Chương 12
Tôi vẫn chưa mua được bánh kem đãi cô, - ông bác Sándor nói khi tôi quay lại vào sáng hôm sau. - Ngày mai, nhất định là tôi sẽ mua. Tôi có một cái bánh ga tô chocolate đây. Đợi xem nhé. Cô sẽ ngạc nhiên cho mà xem.
Tôi có thích buổi khiêu vũ không? Tôi đã nói với ông là tôi thích. Và liệu tôi có muốn đến đó nữa vào tuần tới hay không? Vâng, có thể. Buổi trưa và chiều muộn ngả về tối trong căn phòng trên phố Paddington đó là quãng thời gian đầu óc tôi thanh bình nhất mà tôi đã có đuợc kể từ dạo Alexander mất. Và tôi yêu bộ váy mới. Đôi khi ta khoác một bộ váy lên người và nó trở thành ta; nó là da thịt ta, là máu ta. Và đó chính là những gì đã xảy ra với chiếc váy này, thay vì bị cơ thể tôi cự tuyệt nó.
– Chúng ta phải tìm cho cô một bạn nhảy trẻ trung đẹp trai - bác tôi nói. - Jim chỉ là một sự sắp xếp nhất thời thôi.
Chúng tôi dành buổi sáng để ghi lại những giây phút cuối cùng về cuộc sống thảnh thơi, vô tư lự của bác tôi với cái nghề dắt mối cho khách làng chơi ở Budapest, nơi ông nổi tiếng và thành công với phụ nữ, có thể tìm được cách và phương tiện nuôi sống bố mẹ ông, tức ông bà nội tôi. Tôi thích nghe một người nào đó nói ba hoa, liến thoắng, không tiết lộ nhỏ giọt thông tin kiểu vón cục táo bón khi đứng trước một áp lực lớn. Và một khi bác tôi đã mở miệng ra nói rồi thì chẳng có thứ gì ngưng được ông lại. Ông là người thích nói. Tôi hỏi ông về bà nội của mình và ông tả ngay đó là một người phụ nữ có những đức tính dịu dàng của người mẹ và chăm chỉ, rất khéo tay nhưng cũng có phần rất ham muốn được trở thành ngôi sao điện ảnh. Bà mê mẩn rạp chiếu phim trong những dịp hiếm hoi có cơ hội đến đó (có lẽ bố tôi đã từng theo bà nội đi xem phim và ông đã học được những bài hát Mỹ ở đó). Bà nội sưu tầm hình ảnh của những diễn viên điện ảnh người Hungary từ các tạp chí rồi dán chúng vào một album ảnh. Ông nội tôi đã trở thành người quá sức cao siêu khó hiểu đối với bà trong khi với sự tự do ở một thành phố, bà đã thôi không còn là một người đàn bà nông thôn quê mùa. Giai đoạn ấy, bà đang ở tâm điểm của thời kỳ hiện đại. Tôi hỏi bác tôi khi đó bà tôi bao nhiêu tuổi. Ông nói bà sinh năm 1896. Vậy là lúc đó bà khoảng bốn mươi mấy tuổi và vẫn mạnh mẽ, sôi nổi nhưng chiều theo ý của đàn ông trong hầu hết mọi chuyện. Và kể từ khi người bố lạc trong thế giới sách vở lý thuyết tương đối của riêng ông, Sándor nghiễm nhiên trở thành người trụ cột gánh vác gia đình.
Ông bác Sándor nhớ lại bà nội tôi có một cái hộp nhạc mà bà đã mua ở một cửa hàng trên phố Rákósziút, không lâu sau khi họ chuyển đến Budapest. Khi mở nắp hộp lên, một cặp búp bê nam nữ thình lình bật ra và nhảy điệu valse của thành Budapest, giai điệu nổi tiếng “Dòng sông Danube xanh”. Bác Sándor kể họ chỉ mở nó vào các buổi sáng chủ nhật và tất cả mọi người đều ngồi đó, bác tôi, ông bà nội tôi, bố tôi và đôi khi có cả mẹ tôi, sau khi bà đã đính hôn với bố tôi. Thế điều gì đã xảy ra với cái hộp nhạc? tôi hỏi. Nhưng bác tôi không biết. Nó không còn ở đó khi ông trở lại lúc chiến tranh kết thúc. Có lẽ ai đó đã đánh cắp nó.
Chúng tôi đang đi gần đến những chương trong cuộc đời bác tôi mà sẽ khiến ông đau đớn tột bực khi nhớ lại. Suốt thời gian diễn ra phiên tòa xét xử ông, lúc bố mẹ tôi cố xua tôi ra khỏi phòng khi chương trình tin tức trên truyền hình phát đi, người ta đã gián tiếp nhắc đến những trải nghiệm chiến tranh của ông. Và họ phải thừa nhận rằng với tư cách là một người tị nạn, ông đã trải qua “một cuộc chiến tranh tồi tệ”, nói theo từ của phóng viên đưa tin về phiên tòa. Điều này thì tôi không hiểu lắm vì lẽ dĩ nhiên có cuộc chiến nào chẳng kinh khủng và đáng sợ với máu me, chết chóc, tra tấn, oanh tạc dữ dội và trại tù. Nhưng nếu xem những bộ phim người ta làm như “Cuộc đào thoát vĩ đại”, “Cầu sông Kwait”, “Băng giá lạnh lùng ở Alexandna ’, có vẻ như chiến tranh cũng có thể là cơ hội cho chủ nghĩa anh hùng thể hiện và cơ hội để đạt được những tấm huân chương ghi công.
“Đúng là có những việc không hay ho, dễ chịu xảy ra với anh ta,” - bố tôi nói “nhưng người ta vẫn có thể giáo dục cho anh ta trở thành một người tốt hơn. Vậy mà họ đã không làm được. Anh ta chẳng bao giờ thay đổi cả.”
Mẹ tôi chẳng nói gì. Chính bố tôi mới là người không ngừng quay trở về tìm ông bác Sándor giống như một con chó khụt khịt đánh hơi trong vườn, tìm kiếm một khúc xương cũ kĩ, mốc meo đã bị chôn.
Sáng hôm đó, tôi đã được nghe kể về nhiều chiến tích của bác mình. Nào là nhiều cô bạn gái của ông, những phi vụ làm ăn của ông, tiền bạc tích lũy trong ngân hàng, tiếng tăm của ông được nhắc đến ở các quán cà phê trong thành phố rồi đến giấy gọi ông đi lao động khổ sai, trong một đơn vị làm nhiệm vụ tiếp tế. Theo lời ông kể thì đó cũng là một đơn vị quân sự nhưng ở đó lính chỉ đeo huy hiệu màu vàng và không có súng.
– Nhưng chúng ta sẽ nói về điều này vào ngày mai, - ông nói. - Hôm nay như vậy là đủ rồi. À, nhân tiện, để tôi nói cho cô biết chiều nay sẽ có thợ đến sửa cửa sổ cho cái thằng nhãi kia. Giờ thì cô thấy thỏa mãn rồi chứ?
Tôi ngồi ở bàn, đánh lại nội dung ghi âm trong buổi sáng làm việc của mình trong khi ông bác Sándor vào phòng ngủ, nói chuyện điện thoại rất lâu với một người nào đó mà rõ ràng là ông biết rất rõ và đóng vai trò như là một người bố nhân từ nhưng vẫn là ở cương vị ông chủ, người ra mệnh lệnh, hướng dẫn chứ không phải là người nghe người khác sai bảo.
– Nửa đêm là tốt nhất - ông yêu cầu. - Và đừng có làm ba cái trò khỉ ngớ ngẩn đấy. Chỉ đi vào rồi ra thôi. Cậu có hiểu không?
Hai chồng giấy nhỏ đang cao dần lên, một chồng giấy in và một chồng giấy than. “Chúng ta làm được bao nhiêu trang rồi? - ông bác Sándor hỏi tôi. Tôi kiểm tra lại. 46 trang.
– Tốt lắm. Chúng ta thậm chí còn chưa bắt đầu chương đầu tiên, - ông nói - cái này rồi sẽ trở thành một cuốn sách.
Ông đưa tôi bì thư trong đó đựng 8 bảng Anh. “Giờ thì tôi chuẩn bị đi tới quận Soho[41], tới Maison Bertaux[42] nơi người ta làm bánh ga tô dâu mà cô chưa từng thấy bao giờ. Cô có biết nơi đó không?”
– Có phải cửa hàng trên phố Greek Street không ạ?
– Đích thị là cửa hàng ấy đấy.
– Cháu đã có lần mua một chiếc bánh éclair chocolate ở đó rồi. Nó ngon tuyệt!
– Chà, loại bánh này còn ngon hơn nữa kìa. Cô cứ chờ mà xem. Sáng mai đừng ăn sáng quá no đấy.
– Vâng ạ.
Đi xuống tiền sảnh, Claude đang thoải mái cho phép mình đứng ở cửa trước. Anh ta mặc một bộ đồng phục bảo vệ và đội một chiếc mũ lưỡi trai đổ bóng xuống phần trên của gương mặt. Chiếc áo quá rộng đối với anh ta. Nó tràn lấp hai vai của anh ta như thể đó là bộ đồ dành cho một đứa trẻ con mà bố mẹ nó đã mua với một sự tự tin rằng con trai mình sẽ còn “lớn vừa đồ”. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho Claude vì công việc bắt buộc anh ta phải mặc những bộ đồ xấu xí đến vậy.
– Lại là anh - tôi nói. - Tôi cứ nghĩ giờ này anh đang ở chỗ làm chứ?
– Đúng là hôm nay tôi có đi làm nhưng tôi đang chuẩn bị đi thì công nhân trong công ty đình công bất ngờ nên tôi lại về nhà.
– Sao anh có thể đình công được? Anh vẫn chưa bắt đầu đi làm cơ mà?
– À, là do công đoàn. Đó là những gì họ bảo phải làm thế. Nhưng dù sao tôi cũng phải đi mua một chiếc xe đạp.
– Để làm gì?
– Để đạp đi làm. Tôi sẽ chạy bên trên tuyến đường tàu điện ngầm Northernline và trạm mà chúng ta bắt đầu khởi hành sẽ là trạm ở đường Golders Green.
– Thế tại sao anh không thể đi tàu điện ngầm?
– Cô em có ngốc nghếch không đó?
Sự thật đúng là như vậy. Tôi chẳng có chút thông minh thực tế nào cả. Đầu óc tôi chỉ toàn những ý nghĩ và cảm tưởng. Anh ta đứng đó, cười nhạo tôi, khuôn mặt khuất lấp một phần dưới cái mũ lưỡi trai. Đôi mắt của Claude màu xanh lơ giống như mắt của Alexander nhưng chúng không nhìn lên một cách sắc đẹp, mà đang cố gắng xuyên thủng cái nắp hộp bằng gỗ dái ngựa.
– Cái áo đồng phục đó trông ngứa ngáy nhỉ.
– Quả thực là như vậy. Tôi đang muốn cởi phứt nó đi cho rồi!
Một người thợ đi lên chỗ cầu thang, tay cầm một hộp đồ nghề và một tấm kính, hỏi thăm căn hộ số 5.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng mình cũng có ảnh hưởng nào đó lên ông bác Sándor vì về phần tôi, vụ tranh luận về cái cửa sổ chỉ đơn thuần là một quan điểm trừu tượng nhằm xác định liệu ông có phải là một con người xấu xa như báo chí vẽ nên hay không. Tôi không tin rằng mình đã thắng trong cuộc tranh luận về cái sự đúng sai trong việc sửa cửa sổ mà chỉ nghĩ đây là một kiểu tặng quà nào đó cho riêng tôi, giống như những cái bánh kem và chiếc váy đầm đến lớp khiêu vũ tango - mong muốn thiết tha nhưng bất lực của ông làm cho tôi vui vẻ hài lòng.
Nhưng Claude nhìn tôi lúc người thợ lắp kính cẩn thận lắp tấm kính mới vào ô cửa sổ trong căn phòng chật hẹp và nói: “Cô đã điều khiển được lão già ấy theo ý thích của mình rồi, phải không?”
– Tôi chưa từng thấy cái phòng nào bé tí hon bằng cái lỗ mũi như cái phòng ở đây - người thợ lắp kính nói. - Thế này mà cũng gọi là căn hộ à?
– Đáng khinh quá, phải không? Có muốn ra vườn một chút không, cô em Miranda? Ra ngoài không tệ đâu.
Những buổi chiều thường là dài và chán sau những giờ làm việc cùng ông bác. Tôi hay đi xem một bộ phim, đi bộ trong công viên Hyde Park hoặc về nhà, đóng cửa phòng ngủ của mình lại và đọc sách.
– Anh vào đó bằng cách nào?
– Có một cái cửa nhưng lão ta lúc nào cũng khóa im ỉm. Tôi toàn leo ra ngoài cửa sổ rồi nhảy xuống.
Người thợ lắp kính đã gỡ tấm kính bị vỡ xuống và đang chuẩn bị mát-tít để gắn kính. “Cô em nhìn này. Chỉ cần nhảy xuống, thấp thôi ấy mà,” - Claude nói. - “Tôi sẽ xuống trước rồi đỡ cô em. Nhưng tôi phải thay đồ đã.”
Anh ta nhìn tôi suốt thời gian rút tay khỏi cái áo đồng phục và mặc vào một chiếc áo khoác da treo trên móc đằng sau cánh cửa ra vào; nhìn tôi không rời lúc chiếc áo phông màu trắng mặc ở trong bị giật lên bên trên lưng quần vải xéc của anh ta, tôi thấy bụng anh ta tai tái nhợt nhạt, có nhiều sợi lông màu đen mọc nhô lên từ bên dưới. Dấu ấn tai tái của những cơ bụng phủ bóng khắp làn da của Claude. Anh ta nhìn mãi theo tôi lúc tụt chiếc quần dài xuống, nhấc chân ra khỏi quần rồi mặc vào một chiếc quần jeans ống tuýp; nhìn xem tôi có liếc mắt đến chiếc quần lót trắng của anh ta không. Tôi quay đầu đi, thấy xấu hổ ngượng ngùng.
– Thế cô em có định đi không nào? - anh ta hỏi, nở một nụ cười mỉm trên cái miệng nhục cảm gợi tình, những chiếc răng nhỏ cắn vào môi dưới làm cho nó đỏ lên. - Quyết định đi. Còn tôi thì dù sao cũng sẽ xuống dưới đó đây.
Tôi quan sát anh ta cúi người luồn qua gờ cửa sổ, rồi nhảy xuống, nhẹ nhàng như một con mèo, tiếp đất bằng tứ chi, đứng thẳng người dậy và chìa hai cánh tay ra.
– Đừng sợ, - anh ta la to lên với tôi - tôi đỡ giỏi lắm.
Tôi cảm thấy trong miệng mình một sự hào hứng kích động về một kết quả chưa biết trước. Quay trở về căn phòng làm việc, đi bộ qua công viên, ngồi xuống một băng ghế, ngắm nhìn lũ chim nước rồi về nhà ở Benson Court hay là trèo qua gờ cửa sổ rồi thả mình rơi xuống.
– Cô em cứ định đứng đó suốt cả ngày hay sao? Cô có muốn xuống hay không nào?
– Tôi không biết. Tôi…
Và rồi, tôi nhảy xuống. Tôi rơi vào cánh tay của Claude. Chúng ôm tôi rất chặt. Tôi cảm thấy đôi cánh tay gầy nhưng chắc. Và giờ thì mặt tôi kề sát làn da thơm mùi chanh quyện cùng mùi thơm khuấy động của da thuộc và những chiếc khóa kéo ấm áp. Tôi đang được Claude ôm chặt. Rồi anh ta buông tôi ra.
Đứng dưới khu vườn, cỏ mọc cao tới đầu gối tôi. Những cây kế mọc vươn lên những chiếc lá mép làm chỏm răng cưa và thân đầy lông có chất độc. Những bụi cỏ chút chít thô ráp mọc kế bên chúng. Bồ công anh thì lớn bé non già đủ mọi giai đoạn phát triển, từ những bông hoa đang độ tươi tắn khỏe mạnh cho đến những bông đã khô, bung ra như những nùi bông xấu xí. Trên những khoảnh đất bạc màu, trơ trụi, mao lương hoa vàng và cúc đua chen nhau vươn lên cao về phía mặt trời. Những bụi hồng già cỗi bị đám quả tầm xuân màu nâu mọc từ mùa đông năm ngoái che lấp. Những cánh hồng màu đỏ khô héo nằm tả tơi lủng lẳng trên các cành. Thường xuân mọc ở khắp mọi nơi còn chồi non thì đang len lỏi vươn qua các cành của một bụi kim tước để hướng lên cao. Những dây bạc hà cắm rễ sâu vào đất để giành chất dinh dưỡng và bóp nghẹt cây oải hương đang nhú ra những mầm hoa đỏ tía. Một con mèo mướp ngồi trên hàng rào và bên dưới những cái cây bị bỏ hoang không người chăm sóc là hàng đống xương của những con chim nhỏ, chứng tích bi thảm cho lần bay đầu tiên thất bại của chúng.
Tôi ngước lên nhìn ngôi nhà, nhìn lên nhiều tầng và những khung cửa sổ bị chia cắt. Ông bác Sándor của tôi đang ở phía mặt tiền tòa nhà. Ông không thể trông thấy tôi đang ở dưới đây. Tôi không muốn ông trông thấy tôi. Tôi không muốn bị ông bắt gặp. Không phải với anh chàng này.
Trước đó, vào sáng sớm, trời đã có mưa. Tôi nghe thấy tiếng nước mưa rơi lộp bộp trên tấm kính khung cửa sổ và trở mình mãi không yên trong giấc ngủ. Đám cỏ ẩm ướt đã kết hạt và đâm ra những cái bao xoắn dài màu xanh lá nhạt mà ta hay dùng ngón tay tách ra để nhìn ngắm, xem xét những đốm nhỏ li ti, đầy lông ở bên trong, cỏ vẫn còn quá ẩm ướt đến nỗi không thể ngồi lên được nhưng Claude đã cởi chiếc áo khoác da của mình rồi trải nó ra cho tôi nằm lên.
– Chỗ này thật dễ chịu! - Claude nói. - Ở nhà, chúng tôi không có vườn, chỉ có một mảnh sân để chất thùng. Thế còn chỗ cô em thì sao?
Có một khu vườn chung đằng sau tòa nhà Benson Court. Gilbert thỉnh thoảng vẫn xách đồ uống ra đó ngồi vào buổi chiều tà và ngủ gục lên một cuốn sách. Đã có một vài ý kiến đầy tham vọng lan đi quanh khu nhà về kế hoạch tổ chức một bữa tiệc nhân lễ kỷ niệm ngày lên ngôi trị vì của Nữ hoàng Anh, có lẽ là dựng một cái rạp lớn, nhưng cuối cùng chẳng có gì xảy ra và tất cả chúng tôi xem toàn bộ là kỷ niệm trên ti vi.
– Chỗ chúng tôi ở thì có. Chúng tôi có một mảnh vườn.
– Vườn có luống hoa không?
– Có.
– Trên những luống hoa đó trồng gì?
– Ờ, chỉ trồng hoa thôi.
Tôi thực sự không biết tên của những bông hoa đó, ngoại trừ một thứ rõ ràng chắc chắn là hoa hồng. Khi tôi còn bé, một hôm mẹ tôi mang về một bó mù tạc và cải xoong. Thế là cả hai mẹ con chúng tôi cùng nhau xuống vườn. Tôi đã nhấn chúng xuống đất bằng chính những ngón tay của mình. Chúng tôi đợi trời mưa và rồi những cây rau ấy lớn lên. Chúng tôi cắt những mầm non, cho chúng vào món bánh mì sandwich kẹp trứng mà tôi đem đến trường. Sau đó, chúng tôi thử gieo hạt thục quỳ nhưng chúng không mọc được. Chồi non của chúng bị sâu và chết. Tôi giữ những con sâu bướm trong một cái hộp bút chì. Thế nhưng, nhìn cảnh chúng bò ngoằn ngoèo và hóa thân thành những con nhộng, tôi cảm thấy phát ốm. Rồi sau đó, tôi học để biết đọc và khu vườn trở thành một nơi tập họp những câu lạc bộ thể dục thể thao tưởng tượng, những con ngựa do tôi nghĩ ra và đặt cho những cái tên phức tạp lấy từ một cuốn tuyển tập những câu chuyện thần thoại Hy Lạp thời thơ ấu của tôi.
Tôi nằm ngửa lên đám cỏ. Phần hình tam giác của tấm kính cửa sổ nằm gần trên đầu tôi như thể một tấm gương phản chiếu khu vườn, tấm gương được hình thành một cách hữu cơ từ đất, đang vươn lên khỏi mặt đất. Vài đám mây mỏng tang bay nhanh bên trên tôi, lên tầng khí quyển cao hơn, hướng về bờ biển ở phía đông, trôi tới vùng cửa sông Thames rồi ra biển. Nó đang bay bên trên dòng xe cộ lưu thông. Có tiếng chim hót nghe gần hơn, lanh lảnh và liên tục hơn. Tôi đoán có lẽ đó là một con chim hét.
– Ở đây thật dễ chịu - Claude nói. - Tôi thích ra ngoài khu vườn này. Cái sân trong nhà chúng tôi bốc toàn mùi hôi thối từ đám lon đựng thức ăn cho chó đã dùng hết. Tôi không thể chịu nổi chó.
– Tôi cũng vậy. - Nhà của Alexander cũng có mùi chó. Nó làm cho tôi buồn nôn. - Mà anh đến từ vùng nào vậy? - tôi khỏi Claude.
– Cô em đã từng nghe cái tên Isle of Sheppey bao giờ chưa?
– Chưa. Đó là ở đâu?
– Nó nằm về hướng Đông, dọc theo con sông Thames, ở vùng cửa sông. Không xa lắm đâu nhưng chẳng có ai biết cái hòn đảo ấy cả, chẳng có ai đến đó, không có một vị khách nào cũng chẳng có một người lạ nào ở đó. Ngoài bố mẹ tôi ra, dân ở đó toàn là người nhập cư từ nơi khác đến. Đó là một điều tốt vì rồi thì ít nhất ta cũng biết rằng nếu có đường dẫn đến đó thì cũng có đường dẫn ra khỏi đó. Nếu ta không cần có hộ chiếu hay đại loại là một thứ giấy tờ như vậy thì cảnh sát sẽ chẳng bắt ta úp mặt vào tường khi ta cố kiếm thứ giấy tờ đó và lọt vào hạt Kent. - Claude bật lên một tiếng cười ngắn chẳng hề có chút hài hước nào mà nghe giống như tiếng sủa của một con chó căm hận.
Anh ta càng kể về Sheppey, tôi lại càng cảm thấy rằng tôi chưa từng bao giờ nghe nói đến một nơi nào buồn thảm, ảm đạm hơn nơi đó trong cuộc đời mình. Nơi đó chỉ toàn có đầm lầy, nhà tù, bến tàu, phân chó, gió và khung cảnh trống trơn phẳng lì. Claude nói, nếu ta hét to lên, tiếng hét đó sẽ vọng xa hàng dặm ra tới biển. Nhưng chẳng có ai từng hét lên bao giờ trừ phi người ta đang choảng nhau trên đường. Dân ở đó sầu não đến độ chẳng buồn cất giọng.
Bố Claude di cư từ Ireland tới Sheppey sau khi chiến tranh kết thúc còn mẹ anh ta xuất thân từ một gia đình thợ hàn nồi ở Kent, những người đã định cư ở hòn đảo để làm nghề mài dao và làm chăn lông ngỗng, lông vịt, đôi khi là lông của những con gà mà người ta đã bắt trộm từ các nông trại hay ở các ao. Bà mẹ Claude đã từng là thí sinh trình diễn áo tắm trong một cuộc thi hoa hậu và đạt giải nữ hoàng Vịnh Herne năm 1951 nhưng sau đó thì chẳng tiến thêm một bước nào xa hơn trong các cuộc thi sắc đẹp nữa. Khi gia đình anh ta bí bách tiền tiêu thì bà ấy đi ra ngoài cùng với một người bạn của mình và bán cây thạch nam trắng, niệm phù chú của dân Di gan vào thứ cây này để cầu may mắn cho người mua chúng và họ đã trở về nhà với tiếng cười và những đồng tiền lẻ kêu xủng xoẻng trong các túi áo đầm vải cotton của mình.
Tuổi thơ của Claude đi qua với những buổi đi lễ nhà thờ đều đặn vào mỗi chủ nhật, bị bố đặt tay lên lưng, đẩy ra ngoài đường tới buổi Thánh lễ. Bà mẹ thì không bao giờ đặt chân đến thánh đường. Bà ấy thờ những vị thần khác có những cái tên mà không ai nhận ra được là thần gì và cầu nguyện bằng một thứ ngôn ngữ mà chẳng thấy có ai sử dụng. Claude nói dân Di gan thực sự đến từ Ấn Độ nhưng anh ta không biết mẹ mình là người gì. Bà ấy thích những điều huyền bí. Dù vậy, bà vẫn là một người mẹ tốt đối với anh ta và anh ta nhớ mẹ mình rất nhiều.
– Thế bố anh làm nghề gì?
– Ông làm ở các bến tàu bốc hoa quả nhưng tôi nghĩ chẳng bao lâu nữa bố tôi sẽ bị cho nghỉ việc, trở thành người vô công rồi nghề suốt cả ngày. Đó là lý do vì sao bố mẹ tôi cho tôi đi xa khỏi hòn đảo Sheppey đó để tìm một công việc.
Đó là toàn bộ câu chuyện đầy đủ về Claude. Chỉ mất có vài phút để kể nó và đột nhiên tôi thấy xuất hiện trong mình cảm giác bối rối của một người vô gốc tích, theo như cách hiểu của tôi. Ý tôi muốn nói gốc tích là lai lịch gốc gác lâu đời của dòng họ, là câu chuyện về cách thức đời người này được nối tiếp như thế nào trong những kế hoạch vĩ đại của đời người khác. Cách đây một tuần, tôi cũng là người vô gốc tích nhưng bác tôi đã làm thay đổi tất cả điều đó.
– Cô em có muốn lát nữa đi dự tiệc với anh không?
– Tôi á? Đi dự tiệc với anh á? - Tôi sửng sốt trước lời rủ rê gạ gẫm này. Claude chỉ là một anh chàng sống ở tầng trệt, một nạn nhân của những khuynh hướng vô lương tâm của bác tôi, một anh chàng có một cái áo khoác da và một cái bể cá với những con cá cảnh sặc sỡ đủ màu. Khi anh ta mỉm cười, có hai nếp nhăn xuất hiện theo chiều thẳng đứng ở một bên miệng. Nhưng Claude không hay mỉm cười mà chỉ để bật ra những tràng cười thình lình và cộc lốc.
– Ừ, tại sao lại không chứ? Cô em nghĩ anh quá tầm thường không xứng đáng để xuất hiện cùng với cô em à?
– Thế đó là tiệc gì vậy?
– Còn sớm quá chưa nói được.
Trời lại bắt đầu đổ mưa. Một vài giọt rớt trúng mặt tôi và rồi những bụi cây bắt đầu oằn lá dưới sức nặng của những hạt mưa. Những bông hoa ngẩng đầu lên trời để uống. Tôi rùng mình rồi hắt xì mạnh đến nỗi rung hết cả xương cốt. Bởi cái hắt xì này và một cảm giác đột ngột quật vào sau gáy giống như một cú đấm thức tỉnh, tôi biết rằng mình vẫn còn sống, là một con người chứ không phải là một bóng ma.
– Chúng ta phải vào nhà thôi, - tôi nói. - Làm sao chúng ta trở vào nhà bây giờ?
– Anh hay leo lên ống thoát nước.
– Tôi không biết leo như thế đâu.
– Thế thì vẫn còn một cách. Đi nào.
Chúng tôi đứng dậy và Claude kéo một tấm ván vỡ của hàng rào sang một bên. Chúng tôi dọn đường chui qua một khu vườn kế tiếp cũng um tùm cỏ mọc giống như khu vườn vừa nãy. Cả hai chúng tôi băng qua nó đến một hàng rào xiêu vẹo khác. Cứ thế, chúng tôi đi qua bốn ngôi nhà và ra tới một ngõ nhỏ dẫn ra đường cái lớn. Cuối cùng, chúng tôi lại xuất hiện ở cửa trước nhà ông bác Sándor.
– Rốt cuộc thì ý cô em thế nào, tối nay có đến không? - Claude hỏi khi tôi quay người bước về phía ga tàu điện ngầm.
– Không, tôi… - Tôi lại hắt xì, liên tiếp bốn cái liền. Cái lực vô tình này đã nắm chắc lấy tôi, nhắc nhở tôi một lần nữa rằng tôi vẫn chưa chết mà hãy còn sống. Nhưng sống vì mục đích, vì ý định gì? Phải sống ư? – “Có lẽ tôi sẽ đến” - tôi nói với Claude.
– Tốt lắm. 11 giờ nhé, dưới vòm cầu Hungerford. Anh sẽ đợi cô em ở đó.
– Đừng trông đợi, hi vọng gì nhiều đấy.
Claude hôn lướt một cái thật nhẹ và nhanh lên một bên má tôi rồi nhảy ba bậc thang một vào tòa nhà.
* * *
Thời đó thật khó mà thức cả đêm ở London. Bạn phải biết nơi nào có thể nhìn ngó, tìm kiếm để phát hiện những ả gái trẻ trung có sức quyến rũ mồi chài đàn ông. Nhưng giới lái tàu điện ngầm, những người thổi còi và đóng mở các cửa ở ga tàu điện ngầm lại thấy thành phố hoàn toàn khác hẳn với những gì mà dân bình thường chúng ta sống trên mặt đất nhìn thấy. Họ lúc nào cũng di chuyển và không có những hạn chế về tinh thần như chúng ta.
Tôi cảm thấy hết sức e dè, sợ hãi. Tôi không biết cách ứng xử hay ăn mặc như thế nào. Ta không thể lớn lên ở cái thành phố London này mà không biết rằng có một thành phố bí mật tồn tại, một thế giới ngầm dưới lòng đất thay đổi kỳ lạ giống như những con đom đóm xuất hiện khi màn đêm buông xuống, một thế giới ngầm dưới lòng đất với những người đàn ông cơ bắp lực lưỡng, những thằng con trai đường phố thoa son môi, những đứa con gái nhuộm tóc xanh lá cây, những gã đồng tính luyến ái tóc nhuộm màu bạch kim pha vàng, những thứ được sơn phết màu vàng chẳng rõ thuộc về giới tính nào.
Hồi tưởng về cái mùa hè năm đó, tôi nhớ gần như tất cả mọi thứ mình đã mặc. Tôi có thể kể vanh vách tất tần tật mọi thứ trong tủ quần áo của mình nhưng đêm đó, chiếc tủ hoàn toàn trống rỗng. Tôi thay hết bộ này đến bộ khác cho đến khi chiếc giường ngủ chất đầy đống quần áo vứt ra, hàng núi những bộ đồ lụa, nhiễu, nhung; dây thắt lưng; khăn quàng; giày cao gót; quần jeans; chiếc quần tây ống loe; áo lót và quần lót chẽn gối. Cảm giác hết sức phân vân không biết nên mặc bộ đồ gì đã làm cho trí nhớ của tôi bị xóa sạch hết mọi nhiệm vụ và khiến tôi không tài nào hình dung ra được sự lựa chọn cuối cùng của mình là gì. Điều này quả thật là kỳ lạ vì tôi vẫn nhớ lại được tất cả mọi thứ khác. Không những thế, còn nhớ như in. Tôi vẫn thường quay trở về với miền ký ức đó mỗi khi thấy khó ngủ.
Tại cầu Hungerford, dưới vòm cầu, nơi những người nghèo hèn và những kẻ nát rượu trú ngụ, lửa đã được đốt lên từ những thứ rác dễ cháy và ánh lửa bập bùng soi sáng những bức tường thấm nước nhỏ giọt. Bên trong, cách đó khoảng chỉ hơn nửa mét, mùi nước tiểu khai nồng khai nặc xộc thẳng vào phổi người ta đến ngộp thở.
Và tôi cũng bị choáng trước hình ảnh xuất hiện của Claude, vẫn trong chiếc áo khoác da và đang đứng dựa vào tường. Hình ảnh đó chỉ có chút tì vết xấu xí vì cái cách anh ta đứng cong hai chân về phía sau trong chiếc quần jeans ống tuýp như thể đôi chân muốn đi thụt lùi trong khi cơ thể lại đang tiến lên phía trước. Đôi chân đã phủ nhận vẻ phong nhã của Claude. Nhưng ngoại trừ điểm ấy, Claude có thể trở thành mẫu để cho danh họa Da Vinci vẽ phần đầu vì anh ta có đôi mắt mí bụp, chiếc mũi sắc sảo và cái miệng đẹp hoàn hảo, gợi tình.
– Hi vọng là cô em sẽ quen với tình huống mới, - anh ta nói - chúng ta chuẩn bị đi ra sông.
– Anh chẳng báo trước cho tôi tí gì về chuyện thuyền bè cả.
– Anh cũng đâu có biết. Ta chẳng biết tí gì cho đến tận phút cuối. Anh phải gọi điện thoại tới và rồi người ta mới nói cho mình biết. Chuyện là như vậy đấy. Anh đã nói cho cô em biết chưa ấy nhỉ?
Nhưng trước đó anh ta gần như chẳng nói chút gì cho tôi biết. Anh ta là bậc thầy của việc lẩn tránh, thoái thác những điều đã biết.
Chiếc thuyền mà chúng tôi leo lên là một chiếc thuyền nạo vét. Máy của nó kêu ầm ĩ, đánh tung bọt sóng ở đằng sau khi chúng tôi chống sào đẩy thuyền qua lớp phù sa của sông, rời xa Embarkment[43].
– Mình có được phép ra đây không? - tôi hỏi.
– Không hẳn.
Đó là một kiểu tiệc tùng kỳ lạ. Chẳng có âm nhạc, chẳng có thức uống, chỉ là một đám tụ tập nhảy múa hỗn loạn không ngừng trên tàu, một cách thưởng thức cái đẹp suy đồi, sa đọa. Một cô ả thoa son môi màu bạc để ngực trần lồ lộ giữa bầu không khí ban đêm. Hai núm vú cô ta phồng lên và có màu đỏ bầm giống như những trái nho. Một gã tự trói hai chân mình bằng dây xích và khóa - một gã ảnh hưởng phong cách Houdini[44]. Có rất nhiều ma túy, chủ yếu là thuốc lắc. “Cái này hay lắm” - Claude vừa nói vừa lựa những viên ma túy trong lòng bàn tay mình. “Nó làm mình bay được đấy, nhưng anh sợ bay lắm. Đây mới là cái mình cần, để làm cho mình thấy phấn chấn lên.”
Tôi mới chỉ hút có vài điếu bồ đà hồi ở trường đại học. Thuốc lắc với những màu sắc làm tôi thấy căng thẳng. Tôi thích được uống một ly rượu hơn nhưng ở đây chẳng có rượu, chỉ có những con người xa lạ này đứng trên boong thuyền rỉ sét cũ kĩ, bầu trời tối đen, trăng cứ hết chui ra rồi lại chui vào những đám mây.
– Uống đi nào. - Claude khuyến khích tôi - Thôi, uống đi.
Tôi lắc đầu.
– Anh sẽ không đưa cô em qua khắp các phố về nhà chỉ vì cô em buồn ngủ mơ màng đâu đấy.
– Tôi không muốn thức cả đêm. Tôi không bao giờ hợp với chuyện thức trọn cả đêm như vậy cả. Tôi không…
– Thôi, uống đi nào, em - Anh ta nói nhẹ nhàng và đặt những ngón tay mình lên đôi môi của tôi rồi tách chúng ra. “Em thực sự có một hàm răng đẹp, trắng đều tăm tắp như ngọc trai. Thôi mở miệng to ra nào. Nhanh đi nào! Nhanh lên! - Lưỡi của tôi thè ra và liếm lấy ngón tay của anh ta. Nó không thể cưỡng lại chính mình. Claude mỉm cười. “Cái đó dễ chịu lắm”. Anh ta đặt viên thuốc vào lưỡi tôi và nó trôi xuống họng tôi một cách dễ dàng.
Tôi cảm thấy như mình đã bị phê thuốc đờ đẫn, rằng thậm chí trước khi tôi uống viên thuốc từ tay Claude, tôi đã không còn giữ được đầu óc tỉnh táo nữa. Đó là bởi bầu trời đêm, dòng sông và mùi da thịt của anh ta. Tôi bị anh ta đánh thức. Thật là kỳ quái, thật là thô thiển, thật là quá sức bất ngờ.
Chất ma túy làm cho tôi say chính là vẻ đàn ông của Claude, sự tự tin và chắc chắn của anh ta - sự tin chắc vào sức hấp dẫn gợi tình của mình và cả việc chẳng có thứ gì giúp tôi hiểu về anh ta. Đảo Sheppey, Sheerness. Những bến cảng bốc dỡ hoa quả. Người mẹ với những con dao và lông gia cầm. Bức ảnh trên bệ lò sưởi chụp bà trong bộ đồ tắm, khăn quàng vai và vương miện đội đầu. Người cha ngồi trong nhà bếp đọc sách. Cái ròng rọc để treo mổ gia cầm và mùi của những chiếc áo lót ẩm ướt đang khô đi trong cái hơi nóng của lò lửa than. Tất cả những gì về anh ta chỉ có thế.
Chiếc thuyền nạo vét xuôi về hạ lưu. Chúng tôi đang đi về hướng đông, tới Woolwich, nơi người ta đang xây những hàng rào chắn bằng thép để chặn nước lũ. Xa hơn nữa là vùng biển bao la rộng mở của Biển Bắc. Tất cả mọi thứ đang lấp lánh rạng rỡ: những ngôi sao nhấp nháy, vầng trăng lưỡi liềm trông giống như một con dao bạc cong cong, ánh trăng trải khắp bờ sông. Tôi cảm thấy một tình trạng không trọng lượng lẻ loi, đơn độc, như thể mình là không khí hay năng lượng. Không đói cũng chẳng khát. Con thuyền dường như tiến về trước một cách chậm chạp nặng nề và phù sa của dòng sông khuấy tung lên cản trở sự đi tới của tôi, cản trở tôi chạy dọc theo sông Thames, phóng trên mặt nước.
– Nhìn em kìa, - Claude nói.
– Em sao?
– Em đúng là phấn khích lắm rồi.
– Vậy hả? Em thấy mình khác lắm. Em thấy tuyệt, thực sự rất tuyệt nhưng miệng em có vị như là kim loại ấy. Chúng ta đang đi ngang qua cái gì đây, anh có thấy không, còn bao xa nữa chúng ta mới tới biển, cái cầu mà chúng ta sắp chui qua là cầu gì. Em không nhận ra nó khi trời tối như thế này mà thực ra em cũng chẳng biết gì về mấy cây cầu. Em không rành về phía bên kia cây cầu đâu. Đường sá ở đó rộng lớn hơn. Em nghĩ khu đó hẳn là khác nhưng em không đi đến đó, chỉ đến South Bank[45] xem phim, kịch hay hòa nhạc chứ chẳng có gì khác. Đây là khu em có quen một cô bạn ở Lewisham nhưng chưa bao giờ đến chơi nhà cô ta. Chúng em toàn gặp nhau ở phố và… - Hàng loạt những điều vớ vẩn tầm thường liên tục thi nhau xô ra khỏi đôi môi của tôi khiến tôi thấy phát hoảng. Tôi có thể tiếp tục nói tràng giang đại hải như thế này đến bao giờ? Tôi không thể ngừng lại được. Tôi tuôn ra bất cứ điều gì xuất hiện trong đầu.
Nhung Claude chỉ đứng, hút một điếu thuốc rê. Anh ta trông thờ ơ và kiềm nén.
– Làm cách nào mà em trở thành người làm công cho cái lão già đó? Làm công về giấy tờ phải không?
– Em gặp ông ấy ở công viên, khi em đang đi ngang qua đó... Ông ấy đang ở bờ hồ ngắm lũ chim nước còn em thì đang ngồi ở băng ghế của ông ấy. Thế là em với ông ấy bắt chuyện với nhau. Ông ấy đề nghị em làm một số việc và em…
– Ông ta trông trắng khiếp lên được, nhỉ? Cái vẻ ngoài thường có khi ta bị nằm khám.
– Ông ấy có ra ngoài chứ. Ông đi nhảy với…
– Em biết ý anh nói là gì mà.
Tôi đã liếm ngón tay của Claude. Tôi đã để cho anh ta chuốc ma túy. Anh ta đang đứng trên boong của chiếc thuyền sắt cũ kĩ chạy không ngừng trên sông này, dưới vầng trăng giờ đã trở nên mờ đục như sữa, trong chiếc quần jeans ống tuýp và chiếc áo khoác da, đôi ủng vải bạt đỏ, tóc cắt đầu đinh, cái miệng khêu gợi nhục tình và hàm răng nhỏ, đôi mắt xanh lơ đang dò xét tôi. Tôi cảm thấy như mình đang bị lợi dụng nhưng lợi dụng vì cái gì? Cái gì? Tất cả mọi người đang lợi dụng tôi: bác tôi đang chuyển những thông điệp của mình cho người em trai của ông ấy thông qua tôi. Nhưng chẳng phải bị lợi dụng vẫn còn tốt hơn là vô dụng sao?
– Anh chỉ biết có mỗi một chuyện là phải gọi lão ta là Ông K như lão ta yêu cầu anh. Lão trông giống hệt như bánh bột ngô nướng ấy. Ái chà, Ông K đặc biệt!
– Ông ấy có một cuộc đời phức tạp - tôi nói.
– Chẳng phải tất cả chúng ta cũng đều thế cả sao?
– Đời anh phức tạp như thế nào?
– Chẳng bao giờ có thứ gì giống như vẻ bề ngoài của nó. Bà ngoại già nua của anh đã dạy cho anh điều đó trước khi bà chạy trốn về Ireland cùng với những món tiền lương của bố anh và chiếc đồng hồ vàng mà mẹ anh đã trúng trong một cuộc xổ số.
Chúng tôi đang đi xa hơn về hướng đông, qua đài thiên văn Greenwitch và những đường lãnh tuyến của nó. Tất cả mọi múi giờ được suy ra từ đây. Phía trên chúng tôi là Isle of Dogs, thực ra không phải là một hòn đảo mà giống như Sheppey, nó chỉ là một ụ đất nhô ra giống như một ngón tay cái nhấn mạnh xuống dòng sông. Rồi chiếc thuyền quay đầu lại. Thân của nó hướng về hướng tây, tới Teddington. Hành khách đang chìm trong điệu nhảy lặng lẽ nhưng lâng lâng mê ly trên boong. Những cái bóng hiện lên mờ mịt nhập nhòe.
Claude vòng một tay quanh người tôi và hôn lên mái tóc tôi. Tôi biết đó là khởi đầu của một điều gì đó mà tôi không thể cưỡng lại nổi, thậm chí cũng không muốn cưỡng lại làm gì. Tôi là một cô gái 24 tuổi, một cô gái đến từ khu Tây London, là một đứa trẻ của tòa nhà Benson Court với khu vườn khép kín, thang máy sắt, bà vũ công ballet già đi lảo đảo trên đầu các ngón chân vào lúc giữa trưa, những cuộc chè chén bí mật, những cô bồ nhí giấu giếm, những nỗi sợ hãi và những niềm đau khổ đằng sau những cánh cửa đóng kín. Ở trên dòng sông với hai bên bờ sáng lên khi mặt trời bắt đầu nhú ra ở đường chân đồi, tôi cảm thấy niềm phấn khởi kỳ lạ của một người thủy thủ không có bến cảng quê hương, chỉ biết đến bến cập tiếp theo bất chấp nó có thể ra sao, đủ mọi hiểm nguy và mọi khả năng xảy ra. Nhưng bản thân biển cũng là nhà. Mặt nước không bao giờ đứng im ổn định mà luôn lên xuống thay đổi, chuyển động, rúi tới rút lui theo lực hút của mặt trăng.
Đôi bàn tay của Claude sờ soạng lên bộ ngực lạnh ngắt của tôi. “Anh sẽ sưởi ấm cho em,” - anh ta nói.
Bình minh ló dạng đằng sau chúng tôi. Tại cầu Southwark, người ta đang kéo một cái bọc nặng lên khỏi sông. Claude nói đêm nào cảnh sát đường sông cũng đi tàu ra sông để tìm kiếm những người tự tử và tìm thấy những cái xác trôi nổi hay những cái tay, cái chân đang phân hủy mắc kẹt trong đám rong kết bè kết mảng. Áp phích được dán khắp thành phố và thường thì những cái xác cũng được nhận diện ra là ai nhưng thỉnh thoảng sau nhiều năm trời nằm trong nhà xác mà không có ai đến nhận, chúng được chôn xuống huyệt của những người nghèo không rõ danh tính. Một cảm giác ghê rợn phủ khắp người tôi cùng một nỗi buồn trước cảnh một người có thể chẳng có một mối dây liên hệ nào với cuộc sống, có thể bị mất tích và chẳng được ai tiếc thương nhớ đến. Khi toàn bộ sức nặng của dòng tộc rơi xuống gia đình tôi, gia đình Kovacs, cũng có nghĩa là chúng tôi đang liên quan gắn bó sâu sắc với thế giới này, thậm chí cho dù bố tôi nghĩ rằng ông đóng chặt cửa và sống một cách ẩn dật. Nhưng nếu bà Prescott quyết định nhảy khỏi lan can đá, đầu đội chiếc mũ quả chuông, nhận chìm cái miệng cong như cánh cung thần Tình yêu xuống dưới làn nước sâu kia thì ai sẽ thông báo về sự vắng mặt của bà ấy? Lòng thương cảm trắc ẩn đang giằng xé chống lại tâm trạng phấn chấn do chất kích thích ào ạt dâng lên trong tôi.
Nhưng Claude vẫn nhìn chằm chằm vào cái hình thù trên boong tàu của cảnh sát.
– Hồi trước, mấy cái thây hay giạt vào một bãi biển gần chỗ anh với em đang đứng đây, - Claude kể. - Khi bọn anh còn nhỏ, bọn anh hay ăn cắp ví của mấy người chết rồi hơ khô tiền trước lò sưởi. Đó là nếu trong ví có tiền, nếu ta gặp may. Ta buộc phải bỏ nhẫn và đồng hồ trả về ví vì ta không thể tống khứ chúng đi được, đó là trong trường hợp nếu ta không khá say mê chúng. Thỉnh thoảng, mấy thằng lớn cũng trấn mất của bọn anh rồi chỉ đưa cho bọn anh có 6 penni. Nhưng chuyện đó chẳng đáng để bận tâm. Còn, tiền thì lúc nào mình cũng có thể đổi được, đặc biệt là tờ 10 shilling. Ta chỉ cần nói là đổi tiền cho mẹ mình.
– Eo ôi, khủng khiếp quá!
– Sao cơ? Ý em nói bọn anh là lũ vô lương tâm ấy hả?
– Không, ý em nói là mấy cái xác kia.
– Đúng là đôi khi chúng cũng bốc mùi thật. Em biết không, lũ cá rỉa mất đôi mắt và hòn dái vì mấy thứ đó mềm mà. Mấy người đó phần đa là những kẻ chán đời tự vẫn. Thỉnh thoảng mới có mấy tay thủy thủ bị chết đuối.
– Đó là tuổi thơ của anh hả? Đi cướp túi tiền của người chết?
– Anh có bao giờ nói là anh không có một tuổi thơ nghèo khổ, túng quẫn, chẳng có vườn hoa, chẳng có gì hết đâu. Thôi lại đây, hãy cho anh một nụ hôn nữa nào, cô gái kiêu kì!
Trời đã sáng bạch. Chiếc thuyền nạo vét nhổ neo quay về Embarkment và chúng tôi dọn đồ để lên bờ. Trong ánh nắng mặt trời ban mai, những ả gái trẻ chuyên mồi chài quyến rũ đàn ông trông bơ phờ, bệ rạc; quần áo te tua, rách rưới còn lớp son phấn bôi trát đêm trước thì nhòe nhoẹt khắp trên mặt. Giờ này vẫn còn quá sớm nên xe buýt vẫn chưa chạy.
Chúng tôi cuốc bộ hàng dặm cho đến khi tìm được một quán cà phê ban đêm gần một trạm xe buýt. Thành phố vẫn cửa đóng then cài. Chẳng có một thứ gì gây khuấy động. Ta có thể đi bộ xuống những vạch vàng ở giữa tim đường. Ta có thể chạy và gõ lạch cạch cửa của những nhà ga điện ngầm. Ta có thể hú giống như nữ thần báo tử ngay giữa phố Oxford Circus mà chẳng có ai nghe thấy cả. 5 giờ sáng. Tất cả đồng hồ cùng đồng loạt đổ chuông, vang lên ngân nga từng hồi.
Quán cà phê toàn những nhân vật đi chơi, đi làm đêm và những người ưa dậy sớm, những người không có nơi nào để đi. Một màn sương mù mờ ảo phủ lên tất cả mọi vật. Chiếc ghế cao mà chúng tôi đang ngồi cứ quay tròn mỗi lúc một nhanh.
– Anh sẽ nói cho em biết điều mà em sẽ thấy thích ở anh, - Claude vừa nói vừa búng nghịch điếu thuốc rê nhỏ tự vấn của mình và uống trà ngọt. Giọng anh ta nghe như từ một nơi nào đó xa xôi vọng lại. - Anh đi ra khỏi cổng giống như một con chó săn thỏ.
– Ý anh muốn nói là gì cơ? - tôi hỏi, giọng như dội lại, gõ nhẹ trong đầu.
Claude cười: - Rồi em sẽ thấy.
Một tiếng sau, ở trong phòng của Claude, tôi lại có một trải nghiệm đơn giản, cởi mở của những gì đã mất kể từ khi chồng tôi qua đời. Trong vài phút, tôi bị mất ý thức và cứ nhìn quanh để tìm ánh mắt anh ta đang nhìn tôi, đôi môi anh ta ướt át còn cặp mắt thì sẫm lại. Đó là một cảm giác không thể diễn tả nổi về việc phạm phải một điều tội lỗi mà tôi không thể tha thứ được dù tôi không tin vào chuyện tội lỗi hay lỗi lầm. Nhưng tôi đã làm gì nào? Tôi đã làm tổn thưong ai chưa? Tôi thích chuyện này. Tôi yêu việc này. Đơn giản chỉ có thế.
Chú thích:
[41] Soho là một quận nằm ở khu Tây London.
[42] Maison Bertaux là tiệm bánh ngọt lâu đời nhất London, sản xuất bánh ngọt hảo hạng nhất thành phố này.
[43] Một công trình đê quai được xây dựng vào thế kỷ 19 nhằm khai khẩn vùng đất ngập nước nằm cạnh bờ sông Thames ở trung tâm London.
[44] Harry Houdini (1874 - 1926) là một người Mỹ gốc Hungary nổi tiếng với sự nghiệp ảo thuật trốn thoát, biểu diễn nhào lộn, diễn viên và nhà sản xuất phim về các màn tẩu thoát giật gân của mình.
[45] South Bank Centre là một khu phức hợp biểu diễn và trưng bày nghệ thuật lớn nhất thế giới, nằm ở bờ nam sông Thames, thủ đô London.