lên phố Harley dù tôi nghĩ rằng mình đã bắt gặp ánh mắt thoáng qua của anh ta từ trong một quán rượu nhìn ra, dõi theo tôi khi tôi đang bước vội vã dọc theo con phố.
Chú thích:
[37] Bela Kuhn là một nhà Cộng sản Hungary lãnh đạo cuộc Cách mạng Bônsêvic dẫn đến việc hình thành nhà nước Cộng hòa Xô viết Hungary sau Thế chiến thứ nhất. Tuy nhiên, nhà nước này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn từ 21.3 đến 6.8.1919.
[38] Vịnh Tiger - Tiger Bay - là một vùng thuộc thành phố Cardiff, thủ phủ của xứ Wales thuộc Anh.