Chương 11
Sốc và bối rối là tâm trạng của mọi người ở Benson Court khi tôi trở về sau tuần trăng mật trong hình ảnh một góa phụ. Cư dân của chung cư này cảm thấy hẳn đó là lỗi của họ vì đã giới thiệu chúng tôi đến khách sạn Negresco để rồi ký vào một bản án tử hình, giống như cái cách mà bà vũ công ballet già diễn tả. Bà ấy bắt chéo hai tay qua ngực một cách điệu bộ như đóng kịch và nghiêng đầu về một bên khi chặn tôi ở cầu thang lên xuống để nói lời an ủi chia buồn với tôi.
Tôi đến gặp Gilbert. “Em đã đau khổ dằn vặt lắm phải không, người yêu tội nghiệp?” - anh ta hỏi. “Thôi, đến đây uống chút gì đi.” Bệ lò sưởi đầy những thư mời đi dự tiệc còn sàn nhà thì bày đầy sách đọc dở.
Tôi kể với anh ta về nỗ lực tìm việc làm của mình và về tất cả hồ sơ mà tôi đã gửi đi nhưng Gilbert nói:
– Ôi dào, hồ sơ hả, bé yêu, chẳng nhẽ em không nhận thấy là xin việc không phải theo cách như vậy sao?
– Thế thì phải theo cách nào?
– Cô bé ngốc nghếch ơi, phải có quan hệ quen biết.
– Nhưng em không có mối quan hệ quen biết nào hết.
– Có, em có đấy, nhiều nữa là khác. Bắt đầu từ anh đây này. Thế em có muốn anh xem thử có việc gì ở báo không?
– Một công việc ở tờ Times à?
– Có thể anh không xin được một công việc chính thức hẳn hoi nhưng hẳn là anh sẽ tìm được một việc gì đó tự do cho em làm. Anh dám nói chắc về chuyện này. Thế em nghĩ sao về việc phê bình sách? Em có nghĩ việc đó hợp với mình không?
Tôi có thể làm một nhà phê bình sách, một người phê bình văn học cho báo chí, và tôi sẽ đi đến các bữa tiệc, gặp gỡ những con người thú vị và giao lưu kết bạn rồi kiếm được một căn hộ cho riêng mình ở đâu đó! Đột nhiên trong tôi lại dâng lên một niềm say mê đọc sách trở lại, một nhu cầu được đắm chìm sâu trong sự nuôi dưỡng của sách. Nhưng tôi có cần phải làm việc cho tờ Times để được giao một cuốn sách mà bình luận? Liệu người ta có giao cho tôi một cuốn sách nếu tôi không đóng bảo hiểm và thuế, nếu tôi có mã số bảo hiểm và mã số thuế khác? Bố tôi có số bảo hiểm và thuế cùng những tấm thẻ. Ông chủ Morris Axelrod của ông đã làm thẻ cho ông. Gilbert giải thích với tôi rằng không cần những thứ đó vì tôi sẽ làm công việc của một người làm nghề tự do mà tự do thì bao trùm cả cái thế giới này. Vì vậy, nghề tự do là để dành cho tôi.
Với một vẻ biết ơn khiêm nhường, tôi đồng ý để Gilbert lấy ra những bức tranh mà anh ta đã vẽ tôi thuở tôi 17 tuổi. Chúng tôi cùng ngắm tranh và anh ta hỏi liệu tôi có còn trông giống như xưa khi tôi trút bỏ quần áo. Tôi không chắc chắn. Cô gái trong các bức tranh có một thân hình trông giống như một thân cây đang đâm chồi nảy lộc. Cô ấy đang nảy nở còn đôi chân của tôi giờ đây đã có nhiều nốt chai sần và những vết sẹo mờ; đôi mắt dường như trông đã khác hoàn toàn. Tôi nghĩ “chúng ta không nên nói về những gì mà thời gian đã in dấu lên ta có được không?”, nhưng Gilbert là người thân mật và là tuýp người mà tôi biết rằng không thể làm hại tôi hay làm tôi tổn thương. Bộ ngực nhợt nhạt của anh ta sẽ áp vào ngực tôi ấm nóng. Và thế là chúng tôi lên giường nhưng phần lớn thời gian, tôi cố gắng nghĩ về một điều khác. Giữa chừng, chiếc đồng hồ đứng to của Gilbert gõ 11 giờ. Tôi nằm ở đó, trên giường, thầm đếm trong đầu từng tiếng chuông. Xa xa, chiếc đồng hồ Big Ben cũng hòa nhịp điểm theo. Tiếng chuông rè rè của nó vang vọng khắp thành phố.
Ngày hôm sau, Gilbert về nhà, đem theo một cuốn sách cho tôi đọc phê bình. Đó là một cuốn tiểu thuyết viết về một phụ nữ trẻ tật nguyền phải lòng những anh chàng cao to, khỏe mạnh nhưng không quan tâm gì đến cô ta. “Thứ này có vẻ như hơi rác rưởi” - Gilbert nói - “nhưng rõ ràng bà ta là nhà văn nổi tiếng và thiên hạ sẽ chấm nó là hay. Em có muốn tạt qua đây tối nay uống chút gì không?”
– Không, cảm ơn anh. Em nghĩ em sẽ bắt đầu làm việc với cuốn này.
– Thôi, tùy em.
Tôi nằm trên giường đọc cuốn tiểu thuyết mà theo tôi thấy là hết sức ngớ ngẩn. Tôi dồn hết tất cả mọi sự khắc nghiệt của một người lần đầu tiên bình luận sách để cố gắng cho điểm bà nhà văn. Với tôi, không có chuyện e ngại trước danh tiếng của tác giả vì trong suy nghĩ đầy kiêu hãnh của mình, tôi không thể hiểu được tại sao một người mà theo như những dòng giới thiệu về tiểu sử tác giả là đã tốt nghiệp hạng ưu cả hai trường danh tiếng - cao đẳng Somerville và đại học Oxford - lại có thể hạ mình viết ra một thứ ngốc nghếch như thế này, sau khi bà ta đã đọc những tác giả mẫu mực như Virginia Woolf và George Eliot. Tôi chắc chắn sẽ không bao giờ viết tiểu thuyết, một thứ được xếp vào hàng tuyệt đỉnh trong văn chương. Dứt khoát sẽ có những người mà những yêu cầu đòi hỏi của nghệ thuật vĩ đại chỉ làm lộ ra những giới hạn về trí tuệ của họ.
Chưa từng có ai viết một bài phê bình chua cay đến thế về những cái dở của một cuốn tiểu thuyết. Chưa từng có ai bảo vệ văn chương một cách tôn kính như vậy từ góc độ người đang thực hành nó. Đây là một sự khởi đầu, khỏi đầu trong lĩnh vực phê bình văn học mà tôi hi vọng có thể dần dần biến tôi thành một người viết sách, khi giới xuất bản thán phục những bài phê bình sâu cay của tôi và mời tôi đi ăn trưa để đề nghị liệu tôi có thích viết tiểu thuyết hay không. Thế nhưng, cuối ngày hôm sau, bài phê bình được trả về cho tôi với một dòng ghi chú ngắn gọn: “Lần sau, cố gắng viết bằng tiếng Anh”.
Tôi gọi điện thoại cho biên tập viên văn học. “Bài phê bình của tôi có gì không được? Tôi đã bỏ cả hai ngày để viết nó.”
– Phải, tôi cũng đoán là vậy. Thế “giá trị thặng dư của chủ nghĩa tân thời” nghĩa là gì? Mà thôi, làm ơn đừng có giảng giải với tôi nữa. Nghe này, cô bạn, tất cả những gì chúng tôi muốn thấy chỉ là chủ đề của sách là gì, một chút ý kiến về cốt truyện, các nhân vật là ai và liệu tác giả có làm nổi bật được những gì mà các nhân vật đó cần phải phô bày hay không. Tất cả chỉ có thế. Và nếu cô có thể viết sao cho bài phê bình của mình thành thú vị, hấp dẫn muốn đọc thì rõ ràng điều đó sẽ hữu ích.
– Nhưng chưa có ai trong giới phê bình văn học hiện nay…
– Tôi đã nói rồi. Nếu cô muốn phê bình sách, cô cần phải biết công việc phê bình sách là gì đã. Cứ đi mà đọc vài cuốn đã, được chứ? Vài tuần sau thì gọi lại cho tôi. Và cô có thể vui lòng gửi cuốn sách lại cho chúng tôi qua đường bưu điện hay ghé ngang qua chỗ chúng tôi gửi lại cũng được. Tôi cần phải đưa nó cho người khác.
Ngay lúc đó, tôi dường như đang đi giật lùi về phía sau và chẳng thể làm được gì để đảo ngược hướng đi của cuộc đời mình. Công việc của tôi không tốt và một lần nữa, tôi lại phải ngủ dưới mái nhà căn hộ của bố mẹ ở Benson Court, thậm chí có vài lần ngủ trên giường của Gilbert nữa. Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ quay lại với mớ đồ mặc thừa linh tinh mà mẹ tôi đã mua về cho tôi và vẫn còn treo trong tủ quần áo.
Tôi thấy một người đàn ông hôn vào mũi một phụ nữ khi họ đang nắm chặt thanh vịn trên một chiếc xe buýt lắc lư tròng trành. Người phụ nữ mỉm cười và người đàn ông lại vươn tới, hôn vào tai cô ta. Tôi trông thấy những xô đựng hoa trong một cửa hàng bán hoa, và trông thấy cả những bó hoa đang được làm để dành tặng cho ai đó được người khác yêu thương. Tôi trông thấy những phụ nữ cắp cặp dẹp đựng tài liệu từ dưới các bậc thang của lối ra vào ga điện ngầm Oxford Circus tuôn ra và đi bộ lên phía bắc, ngược phố Regent tới đường Portland Place để vào những cánh cửa của tòa nhà trụ sở hãng tin BBC. Tất cả mọi người đang trong trạng thái hoạt động, có việc để làm, có nơi để đi. Họ đang yêu nhau, làm tình với nhau, có những ý nghĩ mới mà nước đó chưa từng có ai nghĩ ra. Mọi thứ cứ thế tiếp diễn. Hàng hóa mới được đem đến các cửa hàng. Người ta đang kiếm tiền từ công việc của mình để mua những thứ hàng hóa đó. Người ta đang giao dịch thuê căn hộ, mua nhà và hơn hết thảy, họ hôn nhau trên những chuyến xe buýt của thành phố London. Tất cả mọi người, tất cả mọi việc đều bận rộn trong khi tôi thì lại ngồi trên một băng ghế trong khu vườn công cộng ngắm nhìn những bông hoa đang mọc hết sức chậm chạp trước mắt mình. Nhưng ít ra thì chúng cũng lớn lên.
Người đàn ông mà tôi yêu đã chết và tôi thậm chí cũng chẳng còn chắc chắn rằng mình đã từng yêu anh hay đó chỉ là một trò chơi con trẻ, sự vào vai của một người phụ nữ trưởng thành sống chung trong một căn hộ với bạn trai của mình, hứa hôn, kết hôn rồi đi hưởng tuần trăng mật. Tôi càng cố hồi tưởng lại thì càng cảm thấy như những kỷ niệm đó là giả. Tôi không còn hoàn toàn chắc chắn liệu những sự kiện mà chúng gợi nhớ lại có thực sự xảy ra với tôi hay là với một nhân vật trong phim hoặc trong sách. Tôi không còn tin rằng mình đã từng rời khỏi Benson Court, đi học đại học, gặp Alexander và làm lễ cưới với anh trong nhà nguyện của nhà thờ. Dường như không thể có chuyện tôi đã từng dẫn dắt hàng loạt những điều không chắc có thực như vậy xảy ra. Chỉ duy nhất việc phá thai là vẫn còn hiện hữu rất thực. Nó luôn tồn tại sờ sờ như vậy và mẹ tôi cũng trải nghiệm cảm giác này.
Và một buổi sáng, khi tôi ngồi xuống bàn ăn sáng và mẹ tôi rót cho tôi một cốc nước cam có đường, tôi nhấm nháp từng chút một và nghe thấy một tiếng nứt lớn lan ra tới mặt ngoài chiếc cốc, tôi thấy bố mẹ nhìn nhau, gật đầu đầy hàm ý. Lúc đó, tôi quyết định tốt hơn cả là tôi nên quay lại làm công việc ghi chép thư ký cho ông bác Sándor vì ở đó, ít nhất tôi cũng có được 40 bảng Anh một tuần và hoàn thành nốt câu chuyện mà dẫu sao cũng vẫn còn hấp dẫn đối với tôi: câu chuyện kể cho tôi biết mình là ai, mình từ đâu đến, về vùng đất mờ mịt tồn tại trước khi tôi sinh ra.
– Cô đã không đến. Tôi đã đợi suốt cả 6 ngày trời, - bác tôi nói lúc xuống mở cửa cho tôi - Tôi đã mua một chiếc bánh kem tươi thế mà cô lại không đến. Tôi cứ ngồi đợi mãi. Tôi không thích chờ đợi. Cái bánh hư mất rồi.
Bác tôi trông có vẻ như bị ốm. Nước da thậm chí còn nhợt nhạt hơn cả những gì mà tôi nhớ về ông, còn đôi tay thì quấn những lớp băng trắng, xù xì như bông tuyết.
– Cháu xin lỗi, - tôi nói - việc chẳng đặng chẳng đừng nên cháu mới nghỉ.
– Thế thì cho tôi biết lý do tại sao đi?
– Cháu ở trong một quán rượu và một quả bom phát nổ.
Đúng là đã có một vụ nổ bom tại một quán rượu ở Islington, một vụ nổ nhỏ không gây thiệt hại gì đáng kể đã được đưa trên tin tức buổi tối. Không có ai thiệt mạng ngoại trừ một con mèo đang nằm ngủ trong một cái hộp đựng đồ nghề bỏ đi. Nó bị thổi tung lên trời. Cái đuôi của con vật quấn quanh một chiếc giày nữ đế thấp còn đôi mắt của nó thì bị hất văng vào một cái gạt tàn thuốc lá. Như tôi đã nói, việc tự đưa mình vào sự kiện này có vẻ như là một dấu hiệu nữa cho thấy tôi tách mình khỏi thế giới thực. Tôi càng ngày càng cố gắng một cách tuyệt vọng để quay lại cái thế giới thực tại hiện hữu ở ngay nơi này và ngay bây giờ, thế giới chẳng khác gì một nơi để tôi tự bịa đặt, kịch tính hóa.
– Sao? Cô bị thương ư? Bị thương thế nào? Người ta đã làm gì cô?
Một lần nữa tôi nhận thấy cơn xúc động mạnh của bác tôi đã xui khiến ông giơ cánh tay ra chạm vào người tôi nhưng một lần nữa, tôi lại tỏ ý ngần ngại né tránh, ông cũng nhận ra điều này và hạ cánh tay xuống.
– Cháu không bị thương, không ai bị hề hấn gì, ngoại trừ một con mèo.
– Ờ, phải. Tôi cũng có nghe nói về vụ đánh bom này. Thế nếu cô không bị thương thì tại sao lại không đến đây? - Mắt bác tôi lại chảy nước và ông đưa ống tay áo lên chùi.
– Cháu bị sốc. Mà mắt bác bị làm sao thế? - tôi chuyển đề tài.
– Tôi không biết nữa. Chắc là bị bệnh tăng nhãn áp. Bệnh này cuối cùng cũng sẽ làm ta mù lòa nhưng tay bác sĩ nhãn khoa thì lại bảo khác.
– Thế mình cứ đứng luôn ở hành lang như thế này nói chuyện hả bác?
– Ồ không, không. Dĩ nhiên là không rồi. Lên tầng trên đi. Thôi, mời cô. Tôi sẽ pha cho cô loại cà phê Hungary đậm đà và ngon hảo hạng. Cô cũng nên thử một miếng bánh. Đường và chất béo rất tốt cho ta khi ta bị sốc.
Chúng tôi đến căn hộ của ông và ngồi vào chỗ cũ: bác tôi ngồi ở cái ngai mây xòe như đuôi công còn tôi thì điều khiển cái máy ghi âm.
– Thế chúng ta đã dừng ở chỗ nào rồi ấy nhỉ? - ông hỏi.
– Tới đoạn cả nhà bác dọn tới Budapest ạ.
– Phải rồi, Budapest. Thế cô muốn biết điều gì tiếp theo nào?
– Bác làm gì sau khi rời khỏi ghế nhà trường?
– Đây này, ăn bánh đi. Tôi vừa mới mua ở tiệm Battenberg đấy. Tôi ước gì mình mua được loại ngon hơn để đãi cô.
– Bác đừng bận tâm ạ. Cháu không đói đâu.
– Lẽ ra cô đói mới phải đấy. Cô trông gầy quá.
– Dạo gần đây cháu hơi sút cân.
– Vậy thì chắc chắn là ngày mai tôi sẽ mua một cái bánh ngọt thực sự. Ừ, được rồi, ta vào việc thôi. Điều đầu tiên cô phải nhớ là thời điểm tôi học xong vào năm 1934 cũng là lúc mà quy định hạn chế số người Do Thái làm việc trong các cơ quan, tổ chức, cơ sở kinh doanh bắt đầu xuất hiện. Vậy nên tôi mới nói với bố mình rằng tại sao chúng ta cần phải giữ lại cái họ Klein? Cô biết đấy, đó là họ của chúng tôi ngày còn ở quê nhưng trong khi nhiều người Do Thái đang thay tên đổi họ để Hungary hóa tên tuổi của mình thì tại sao chúng tôi không đổi tên họ mình thành khác? Bố tôi không quan tâm đến chuyện tên của mình ra sao. Mẹ tôi thì chẳng bày tỏ ý kiến gì. Thằng em trai Ervin của tôi thì đang đi học và tôi không hỏi nó về chuyện này. Vậy là chúng tôi trở thành họ Kovacs, một cái họ rất đẹp, dễ dàng khắc sâu vào trí nhớ. Chuyện đổi họ là do tôi làm. Thế là từ cái tên Sándor Klein, giờ thì tôi đã trở thành Sándor Kovacs và tôi bắt đầu đi tìm việc làm.
Tôi có thể thấy là trong suốt thời gian kể chuyện, bác tôi không ngừng nhìn tôi và lần đầu tiên tôi tự hỏi liệu ông có biết tôi là ai không. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ngờ ngợ. Tuy nhiên, tôi bị quá cuốn hút vào câu truyện đến nỗi không tiếp tục để ý đến cảm giác ngờ vực này, bởi đây là tiết lộ cho thấy cái tên của tôi mới chỉ ra đời cách đây ít lâu và trước đó, chúng tôi hoàn toàn mang họ khác. Tôi là người đầu tiên của dòng họ Klein sinh ra mang họ Kovacs.
– Cô có muốn dùng thêm cà phê hay hút một điếu thuốc không? - bác tôi hỏi.
– Không, cảm ơn bác. Bác kể về công việc đầu tiên của mình đi.
– Công việc đầu tiên của tôi là một công việc rất tốt, tại một văn phòng giao dịch bất động sản. Đó là năm 1934. Lúc đó, người ta đã không thích người Do Thái rồi nhưng ta có thể làm gì để thay đổi điều đó được cơ chứ? Có lẽ là người Do Thái chúng tôi không được đáng mến cho lắm. Thế còn cô thì nghĩ sao?
– Về cái gì ạ?
– Về việc người Do Thái không được đáng mến cho lắm ấy?
– Cháu chẳng có ý kiến gì cả, - tôi đáp - bác kể tiếp đi.
– Thôi được, - bác tôi hơi mỉm cười và nhìn tôi một cách hiền lành, thậm chí là dịu dàng thương hại, cái nhìn mà tôi không thể nào giải mã được hàm ý của nó. - Khi đó tôi mới 18 tuổi. Tôi sắp sửa quay ngược về quãng thời gian mà chắc chắn là đẹp nhất trong cuộc đời tôi vì thậm chí khi tôi sống trong giàu sang phú quý ăn ngon mặc đẹp, tại căn nhà ở đại lộ Bishops, tôi vẫn cảm thấy lo lắng không yên bởi những cơn ác mộng, tôi phải thừa nhận là như vậy. Công việc của tôi là cả ngày đi cho thuê những căn hộ ở khắp thành phố. Tôi thuộc khu Pest như lòng bàn tay, thuộc từng con đường. Chúng tôi in hình ảnh một số căn hộ tuyệt đẹp trong những cuốn sách quảng cáo của mình. Cô biết không, những tòa nhà đó có nhiều khuôn mặt bằng đá trang trí ở trên. Đúng vậy đấy, những khuôn mặt nhìn ra ngoài phố và nhìn xuống ta. Một số là mặt của những hiệp sĩ thời xưa và hầu như tòa nhà nào cũng đều có kiểu trang trí như vậy. Thế là ban ngày, tôi đạp xe đạp chạy quanh khắp thành phố, đưa cho những người thuê nhà xem hình những căn hộ cho thuê và đêm xuống, đây là lúc tôi thực sự sống. Ở Budapest có nhiều quán cà phê. Bây giờ vẫn còn nhưng chẳng còn giống chút nào với những quán cà phê thời trước chiến tranh. Với tôi, chúng giống như những cung điện có những người bồi bàn ăn vận rất bảnh bao, rất đẹp… Tôi dùng từ “ăn vận” có đúng không?
– Vâng, đúng rồi bác ạ.
– Các quán cà phê đầy những người kỳ lạ, nhà báo, nhà văn, chính trị gia, toàn những người kỳ quặc. Các bà các cô mặc áo choàng lông thú, đội mũ lông thú và cái mũ hắt bóng xuống mặt họ giống như viền đăng ten. Đây mới là chỗ học tập của tôi, không phải là ở trường đại học mà là tại những quán cà phê ở Budapest. Ở Anh, chẳng có thứ gì giống như vậy cả. Lúc tôi mới đặt chân đến đây, tôi đã tìm kiếm những quán cà phê và tôi đến quán Kardomath. Chỉ thấy rặt mấy bà nội trợ và ban đêm thì người ta lại đóng cửa.
– Thế lúc đó bác đọc sách gì?
– Lúc nào cơ?
– Lúc ở Budapest, vào những năm 30 ấy.
– Đọc sách ư? Tôi ư? Đâu có. Tôi đâu có đọc thứ gì đâu.
– Thế tại sao bác lại muốn trở thành một trong số những người thuộc giới trí thức đó?
– Tôi thích nghe người ta trò chuyện. Tôi thích học những gì họ nói. Để góp nhặt những mánh lới. Cô thấy đấy, nếu ta lắng nghe mấy người trí thức nói chuyện, ta sẽ học lỏm được cách tán chuyện phiếm và điều này hết sức quan trọng cho công việc của tôi. Tôi có làm cô khó chịu không? Tôi chợt nhớ ra chính cô cũng là một trí thức.
Và bây giờ, chúng tôi đi đến phần câu chuyện ông bác Sándor buộc phải đưa ra một quyết định. Một đứa bé gái đã đứng ở cửa trước, những ngón tay nhỏ xíu bấu chặt vào khung cửa, mắt chằm chằm nhìn bác của mình trong khi bố cô gào lên những lời chửi rủa, lăng nhục ông bác bằng tiếng nước ngoài. Ông bác muốn cho cô bé kẹo chocolate nhưng không được phép. Phần tiếp theo của câu chuyện kể về những tội ác của bác tôi, những hành động kinh khủng mà thỉnh thoảng ông xen vào những lời tự bào chữa cho mình. Bào chữa cho những cáo trạng của mình chỉ là một phần chủ đích của bác tôi. Cái chính là ông muốn đứa cháu gái bé nhỏ da ngăm đen ngày nào và giờ đây là một phụ nữ trẻ tuổi, da vẫn ngăm đen và thích đánh son bóng mờ ở môi trên, biết rằng người bố tôn trọng luật pháp của cô là một kẻ đạo đức giả và hợm hĩnh. Nếu điều đó có làm cho tôi xa lánh bác tôi thì ông cũng chẳng buồn bận tâm. Cần phải có một ai đó được biết. Eunice đã biết nhưng sau này sẽ chẳng có ai thèm đếm xỉa đến ý kiến của bà ấy, bởi dẫu Eunice một người đàn bà đẹp nhưng dù sao thì bà ấy cũng chỉ là người da màu làm ở một cửa hàng và có một người con trai đang đi tù.
Từ chỗ kinh nghiệm hầu tòa, bác tôi rút ra được một điều rằng ý kiến của một số người có trọng lượng hơn những người khác như thế nào và cô gái ở trước mặt ông có bằng văn chương của trường đại học York. Ông đã tìm hiểu ra, dẫu không phải là bằng của trường Oxford hay Cambridge, phải thừa nhận là như vậy, nhưng thế cũng là rất tốt rồi.
– Thôi được, nghe này. Tôi sẽ kể cho cô nghe về những quán cà phê, - bác tôi nói, đôi mắt nâu nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt đó có thể lờ đờ như đã chết hay hoạt bát sống động tùy thuộc vào tâm trạng của ông. Nhưng, chúng luôn luôn sống động vào tất cả những khoảnh khắc tạm nghỉ, lúc bác tôi uống một ngụm lớn cà phê đậm và suy nghĩ về những gì ông sẽ nói tiếp. Ta sử dụng những câu chuyện phiếm nghe lỏm được như thế nào nhỉ? Hẳn thêm thắt vào là cách tốt nhất.
– Tôi không kiếm được nhiều tiền khi làm việc cho văn phòng nhà đất. Tôi có công việc nhưng loại công việc này sẽ không biến tôi thành triệu phú được. Để trở thành triệu phú, tôi cần phải có công việc làm ăn của riêng mình. Ta không thể tự mình làm giàu được nếu làm theo sự sai khiến, chỉ bảo của người khác. Tôi có nhiều sức lực nhưng tôi chưa thể thấy một cơ hội nào. Giờ thì đến lúc tôi nhìn thấy một cơ hội rồi. Nghe này, Miranda, chưa bao giờ trong cuộc đời mình tôi là một người đàn ông đẹp trai. Tôi chưa bao giờ trông giống một ngôi sao điện ảnh. Nhưng có một lý do nào đó mà phụ nữ thích tôi. Họ thích nói chuyện với tôi. Tôi cảm thấy thoải mái với họ và điều này khiến họ thấy thoải mái với tôi. Đó là cách mọi chuyện diễn tiến. Tôi gặp rất nhiều phụ nữ trẻ trong các quán cà phê, thôi thì đủ mọi hạng người. Một số còn độc thân, một số đã lập gia đình. Một số đã có công ăn việc làm, một số thì chưa. Tôi có rất nhiều mối quan hệ quen biết. Một người đàn ông thoải mái với mọi người, có sức lực, thuộc thành phố như lòng bàn tay, hiểu biết về những căn hộ trống thì người này sẽ có một cơ hội. Cô hiểu chứ?
– Không, cháu không hiểu gì cả.
– Chậc, tôi phải nói trắng ra thôi. Những quý bà quý cô mà tôi gặp đấy, đôi khi họ muốn có tiền để sắm một chiếc mũ, đôi khi muốn có tiền để thuê nhà. Ở phía kia là các quý ông đã có vợ nhưng bà vợ đang đau ốm, đang có mang, vừa mới sinh con hay không thích mấy chuyện giường chiếu nữa. Hai người này được sắp xếp để gặp nhau chỉ khi có một người nào đó đem họ lại với nhau. Và họ gặp nhau ở chỗ nào? Không phải ở chỗ của bà cũng không phải ở chỗ của ông. Tôi thì biết nơi nào có căn hộ trống và tôi có chìa khóa. Và đây là cách mà công việc kinh doanh của tôi khỏi đầu.
Suốt bấy nhiêu năm qua, tôi nghĩ bác mình là một kẻ cho thuê nhà ổ chuột, một kẻ tư bản hung hăng bóc lột những người yếu nhất. Thế mà giờ đây, ông thậm chí còn tệ hơn nữa: lòng tham của ông được nuôi dưỡng bằng xương thịt của đồng loại.
– Bác là một kẻ dắt mối.
– Từ đó xấu xa lắm. Tiếng Hungary gọi là strici. Không có ai ở Budapest dùng từ này để chỉ tôi cả. Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy từ này, từ miệng của cô.
Lời này của bác tôi thực sự là không đúng. Ông bị bắt vì đã sống bằng những cách kiếm tiền xấu xa đồi bại. Biết thế nhưng tôi vẫn giữ miệng, không cãi lại. Tôi chỉ nhìn ông với một sự ghê tởm lạnh lùng. Ông đúng là đồ cặn bã bỏ đi. Giờ thì tôi nhận ra cái lý của bố mẹ mình.
– Thôi được rồi, cô… ờ, cô Collins, cô có muốn kết thúc không? - bác tôi hỏi bằng giọng lạnh lùng vì nhận ra rằng tôi cũng chẳng hơn gì bất kỳ một người nào khác, một người có sự thông hiểu và trí tưởng tượng hạn chế.
– Kết thúc hôm nay ạ?
– Không, kết thúc hẳn. Cô không thích ngồi uống cà phê với một tên dắt mối mà, phải không? Cô muốn tìm một công việc khác đúng không? Thôi, cứ đi mà làm biên tập viên cho tờ Times nếu công việc ấy thích hợp hơn với cô.
Hẳn không có một lời thóa mạ nào cay độc hơn những lời bác tôi vừa nói. “Cháu có nói nghỉ làm gì đâu, cháu…”
– Để tôi nói cho cô biết kẻ dắt mối là ai, hắn làm gì. Một tên dắt mối là kẻ…
– Bác thấy đấy, chúng ta thực sự không cần phải bàn đến chuyện này. Cháu chỉ là một thư ký mà thôi.
– Không, không phải chỉ có vậy. Cô đóng vai trò còn hơn thế nữa. Thư ký chỉ ghi chép lại văn từ chữ nghĩa. Đây không phải là con chữ mà đây là trái tim của tôi. Tôi đã xé nát…
Tuy nhiên, bác tôi nhận ra rằng mình đã đi quá xa. Đây là lần thứ hai tôi nghĩ có lẽ ông biết tôi là ai. Dù vậy, tôi vẫn lặng im không nói một lời nào.
—… Gọi là xé nát cái gì, cái gì ấy nhỉ?
– Thôi, bác ơi, cho qua đi. Sao chúng ta không đơn giản là cứ tiếp tục công việc nhỉ?
– Tiếp tục à?
– Vâng, tiếp tục.
– Nói về những tên dắt mối, nếu cô muốn nhưng đầu tiên tôi…
– Cháu sẽ không đánh máy phần ghi âm này, bác biết đấy. Cháu không đánh máy các câu hỏi của cháu hay bất cứ thứ gì cháu nói.
– Thôi được, thế thì cô chỉ cần phải hiểu như thế này. Tôi biết những kẻ dắt mối là gì. Thời tôi, chưa từng có cô gái nào dây vào làm ăn với một kẻ dắt mối. Các cô gái của tôi tự lo công việc của họ. Tôi chỉ làm mỗi việc là dẫn khách hàng tới cho họ và cung cấp phòng. Tôi hưởng phí quản lý. Tất cả mọi người đều hiểu điều này. Tất cả chúng tôi đều biết rất rõ về những luật lệ này. Tôi không ép buộc họ phải làm điều gì hay cho họ chơi ma túy.
– Vâng, bác cứ nói tiếp đi, - tôi bảo, các sợi dây thần kinh của tôi vẫn còn nhức bưng bưng vì sốc trước tiết lộ này.
– Được rồi, để tôi kể cho cô nghe về thằng em trai Ervin của tôi. Cô có thể nghe về đường đời của nó. Có thể nói đường đời trong sạch thật thà nhất là đường đời của nó chứ không phải của tôi. Nó gặp cô gái đầu tiên và đính hôn luôn với cô ấy. Đó là một cô gái bị tật đi khập khiễng cùng với một cái gậy nhưng là một người rất tốt. Lúc nào tôi cũng thích Bertha hơn thằng em của mình nhiều. Nó có được một công việc tập sự trong ngành kim hoàn và nó rất, rất may mắn khi giữ được công việc này vì bố tôi giờ đây đã bị sa thải khỏi công ty sản xuất mũ. Công việc kinh doanh của họ không tốt. Họ phải cho nghỉ bớt nhân viên. Họ có hai nhân viên người Do Thái và theo các bộ luật về sắc tộc có hiệu lực lúc đó thì một người phải ra đi. Và vì phòng xuất khẩu không còn là bộ phận mà người ta muốn do một người Do Thái tiếp tục điều hành thế nên bố tôi đành phải nói lời chia tay sau 14 năm gắn bó với công ty này. Nhân tiện đây tôi cũng muốn nói là mọi sự xảy ra với tôi cũng y hệt như vậy. Tôi chỉ làm cho một công ty nhỏ. Người ta không thể thuê một lao động Do Thái nào nữa nhưng tôi là người luôn biết cách vượt qua khó khăn nguy khốn như thế nào. Càng lúc công việc làm ăn của tôi càng liên quan tới việc sắp xếp các cô gái vào các căn hộ vì tôi vẫn còn có khả năng xoay xở để biết được căn hộ nào hay phòng nào đang trống, và tôi vẫn cố gắng để có được chìa khóa vì tôi không thể làm mọi chuyện một cách đường đường chính chính.
“Giờ thì bố tôi không thể bán mũ được nữa. Tất cả những gì ông làm suốt một ngày là đọc sách. Sách vở chữ nghĩa bày đầy quanh tôi. Và chính xác là tôi đã cố gắng vượt qua nghịch cảnh, cố gắng xoay xở kiếm tiền về để thanh toán tiền thuê nhà giúp bố mẹ vì nếu không có tiền, chắc chắn họ sẽ chết đói. Ervin không thể chịu đựng nổi việc này. Nó có một công việc! Nó là một người đáng kính trọng! Nó có một người vợ sắp cưới! Hàng đêm, nó trở về nhà và bắt đầu kiếm chuyện đánh nhau với tôi. Nó không bao giờ nói ra trực tiếp vấn đề của nó là gì mà chỉ hỏi: Tại sao lại không có sữa? Anh đã uống hết sữa rồi phải không Sándor? Đồ chó đẻ ích kỷ. Giờ thì mẹ tôi yêu thương cả hai đứa con trai đều nhau. Bà không thể chịu nổi bất cứ điều gì khiến hai chúng tôi huynh đệ tương tàn. Tôi nói với bà: Mẹ à, cứ để nó đi đường của nó còn con đi đường của con. Bây giờ, con đã 22 tuổi rồi. Đã đến lúc con cần phải dọn ra ở riêng, có một căn hộ cho riêng mình.
– “Ôi” - mẹ tôi kêu lên khi nghe thấy tôi nói điều này. Nhưng tôi nói với mẹ: Mẹ ơi, mẹ nghe con nói này, con có một căn hộ ngay trên cùng phố này thôi. Con sẽ đến thăm mẹ mỗi ngày. Và đây là những gì xảy ra. Tôi có một căn hộ của riêng mình. Thực ra không phải một căn hộ mà chỉ là một căn phòng, nhưng là phòng tốt, rất tốt. Bố mẹ tôi ở đường Sip utca còn tôi ở đường Dob, chỉ quanh một góc phố. Hằng ngày, tôi đến văn phòng làm việc của mình, chính là quán cà phê ở khách sạn Astoria.
– Đó là trụ sở hoạt động của bác - tôi nói. Câu chuyện giờ đã trở nên vô cùng hấp dẫn.
Hấp dẫn vì nó đem lại một hình ảnh về bố mẹ tôi trong khoảng thời gian vài tháng trước khi họ rời khỏi Hungary và chụp hình bên ngoài cánh cửa trước căn hộ của chúng tôi ngay trước khi đóng sầm nó lại.
– Đúng đấy. Có nhiều người khác nhau đến đây vào buổi tối. Tôi quan sát tất cả bọn họ.
– Thế mẹ của bác có biết bác đang làm gì không?
– Đây mới thực là chuyện. Thằng Ervin lúc nào cũng đe dọa tôi. Nó hét lên “Tôi sẽ kể, tôi sẽ kể hết cho mà xem”. Ý nó là sẽ kể cho mẹ tôi biết làm cách nào mà tôi vẫn có tiền trong túi và vẫn có những bộ cánh bảnh bao. Tôi hỏi nó “Vì sao? Sao mày lại muốn ton hót với mẹ hả?”. Nó trả lời: “Để mẹ biết”. “Biết cái gì?”. “Biết là tôi có một thằng anh như thế nào”. “Sao mày để ý chuyện đó hả” - tôi hỏi nó và nó đáp “Vì tôi có danh tiếng”. Danh tiếng gì cơ chứ? Nó làm việc trong một cái xưởng ở phía sau một cửa tiệm kim hoàn. Cuối cùng thì tôi cũng lật tẩy được động cơ của nó. Đó là vì cái cô Bertha, vợ sắp cưới của nó. Nó không muốn gia đình cô ấy phát hiện ra.
“Rồi một đêm, tôi tình cờ đụng mặt nó trên phố Karoly Korut khi đang trên đường đi làm về. Tôi thử tỏ ra thân thiện với nó và nói lại đây, làm chút cà phê với anh ở khách sạn Astoria. Thế là chúng tôi đi và uống cà phê với nhau. Tôi cố đối xử tử tế với thằng em của mình. Sau khi uống xong cà phê, tôi mời nó uống. Như thường lệ, Ervin từ chối không uống nhưng tôi nói hãy làm một ly Tokaj để nhớ lại thời thơ ấu của hai anh em. Vậy nên nó mới gật đầu. Rồi sau đó, chúng tôi lại uống thêm một ly nữa. Đây là lần đầu tiên tôi thấy thằng em Ervin của mình chếnh choáng và đỏ ửng. Một cô gái mà tôi biết đã đến và ngồi xuống. Ervin vào nhà vệ sinh để đi tiểu. Tôi nói với cô gái, đây là thằng em trai của tôi, hãy đối xử tốt với nó và tôi cho cô ấy vài tờ bạc.
Ông bác Sándor bắt đầu cười to và lấy một miếng khăn giấy trong chiếc hộp để trên bàn để lau hai mắt.
– Sao bác lại cười? - tôi hỏi.
– Chỉ là tôi cảm giác như đang nhìn thấy thằng Ervin đứng trước mặt tôi giống như hồi lúc đó.
– Thế ông ấy trông như thế nào? - tôi hỏi một cách hào hứng. Tôi nghĩ mình đã quên béng mất bản thân đến nỗi chiếc mặt nạ giờ đã nằm dưới bàn, để lộ ra một cô gái trẻ chẳng biết gì về nghệ thuật giả vờ.
– Nó không phải là một thằng đàn ông to lớn, ngay cả bây giờ cũng vậy. Lúc đó, nó nhỏ thó và gầy gò. Ống tay áo của nó phủ trùm tới các đốt ngón tay vì nó là thằng hà tiện. Nó cứ nghĩ là mình sẽ còn cao lớn nữa dù lúc đó nó đã 18 tuổi rồi. Nó mặc thế để không phải mua áo vest mới. Tất cả quần áo của nó đều rộng thùng thình quá cỡ so với nó cũng chỉ vì lý do này. Nó lúc nào cũng nhắc tôi nhớ tới cái con, ờ mà gọi là gì ấy nhỉ, con vật mà có cái vỏ mang trên lưng ấy?
– Con ốc sên phải không ạ?
– Không, con lớn hơn kia.
– Rùa?
– Đúng là con vật đó đấy. Cái mặt đã già khú già khắm của thằng Ervin nhô ra khỏi cổ áo sơ mi. Dù gì đi nữa thì tôi cũng phải đi để lo vài chuyện của tôi và tôi đã thấy nó cùng với cô gái ấy rời khỏi quán cà phê. Sau đó, cũng trong buổi tối hôm đó, cô gái quay lại khách sạn Astoria. Cô ấy nói với tôi rằng tất cả mọi thứ đều diễn ra rất tốt nhưng thằng em Ervin của tôi vẫn còn “dzin”. Vì vậy, cô ấy chẳng có nhiều việc để làm. Tất cả mọi sự đều tốt và nhanh chóng còn bây giờ thì nó đã đi về nhà.
Ta cứ nghĩ bố mẹ ta sống đấy chỉ để yêu thương và làm ta bực mình phát cáu. Ta thấy họ giống như những vệ tinh quay quanh mặt trời là ta. Ta cố gắng chạy trốn khỏi thái dương hệ đó trong khi họ đuổi bắt theo ta. Vào cái thời trước khi tôi ra đời, thành phố mà tôi chưa từng một lần đặt chân đến, đất nước vốn chỉ là một cái hình được tô màu trên bản đồ, là một mảnh đất như trong phim thời sự trắng đen, mờ nhạt. Thời gian là một thứ thật lạ kỳ. Lúc này, tôi đang ở thời điểm hiện tại, đang đi bộ ngang qua Regent’s Park, trên tay xách một chiếc đầm mới còn năm 1977, thời điểm xảy ra những sự kiện mà tôi đang miêu tả, đã trở thành quá khứ xa lắc xa lơ giống như so nó với năm 1938 vậy. Chuyện này có thực hay là do tưởng tượng đây? Bố tôi, khi đó còn là một thanh niên trẻ tuổi, lại đi quan hệ với một ả gái điếm sau tất cả những gì ông nói về ý định rời khỏi Hungary. Liệu có chuyện gạ gẫm ăn nằm nào lố bịch hơn thế không?
– Cô có ổn không? Cô có muốn uống chút nước không? Tôi không muốn cô cũng gặp phải chuyện giống như đã xảy ra với chồng cô đâu.
– Ồ, không, không sao. Cháu ổn mà, - tôi đáp.
– Tôi cứ ngỡ là cô nuốt mất lưỡi rồi chứ.
– Thôi, bác cứ kể tiếp đi. Cháu đang lắng nghe đây.
– Vài ngày sau, mẹ tôi đến gõ cửa nhà tôi. Ba đang ở trong trạng thái kinh hoàng. Ervin chuẩn bị di cư. Nó sắp sửa rời khỏi Hungary. Tôi phải về căn hộ của gia đình ngay lập tức. Tôi nói với mẹ là được, cứ để xem nó phải nói gì đây. Và, không phải đến lúc này cái thòng lọng ở Hungary mới siết chặt mà đúng hơn, đây là lần đầu tiên chúng tôi chú ý nhận ra có một sợi dây thòng lọng đang ở trên cổ chúng tôi. Thằng Ervin gõ gõ cái muỗng vào tách trà mà nó đang uống và nói rằng đang có một mối nguy hiểm đột ngột xuất hiện đối với người Do Thái ở Hungary nên nó và Berta cần phải đi ngay lập tức.
– “Nói với nó là đừng có đi” - mẹ tôi kêu lên. Bố tôi thì chỉ ngồi lặng thinh, chẳng nói câu gì. “Được rồi, Ervin” - tôi hỏi - “mày nói cho cả nhà nghe thử xem mày thấy mọi sự đang diễn ra ở cái đất Hungary này như thế nào nào?”. Rồi nó bắt đầu kể câu chuyện lớn lao về những gì đang xảy ra ở châu Âu. Nó nói về Đức và Liên Xô.
“Tôi nói với nó: “Có vẻ như mày vừa mới đọc báo. Chắc là mày đã cắm rễ ở quán cà phê rồi chứ gì”. Nghe tới đây, nó trở nên cáu tiết, vốc một nhúm đường ở trong cái bát để trên bàn ném vào tôi. Tôi cười to. ‘Không có đường của mày thì tao cũng đã đủ ngọt ngào rồi’. - tôi nói với nó. Thế nhưng mẹ tôi đã mất cả đêm mới xoa dịu được cơn giận dữ của nó. Thế là bây giờ thì hàng xóm láng giềng đều biết rằng Ervin Kovacs và vợ sắp cưới của nó chuẩn bị rời khỏi Hungary, chạy trốn khỏi nạn tàn sát người Do Thái. Nhưng ở quán cà phê, thiên hạ lại kháo nhau một câu chuyện khác. Ở đó, người ta nói rằng Ervin rời khỏi Budapest vì nó hãi chuyện vợ sắp cưới của nó phát hiện ra sự thật nó ngủ với gái điếm.
Và đây chính là câu chuyện về thằng em của tôi. Sự việc mà chúng ta sẽ nghe tiếp theo là nó đã đến London với tư cách là dân chạy nạn. Mà chạy nạn gì mới được cơ chứ? Nạn buôn chuyện.”
Vậy ra là như thế. Tất cả những năm tháng sống ru rú nhui nhủi đằng sau những cánh cửa đóng kín, sự khép nép, sự phục tùng và nỗi khiếp sợ mà ông bác Sándor tạo ra trong đầu bố tôi không phải chỉ xuất phát từ việc ông bác là một tên gangster, một kẻ cho thuê nhà ổ chuột, một người sống bằng những khoản tiền xấu xa, đồi bại kiếm được mà còn vì ông bác biết được con sâu trong nồi canh hôn nhân của bố mẹ tôi mà dựa vào đó mới sinh ra lời nói dối nho nhỏ kia.
– Nhưng em trai bác đúng đấy chứ ạ? - tôi nói, nghĩ về tất cả những thứ tôi biết đã từng bắt đầu xảy ra tại châu Âu và những gì không hề trở nên tốt hơn mà ngược lại còn tồi tệ hơn.
– Đúng về cái gì?
– Về việc rời khỏi Hungary, về thời điểm ông ấy ra đi.
– Đúng là như vậy, nhưng ra đi vì những lý do sai trái. Cho tới giờ tôi vẫn không thể nào thông cảm được với nó.
– Bởi vì nếu bác cũng rời đi đúng vào lúc đó thì mọi sự hẳn đã rất khác đối với bác.
– Làm sao cô biết mọi thứ sẽ hóa ra như thế nào?
– Ý cháu muốn nói đến chiến tranh. Bác sẽ không phải ở Hungary trong suốt thời gian chiến tranh.
– Đúng vậy.
Trong khi tôi đang ngồi ở cái bàn nhìn ra ngoài phố để đánh máy lại nội dung ghi âm buổi sáng thì ông bác Sándor ở trong phòng ngủ, mất rất lâu cho việc thay quần áo. Tôi nghe thấy tiếng nước chảy, tiếng vo vo vào mặt của ong và một mùi hương nước hoa đậm eau de Cologne tràn ngập căn hộ. Khi ông bước ra khỏi phòng ngủ, ông không còn mặc chiếc áo len đan có dây khóa kéo nữa mà thay vào đó là một bộ comle màu xanh da trời, không giống bộ đồ vải nỉ angora ông đã mặc trong lần tới nhà tôi cách đây rất lâu, mà là bộ đồ có 2 tông màu xanh da trời và đen, họp với đôi giày da ông đang đi.
– Bác diện trông thật bảnh - tôi nhận xét. Tôi thích ông như thế này, nhiều màu rực rỡ chứ không phải là một người đàn ông từ đầu đến cuối chỉ có một màu nhạt nhẽo trong chiếc áo khoác không thấm nước. Ông sinh ra để đeo cà vạt màu sắc sặc sỡ vui nhộn và đi giày ghệt.
– Tất nhiên rồi. Hôm nay là ngày tôi và Eunice đi nhảy đầm.
– Nhảy những điệu nhảy cổ điển ạ? Điệu Foxtrots và những điệu đại loại như vậy phải không?
– Phải, cả điệu Tango nữa. Chúng tôi đang học. Đôi giày này là giày đặc biệt để nhảy điệu Tango. Phải mua chúng ở một nơi đặc biệt, một cửa hàng ở đại lộ Shaftesbury, mới có đấy. Không thể mang bất kỳ một đôi giày cũ nào. Cái thứ đó là không thể chấp nhận được.
– Thế chuyện gì đã xảy ra với cái cửa sổ của anh chàng kia? - tôi hỏi khi chúng tôi xuống sảnh dưới nhà.
– Anh chàng nào?
– Là cái anh Claude đang sống ở đây đấy.
– Sao cô lại quan tâm tới cái cửa sổ của cái thằng nhãi đó?
– Theo luật thì…
– Chuyện gì xảy ra với cô thế? Tôi đã cố giải thích mà sao cô không bao giờ chịu hiểu ra nhỉ. Nói như một câu thành ngữ là vào mắt này ra mắt nọ.
– Tại chứ sao lại là mắt, - Eunice đang đứng đợi ở sảnh lên tiếng chỉnh ông bác Sándor. Bà ấy xuất hiện với vẻ bề ngoài đẹp đến mức không thể tưởng tượng được: mặc một chiếc đầm sa tanh màu be dài hơi quá đầu gối, đôi chân màu nâu thon dài tuyệt đẹp đi tất da mịn. Còn chân của tôi thì giống như củ chuối vậy.
– Cô gái này - ông bác Sándor nói với Eunice - sống một cuộc đời được bảo bọc rất kỹ, không giống như chúng ta, em nhỉ? Cô ấy muốn anh sửa cửa sổ cho cái thằng ranh con đã tự mình làm vỡ nó.
– Nó đã bị nứt từ trước rồi, - tôi cãi.
– Cô đã biết gì về chuyện này nào?
– Anh ấy chỉ cho cháu xem.
– Cô đã ở đó với cái thằng nhãi thô lỗ cục mịch ấy sao?
– Vâng, sao lại không ạ?
– Có một số người không biết ai là bạn của họ, - Eunice nói, ra chiều hiểu ý.
Làm cách nào mà tôi biết được Eunice không thích hoặc không tin tưởng tôi dù chúng tôi hiếm khi gặp nhau? Bà ấy yêu ông bác tôi như điên như dại. Sándor là tình yêu một đời của Eunice. Họ là một đôi kết hợp cọc cạch kỳ quặc: một kẻ đến từ Budapest chuyên sống bằng đồng tiền bòn rút từ người khác và một cô gái da đen nói giọng xứ Wales đến từ Vịnh Tiger, một phụ nữ hết sức quý phái trang nhã, cực kỳ sành điệu, đặc biệt quan tâm đến chuyện chải chuốt chỉn chu hoàn hảo, từ mái tóc, móng tay, son phấn cho đến lông mày; một người hay săm soi tỉ mỉ, phát hiện ra từng sợi chỉ nhỏ bị lỏng, từng chiếc cúc bị lung lay hay từng vết dầu mỡ dính trên quần áo; một người luôn giữ dáng sao cho lưng lúc nào cũng thẳng (thói quen hình thành trong những buổi học vỡ lòng tại trường dạy cách đi đứng, ứng xử Miss Halliburton ở Stockwell, lớp học mà Eunice đã phải dành dụm từng xu tiền lưong của mình để đóng học phí).
Qua nhiều năm, Eunice đã vươn từ địa vị một thợ uốn tóc tầm thường lên vị trí một nữ quản lý hết sức được tin cậy của một cửa hàng quần áo thời trang nữ trên phố Seymour, sau Marble Arch, nơi các khách hàng thân thiết từ các tòa nhà lớn trên phố Marylebone High Street, đều bị thu hút đổ về đó và thật sự là các bà các cô trong tòa nhà Benson Court cũng nằm trong số những vị khách “ruột” thường xuyên lui tới nơi này. Cửa hàng được mở vào đầu thập niên 50, khi quần áo vẫn còn được may với số lượng hạn chế và các bà các cô ở Khu Tây London[39] vẫn gõ bước lọc cọc trên những đôi giày cao gót, diện những chiếc váy bồng giống kiểu váy múa ballet, dùng nước hoa Yardley[40] và tô son môi màu hồng đào.
Ông bác Sándor đưa cô tình nhân trẻ của mình đến những nơi sang trọng nhất, nơi có người bồi bàn mặc áo khoác đen đẩy chiếc xe dọn các món tráng miệng vòng quanh phục vụ thực khách và Eunice chọn một ly kem mút nhỏ vị cà phê từ vô số những món hấp dẫn bày trên xe, đoạn ăn kem bằng một chiếc thìa bạc. Bác tôi cũng mua cho Eunice những món đồ nho nhỏ: một đồng hồ hiệu Omega, một bật lửa hiệu Colibri đựng trong một chiếc bao bằng vải nhung. Ông đối xử với người tình giống như đối với một nữ hoàng.
Và vào lần đầu tiên Eunice trông thấy ông trong trạng thái khỏa thân, người phụ nữ ấy đã chạm vào những nơi vẫn còn đau trên lưng ông với một niềm thương cảm, những vết dấu của đòn roi. “Ôi! Sándor!” - Eunice thốt lên - “cả anh và em đều là nô lệ ở mảnh đất Ai Cập”.
Rồi thì tôi xuất hiện. Đứa cháu gái mưu mô giả dối đang theo dõi ông bác mình vì nhiều lý do mà cả hai vẫn chưa tìm hiểu được và là người mà Eunice đôi khi vẫn nghĩ rằng người tình lớn tuổi của mình đã đâm ra yêu thương, sau khi ông kể cho bà ấy nghe về những lần làm việc của chúng tôi. Vì sao mới đầu, Eunice chẳng hiểu gì hết. Cho đến một đêm, khi ông rên lên trong giấc ngủ và khóc, Eunice đã trông thấy nước mắt lăn trên gương mặt ông trong lúc ông đang ngủ. Người đàn bà này nhận ra rằng tất cả chỉ vì ông là người chẳng có con cái, là người biết rõ ràng một ngày nào đó ông sẽ chẳng còn là gì ngoài nắm xương nằm trong một cái hòm và chẳng có gì để lại cho mai sau, ngoại trừ tôi, những ký ức của tôi về ông. Tôi là một kẻ nguy hiểm. Tôi có sức mạnh để làm tổn thương ông. Eunice biết tất cả về điều đó.
– Nhưng cô gái này không có những trải nghiệm như chúng ta đâu, em à - ông bác Sándor của tôi nói tiếp. - Cô ấy sống một cuộc đời được bảo bọc ở trường đại học, với sách vở và luận về mọi thứ theo cách mà em biết đấy, giống hệt như cách mà các nhà tư tưởng hay bình luận. Cô ấy chẳng biết gì đâu. Làm sao mà cô ấy biết được chứ?
– Nhưng cái mà thiên hạ biết thì họ cũng phải biết chứ - Eunice vặn lại, nhìn chiếc áo váy bằng vải tơ tằm màu xanh da trời ố bẩn và chiếc áo vét vải denim của tôi.
– Em này, có lẽ cô ấy nên đi cùng chúng ta, nhỉ? - ông bác Sándor đề nghị.
– Tới chỗ khiêu vũ à? - Eunice hỏi lại, đôi mắt mở to đến nỗi lòng trắng như đảo lộn, hòa quyện với tròng đen.
– Ừ, tại sao lại không nào?
Có bao giờ ta thấy mèo vẫy đuôi rối rít chưa?
– Cô ấy không thể đi nhảy với trang phục như thế được. Trông chẳng giống ai cả. Cô ấy sẽ biến anh thành trò cười cho mà xem.
– Em nói đúng đó, không thể ăn mặc như thế được. Chúng ta có thể tìm ra một thứ gì đó phù hợp với cô ấy ở cửa tiệm của em.
– Cháu không có đủ tiền để mua những chiếc váy áo đó đâu ạ, - tôi nói trong trạng thái hốt hoảng.
– Đừng lo, tôi sẽ trả mà, - ông bác Sándor trấn an. - Đi nào, Miranda, đi và nhìn thấy cuộc đời, thứ mà cô đã nói với tôi là cô chẳng biết gì về nó cả.
– Còn chúng mình thì lại biết rất nhiều, người yêu của em nhỉ, - Eunice nói, ngoắc cánh tay mình vào cánh tay của người tình và nhìn tôi với gương mặt của một con mèo Ba Tư.
– Hãy tìm thứ gì đó thật đẹp dành cho một cô gái trẻ nào, - bác Sándor vừa nói vừa đảo mắt nhìn quanh. - Tốn bao nhiêu không thành vấn đề. Eunice, tùy em chọn đấy.
Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân vào cửa hàng quần áo thời trang do Eunice quản lý trên phố Seymour, cửa hàng trước giờ tôi vẫn đi ngang qua mà không hề để ý. Của hàng nằm ngay trên đường tôi đi đến một nơi nào đó quan trọng hơn, tôi không hề ngó đến nó và không nhận ra hàng đoàn những quý bà quý cô giàu có lũ lượt tấp nập ra vào cánh cửa kim loại chạm trổ.
Eunice đang trổ đúng sở trường của mình.
– Bộ này trông rất đáng yêu đối với cô gái này đấy! - Eunice nói, các ngón tay lướt một cách thành thạo qua nhũng giá treo đồ và nhanh như cắt, lấy ra một chiếc váy áo tơ tằm màu xanh lá cây. - Bộ này sẽ hợp với mắt của cô ấy và nó có sắc lấp lánh dễ chịu. Không quá phô trương lòe loẹt.
– Đẹp lắm - ông bác Sándor thốt lên khen. - Mặc thử đi, nhanh lên nào!
– Thế còn giày thì sao? - Eunice hỏi tiếp sau đó - Không thể mang giày đế mềm như thế. Cô có đôi nào ở nhà không?
Ở dưới gầm giường, trong một cái hộp, vẫn có một đôi giày đế làm bằng da rắn màu đỏ mà tôi mới chỉ mang duy nhất có một lần vào cái đêm Alexander chết. Tôi không thể nào quên được cái cách anh cứ tiếp tục ngắm nhìn chúng sau khi chúng tôi làm tình rồi mặc đồ để xuống dưới ăn tối. Anh nói với tôi: “Em nên sắm thêm nhiều đôi giày như thế này”.
Đôi khi vào ban đêm, lúc bố mẹ tôi đã đi ngủ, còn lại một mình trong phòng của mình với bộ đồ ngủ trên người, tôi lại xỏ chân vào đôi giày đỏ và ngắm nhìn chúng. Đủ thứ ý nghĩ kỳ dị xuất hiện trong đầu tôi, những ký ức, những suy nghĩ, những cảm giác mà tôi không có từ ngữ nào diễn tả nổi. Tuy nhiên, chúng đem lại cho tôi một niềm an ủi oái oăm trái khoáy: khiêu vũ trong bóng tối bên trên nấm mồ của anh với cái vật là biểu tượng tươi sáng rực rỡ này cho cuộc hôn nhân ngắn ngủi của chúng tôi vào chính cái thời khắc dâng trào cảm xúc yêu đương đó.
– Cháu có một đôi - tôi nói. - Cháu có thể về nhà lấy. Cháu sống không xa đây đâu.
– Chúng ta sẽ chờ - bác tôi nói. Và, chỉ khi bước ra đường, tôi mới chợt nhận ra rằng lẽ ra tôi không nên nói mình đang sống ở đâu để phòng bác tôi xâu chuỗi hai việc lại với nhau và bắt đầu nghĩ tôi có thể là Vivien, cháu gái của ông. Và tôi thật ngây thơ, ngây thơ đến nỗi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện thật là kỳ cục khi cho rằng một người đàn ông như Sándor Kovacs sẽ mua cho một cô gái trẻ chiếc váy áo đắt tiền nếu như ông không có một lý do nào đó.
Nơi chúng tôi sắp đi tới không quá xa, chỉ qua 3 trạm dừng tàu điện ngầm, nhưng ông bác tôi mắc chứng sợ tàu điện ngầm. Nguyên do không đơn giản chỉ vì những năm tháng sống trong một không gian rào kín của nhà tù, thậm chí không phải là nỗi khiếp sợ bệnh hoạn đối với các đường hầm. Một cái hào đất hẹp nào đó ở Ukraine, bác tôi không nhớ chính xác nó ở đâu, đã đổ ập lên người ông vào khoảng năm 1942. Ông bị chôn sống vài giờ. Dù đây chưa phải là điều tồi tệ nhất xảy ra với bác tôi hồi chiến tranh nhưng đó là thứ mà ông thường xuyên nhớ lại giữa những cơn ác mộng về đêm của mình trong khi những trải nghiệm vượt qua cú sốc đau thương khác tới và nằm im, không bị xáo trộn tại một chiếc hộp kim loại đóng chặt kín đặt trong chiếc tủ com mốt nặng trịch của ông.
Không phải những lý do đã kể ở trên. Điều làm bác tôi thấy lo lắng là một thứ thực tế hơn: ông sợ ngã. Ngay lúc ông bước xuống những bậc thang cuốn đang chuyển động để đưa ta xuống các ga tàu điện ngầm, ngay khi bàn chân phải của ông bước tới và bàn chân trái bước tiếp theo, tay phải bấu chặt vào thanh vịn đang chạy của thang cuốn, nếu ông không hết sức cẩn thận phối hợp động tác với giây phút bước ra khỏi thang cuốn, điều mà ông cảm thấy mình không thể làm được, đặc biệt là với đôi mắt kèm nhèm, mờ đục thì ông sẽ bị mất thăng bằng rồi ngã nhào mà chết. Đó là di sản để lại của nhà tù: nỗi sợ những bậc thang bằng sắt.
– Ông ấy không dám đi tàu điện ngầm thêm chút nào nữa, - Eunice thì thầm nói với tôi. - Tôi đã cố gắng giúp ông ấy nhưng ông ấy vẫn thấy hãi. Ông ấy mua vé nhưng rồi sau đó phải vứt nó đi. Vừa mới nhìn xuống bên dưới là ông ấy đã toát cả mồ hôi hột rồi.
Thế là chúng tôi đón một chiếc taxi, loại xe taxi màu đen đặc trưng của thành phố London mà trước đây tôi mới chỉ đi duy nhất một lần trong đời mình. Đó là khi bố mẹ tôi và tôi lên đường khởi hành tới ga Paddington, rồi Hereford để làm đám cưới cho tôi. Đôi tay bố tôi run run lúc ông trao cho người tài xế lái taxi hai tờ bảng Anh.
Tôi ngồi vào chiếc ghế lật còn ông bác Sándor và cô nhân tình Eunice của ông tay trong tay ngồi đối diện tôi. Mái tóc xanh đen như bện tổ chim của Eunice ngả vào đôi bờ vai to lớn nặng nề trong bộ đồ bảnh nhất của bác tôi.
Chúng tôi sắp sửa đi đến một nơi mà tôi chẳng hề có tí khái niệm nào về nó: một căn phòng lớn nằm bên trên một cửa hàng bán đồ sắt ở một con phố bên kia đường Sussex Gardens, gần ga Paddington. Ta nhấn vào một cái chuông ở cửa phụ và một bàn tay vô hình đẩy cửa cho ta vào. Mọi người đang đến. Một số đem theo giày khiêu vũ đựng trong túi giấy, số khác đã nhún nhẩy trong lúc nhón chân đi như lướt trên đường.
– Xem mấy cô nàng xinh đẹp nhỏ nhắn kia kìa! - bác tới nói với vẻ thán phục khi một cặp hai cô gái da đen trẻ trung lướt ào qua chúng tôi, lên cầu thang. Mái tóc họ tỏa ánh sáng hào quang quanh đầu giống như các vị thánh trong những bức tranh cổ.
Nhưng Eunice đã bấu những ngón tay sơn màu bạc vào cánh tay bác tôi để nhắc nhở ông nhớ rằng một phụ nữ ở tuổi bà ấy không thích ông chú ý quá nhiều đến mấy cô trẻ trung vừa tới.
– Cứu tôi với, Miranda! - Bác tôi cười nói. - Hãy lên tiếng bảo vệ tôi đi. Cô biết chuyện này đối với tôi là như thế nào mà. Mỗi lần tôi nhìn thấy mấy cô gái này, tôi cảm thấy giống như mình là một người đàn ông mới. Tôi nhớ đến lần đầu tiên tôi vừa mới từ Budapest đặt chân tới London và trông thấy mấy nữ hoàng đáng yêu này khoe làn da đang nổi gai ốc, miệng cười thật rộng, hò hét, chạy nhảy vòng quanh phấn khích như phát điên. Tôi nhớ mình đã nghĩ rằng giờ đây