Chương 13
Chính trong buổi làm việc tiếp theo của chúng tôi, bác tôi đã nói với tôi về một điều đã gây cho tôi một ấn tượng sâu sắc. Ông nói, từ những quan sát của mình khi còn là một lao động khổ sai, ông đã nghiệm ra một điều là con người có khả năng chịu đựng giỏi hơn loài vật rất nhiều. Chẳng hạn như một con ngựa mà xương sườn vẫn có da có thịt đột nhiên rũ xuống chết giữa đường trong khi một người gầy còm ăn mặc tả tơi rách rưới vẫn cứ tiếp tục lê bước, vẫn tiếp tục gắng gượng được lâu dù trước đó lục phủ ngũ tạng của anh ta đã bị cái đói cái khát tàn phá đến mức không thể phục hồi lại được. Chỉ có những kẻ đã đánh mất nhuệ khí mới nhanh chóng bị khuất phục nhưng nếu ta có thể giữ được trí tuệ tỉnh táo minh mẫn thì ta vẫn có sức làm nên được những điều phi thường về khả năng chịu đựng.
Và bác tôi cũng hết sức lấy làm thú vị khi nhận thấy trong nhiều trường hợp con người ta cuối cùng lại trở về đúng hệt như bản chất ban đầu của mình. Bác tôi lập luận, suy cho cùng, sâu trong thâm tâm, người ta ai cũng đều quan tâm đến những điều giống nhau trong suốt cuộc đời mình: tình dục, cái ăn, quyền lực, ý tưởng - nếu đó là lợi ích của họ. Dĩ nhiên kẻ bẳn tính vẫn cứ là kẻ bẳn tính nhưng vẫn có một số người lúc nào cũng giữ nguyên bản tính lạc quan yêu đời, khiếu vui vẻ hài hước, thái độ thích thú vui đùa và tình yêu cuộc sống không thể nào hủy diệt được.
– Thế còn bác thì sao? - tôi hỏi.
– À, tôi là một trong số những người không thay đổi. Tôi bắt đầu với tư cách là một dân kinh doanh và đó cũng là cách mà tôi tiếp tục sống.
Quả là hết sức kỳ lạ khi ta nhận ra rằng trong khi ta đang xem những cuốn phim cũ trên ti vi về tên độc tài Hitler có bộ ria bàn chải huênh hoang đọc những bài diễn văn rỗng tuếch, về những cuộc tuần hành rầm rộ, về cách chào hỏi theo kiểu nhà binh cứng đơ và những cuộc diễu hành diễn ra ở khắp mọi nơi, về lá cờ nổi tiếng đang đứng đó thu hút sự chú ý, về mối hiểm họa nổi tiếng đó cùng với những gì mà nó gây ra - phải, trong khi ta theo dõi tất cả những sự kiện đang xảy ra này thì thiên hạ vẫn tiếp tục mua sắm giày dép, túi xách tay, váy áo dự tiệc, đĩa hát, đồ trang trí hay lựa chọn một cái xe hơi mới, một món đồ không dây mới, hay đơn giản là chỉ ngồi ở quán cà phê ăn bánh kem.
Trong lúc người ta mải mê với chuyện mua sắm, hưởng thụ đó thì trên đường phố đã xuất hiện nhiều ký hiệu, chẳng hạn như ký hiệu là biểu tượng của lực lượng Mũi tên chữ thập[46], thứ mà bác tôi đã vẽ ra trên một tờ giấy cho tôi xem và nó trông giống như thế này:
HÌNH 1
Tôi phải luôn nhắc mình nhớ rằng vào năm 1938, bác tôi mới chỉ 22 tuổi, tức là trẻ hơn tôi 2 tuổi vào thời điểm mùa hè năm 1977 khi tôi gặp ông. Cũng giống như tôi, bác tôi bắt đầu thử và thích thú với những bộ cánh hào nhoáng hàng “độc”. Ông muốn có những thứ đương là mốt và thường lang thang quanh các cửa hàng để lùng những món hợp thời trang nhất, thường đi xem phim và để ý rất kỹ những gì mà các ngôi sao điện ảnh đang mặc lúc đó rồi tìm xem liệu mình có thể tìm được những thứ hàng nhái giống vậy không. Thế nhưng, chỉ vài tháng sau, ông bị bắt đưa đi lao động khổ sai, mặc một bộ đồ mà trong suốt bốn năm rưỡi tiếp theo không bao giờ rời khỏi lưng ông. Trong suốt quãng thời gian đó, ông giữ cho đầu óc của mình không bị điên bằng cách tưởng tượng mình đang nằm dài trên những chiếc ghế nằm ở quán cà phê Astoria, tán tỉnh những cô nàng của mình và ăn vận một bộ cánh đẹp đẽ. Bất cứ khi nào ông ngủ và mơ, ông đều thấy mình như vậy, quên đi thực tại là một nô lệ trong bộ dạng rách rưới, ông nghĩ đến những đôi ghệt, đến những cái cà vạt và ghim cài, những chiếc túi Oxford, những chiếc áo veston cài chéo, đến những cái gấu quần lơ vê, những đôi giày da của dân chuyên leo núi, đến những dây đeo quần thêu tay và những chiếc giày múa nhạc kịch.
Bác tôi bị bắt đi lao động khổ sai cùng với bố mình vào năm 1939 ở Đơn vị Dịch vụ lao động 110/34 của quân đội Đức Quốc xã. Người Do Thái bị liệt vào hàng những kẻ “không đáng tin cậy”. Nói cách khác, họ không đáng tin tưởng để giao súng, thậm chí là quân phục. Họ mặc đồ của riêng mình và đeo một băng tay vàng. Những đơn vị làm công việc chân tay nặng nhọc này nằm dưới quyền của các bộ tư lệnh tiểu đoàn vùng trực thuộc Bộ Quốc phòng và do các sĩ quan quân đội Hungary, thường là những hạ sĩ quan, chỉ huy. Có thể nói, chuyện được làm việc dưới quyền chỉ huy của một viên sĩ quan hiền lành, tử tế hay một kẻ tàn bạo bài Xê-mít của lực lượng Mũi tên chữ thập giống một kiểu rút thăm may rủi hay số phận, nếu ta thích gọi là như vậy.
Trong hai ba năm đầu chiến tranh, với cuốc xẻng được trang bị, họ hoạt động bên trong lãnh thổ Hungary, xây dựng các tuyến đường sắt, đào hào và bẫy xe tăng, phá mìn. Những công việc thường lệ. Ông nội tôi, một nhân viên kinh doanh mũ, một chuyên gia tự học về tôn giáo so sánh, lạ thay, lại thích ứng được với hoàn cảnh mới là tiếp tục sống ở vùng nông thôn. Và cũng đáng ngạc nhiên thay là mặc dù bố tôi được thừa hưởng khung xương nhỏ và đôi mắt cận thị từ ông nội tôi (bà nội tôi to béo hơn và bác Sándor giống bà) nhưng ông vẫn sống vá víu và có thể chịu đựng qua được những thời kỳ dài không có thứ gì ăn. Bố tôi ắt hẳn là có đường huyết rất ổn định.
Còn bác tôi, một kẻ dắt mối và một tay chơi ở Budapest, mới 23 tuổi mà đã có cằm nọng, cái cằm tạo nên một hình ảnh giống Hitchcock trong hồ sơ tiểu sử về sau, hình ảnh mà báo chí Anh đã đặt câu hỏi liệu đây có phải là gương mặt hiện thân cho quỷ dữ hay không. Với thân hình béo đẫy vì bánh kem và bánh kếp kẹp sơ ri tại những quán cà phê ở Budapest, vừa ngay khi cầm tới xẻng là ông đã cảm thấy tim mình đập thình thịch rồi. Tất cả mọi người được lệnh phải mang theo một va li. Ông bác Sándor nhét đầy nào là áo sơ mi, cà vạt, rồi áo veston và cả giày vào đó. Nhưng, ngay trong ngày đầu tiên lao động, phải leo một quả đồi dốc dưới cái nắng như thiêu như đốt, ông liền vứt bỏ chúng. Kho quần áo được tuyển lựa này của bác tôi được đem trở lại thành phố và được phân phát cho bọn Mũi tên chữ thập để rồi bọn chúng diện đúng những bộ quần áo đó đến đúng những quán cà phê mà bác tôi từng thường xuyên lui tới. Vậy là, về một nghĩa nào đó, bác tôi vẫn hiện diện ở đó dù không có mặt trực tiếp với con người bằng xương bằng thịt. Và những bộ đồ mà ông để lại nhà, không mang theo vào buổi sáng năm 1939 đó cũng chính là những bộ đồ mà ông mặc khi quay trở lại Budapest vào năm 1945 dù lúc này chúng không còn theo bộ với nhau và trông giống như một loài nấm mọc ra từ da của ông.
Năm 1943, tại Starry Oskol, thành phố bị dội bom mà ngày nay thuộc về lãnh thổ của Liên bang Nga, đơn vị của bác tôi phải dọn dẹp đống đổ nát. Họ hành quân khắp thành phố hàng giờ liền để tìm kiếm một chỗ trú chân nhưng chẳng thấy một tòa nhà nào còn nguyên vẹn. Bữa ăn của họ là trà đen và súp bột mì. Họ ngủ ngoài trời và hơ tay trên những đống tro tàn để sưởi ấm. Tại Pieti- Lepka, một ngôi làng nhỏ gần Veronezh, đôi chân của họ bị sưng phồng vì sương giá rét buốt. Họ đi lạc qua bao nhiêu đồng tuyết đóng băng cứng như đá và những người bị thương - mấy tên sĩ quan chỉ huy Hungary gọi là “hàng lỗi” - bị bỏ lại cho chết ở đằng sau.
Đến lúc này, họ bắt đầu trở nên hơi điên khùng. Bóng đêm thăm thẳm, sự kinh hãi, nỗi khiếp sợ cái chết.
– Có phải nhờ sợ chết nên bác mới sống sót được phải không? - tôi hỏi ông bác Sándor.
– Đúng là như vậy nhưng một phần còn nhờ vào chuyện xảy ra mà chúng ta sắp nói tới.
Năm đó, họ đã đi trọn một quãng đường dài một nghìn kilomet từ Male Bikoro tới Belograd trong vòng chính xác 30 ngày, với một khẩu phần ăn chỉ có một lạng bánh mì mỗi ngày cùng với nước nóng và vài miếng cà rốt nổi lềnh bềnh. Họ đã tới gần khu vực do Liên Xô chiếm giữ và có khả năng chạy trốn sang quân Đồng minh. Nhưng bác tôi kể lại rằng, trước đó, họ đã được cảnh báo là không nên đánh giá cao lòng hiếu khách của người Nga.
Bác tôi và ông nội tôi lúc nào cũng đi cùng nhau. Người bố hầu như im lặng suốt quãng đường di chuyển dù có một vài tối, ông ra một góc và có những cuộc bàn luận đến kiệt sức về học thuyết với một giáo sĩ Do Thái đến từ Debrecen. Ông bác Sándor của tôi đã giúp đỡ bố mình hết sức có thể nhưng khi đến Zhitomir, cả hai đều bị mắc bệnh sốt Rickettsia[47] và được chuyển tới một trại cách ly ở Krasno Ceska. Lúc này, mọi người đã phát điên. Một người đàn ông la hét gào rú rằng đôi chân của ông ta đã bị cắt cụt tới háng. Một người khác nói anh ta cần phải có một cái đồng hồ báo thức và anh ta kêu to một cách thảm thương rằng có ai cho anh ta một cái đồng hồ báo thức hay không. Anh ta cần phải gặp người vợ sắp cưới của mình ở nhà ga. Nếu anh ta mà ngủ thì anh ta sẽ không thể dậy đúng giờ để bắt kịp xe điện đến ga, và anh ta sẽ lỡ chuyến tàu chở người vợ sắp cưới.
Ảo giác của bác tôi là một trong những điều kỳ lạ nhất mà tôi từng nghe đến, ảo giác về thể chất. Ông nghĩ rằng cơ thể ông không hiểu sao bằng cách nào đó bị chia ra làm đôi và phần dưới cơ thể là của một người khác. Khuôn mặt, ngực, bàn tay, cánh tay là ông, Sándor Kovacs, nhưng háng, tinh hoàn, đôi chân là của một người đàn ông khác, một người xa lạ. Bác tôi cố gắng chạy trốn khỏi con người xa lạ đó nhưng ông không có chân để mà trốn thoát. Vì vậy, ông bám chặt hai tay vào bắp đùi, cố gắng nâng chúng lên khỏi thân mình, ông nội tôi đã mất ở một lúc nào đó vào ban đêm nhưng bác tôi không để ý chính xác đó là thời điểm nào. Ông đang bận rộn với chuyện cố gắng tự giải thoát mình khỏi kẻ mạo danh ông ở phần dưới cơ thể. Tới lúc ông thoát ra được khỏi ảo giác thì người bố đã chết rồi.
Sau khi ra khỏi trại cách ly, tất cả họ đều được tắm, lần tắm đầu tiên trong suốt 3 năm trời và bộ quần áo của họ, bộ quần áo mà đã khoác lên người lúc rời nhà, được luộc sôi và giũ bỏ hàng triệu con rận trú ngụ trong đó.
Mặc bộ đồ sạch sẽ, họ cảm thấy đột nhiên như được tái sinh. Họ săm soi kiểm tra bộ quần áo tả tơi như giẻ rách của mình để tìm ra những dấu hiệu chứng tỏ họ đã từng là một con người. Liệu cái vạt này có phải là ve áo không? Đây có phải là dấu ấn của một cái túi hay không? Một mảnh vải chỉ còn vài dấu vết mờ nhạt của thứ đã từng là vải tuýt. Quần của người đàn ông này đã từng được trưng lên cửa sổ của một cửa hàng bách hóa thời trang vào năm 1937, kèm theo một cái nhãn ghi mức giá cao. Nhưng dù những nô lệ này sạch sẽ và khô ráo, họ vẫn còn đói khát. Họ bới toạc đất để tìm cỏ ăn. Họ đang quằn quại và đang chết trong những bộ quần áo đã được luộc sạch.
Ở một nơi mà bác tôi không biết địa danh, một số lính Đức xuất hiện, cắt bớt một đám người ra khỏi đoàn và lùa họ vào một tòa nhà rồi sau đó châm lửa đốt. Và khi những người nô lệ kêu gào thảm thiết chạy trốn khỏi tòa nhà thì chúng dùng họ làm bia tập bắn. Đó là điều kinh khủng nhất, bác tôi nói, đó là điều mà tôi gọi là tội ác, không phải là thứ mà ngày nay người ta viết về nó trên các báo hay thứ mà tôi thấy trên ti vi.
Dù vậy, giữa tất cả cái cảnh khủng khiếp này, bác tôi vẫn xác nhận rằng ông đã sống sót được nhờ kinh doanh đổi chác.
– Đúng vậy đấy, buôn bán kinh doanh cứ tiếp diễn không ngừng. Cô biết đấy, mặc dù chúng tôi đang thường xuyên bị đói khát nhưng cũng có lúc chúng tôi không bị đói. Đừng có hỏi tôi về logic của chuyện này. Chẳng có logic nào cả. Chuyện nó thế thì phải thế. Chúng tôi có khẩu phần và khẩu phần cũng có giá trị của nó. Một người được phát một cái hộp đựng thứ gì đó bên trong. Nếu anh ta đang đói khát thì chiều hướng phản ứng tự nhiên của anh ta là mở cái hộp ra và ngấu nghiến thứ đồ ở bên trong. Đó là điều hiển nhiên. Hay là một điếu thuốc lá, ta có thể hút nó ngay lập tức. Để dành làm gì cơ chứ? Nhưng tôi có thể nhận thấy rằng giây phút tôi nhận được khẩu phần là một thứ gì đó thì rồi sẽ có một cơ hội kinh doanh và điều cốt lõi của kinh doanh là lợi nhuận. Đây là hệ thống tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, khi chúng tôi đến một ngôi làng và mấy tên sĩ quan cấp phát cho chúng tôi một số nhu yếu phẩm, tôi sẽ tìm một tòa nhà và mở một quầy bán lương thực và thuốc lá cho nông dân địa phương. Rồi, cô thấy đấy, sau đó tôi có tiền mặt, tiền hẳn hoi thực sự luôn. Có tiền trong tay, tôi có thể nói chuyện với tụi sĩ quan đàng hoàng dõng dạc hơn.
“Và bây giờ, trước hết, khi tụi sĩ quan cấp cho chúng tôi nhu yếu phẩm, chúng tôi phải đổi lại cho chúng một cái tem phiếu. Chúng tôi không biết những cái tem phiếu đó là gì. Chúng chỉ là những mẩu giấy vô giá trị mà chúng tôi ký tên mình vào đó. Nhưng cô biết không, khi mấy tên Hungary quý tộc đó trở về nhà, tụi chúng cầm những chiếc tem phiếu đến gia đình của chúng tôi và nói với họ rằng mẩu giấy này là bằng chứng chứng tỏ chúng tôi đã ký đồng ý chuyển nhượng cho người cầm giữ tem phiếu quyền tiếp quản căn hộ của mình. Nếu gia đình của chúng tôi không chịu thì chúng đe dọa báo cảnh sát đến bắt họ. Vậy là chúng tôi đã bán quyền thừa kế để đổi lấy một đĩa súp thịt hầm hổ lốn giống như những gì đã thuật lại trong Kinh thánh[48].
“Nhưng tôi thì không, tuyệt nhiên không đời nào làm vậy. Tôi không lấy nhu yếu phẩm mà lấy đồ tiếp tế của người khác, bán chúng đi rồi chia lời cho họ. Vậy nên, chẳng có một cái tem phiếu nào có tên của tôi trên đó cả và đây là lý do tại sao khi chiến tranh kết thúc, mẹ tôi vẫn còn có một căn hộ để ở. Và giờ thì cô có hiểu tại sao những quan niệm của cô về những thứ gọi là suy đồi, xuống dốc, là tôn trọng và công bằng chỉ dành cho lũ con nít? Một thằng oắt con giống như cái thằng thuê nhà ở tầng dưới, vai u thịt bắp nhưng đầu óc ngu si, là hạng người gần giống như một con vật đột nhiên nằm rạp dưới càng xe và chết, chẳng vì một lý do nào cả. Bởi hắn đã sức tàn lực kiệt. Toàn bộ những gì hắn có chỉ là cái sức trâu cày lực điền. Tôi không phải là loại người đó và tôi hi vọng cô cũng vậy. À, tiện mồm thì tôi phải nói luôn là Eunice cũng không phải thứ người đó. Nhưng đó là chuyện của riêng cô ấy chứ không phải là chuyện của tôi. Có lẽ nếu cô hỏi cô ấy thì cô ấy sẽ kể cho cô nghe.”
Nhiều năm sau đó, tôi cố lần ra con đường mà bác tôi đã bị cưỡng bức lê bước khắp vùng Đông Âu nhưng tôi đành chịu thất vọng vì lý do bản đồ. Những địa danh mà ông bác Sándor đã nói cho tôi nghe, được tôi nhắc đi nhắc lại và ghi chép cẩn thận ra giấy, không hề có trong tập bản đồ của tôi. Bản thân những địa danh đó đã hóa vật đổi sao dời; thành thị, làng mạc thay tên đổi họ qua nhiều thế hệ, qua hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác; và suy cho cùng thì bác tôi đang ghi âm lại chỉ những gì mà ông nhớ được. Hoặc là đám người bị nô dịch hỏi người dân địa phương ở thành thị hay nông thôn để biết nơi họ đang dừng chân lại là đâu hoặc là lũ sĩ quan hỏi. Và thường thì những câu trả lời mà họ nghe được không hề tồn tại ở bất cứ một công trình nghiên cứu bản đồ nào. Người làng chẳng màng tới chuyện ông thị trưởng vùng đó đã quyết định đặt lại tên làng tên xóm của họ theo tên một vị anh hùng nào đó của cuộc cách mạng Bônsêvic.
Cũng có khi, đơn giản chỉ vì bác tôi nhận được câu trả lời là một cái tên bị đánh vần sai hoặc là ông đoán mò, hoặc ngôi làng đó đã bị phá hủy hoàn toàn trong chiến tranh hay bị bỏ hoang và chẳng để lại một vết tích gì. Nhưng sau khi bỏ ra liền vài ngày lui tới nhiều lần Thư viện quốc gia Anh, tôi có thể chắp ghép hình dung ra quãng đường của cuộc hành trình hỗn loạn vô định hướng về phương Đông, từ Hungary sâu tới Ukraine và Nga, dừng lại ở mút tận cùng là thị trấn Berdichev vào năm 1994. Chẳng hiểu vì sao bác tôi chẳng đưa ra một lời giải thích nào về việc vì sao cuối cùng họ lại dừng tại đây. Dù sao đi chăng nữa, ông cũng chả quan tâm điều tra tìm hiểu làm gì vì quá vui mừng với chuyện được trở về nhà. Ông bác Sándor của tôi được thôi đi lao động khổ sai và đưa trở lại Budapest.
– Thế em trai của bác có biết những gì đã xảy ra với bác trong chiến tranh hay không? - tôi hỏi bác Sándor - Ông ấy có biết những gì mà bác vừa mới kể cho cháu nghe không?
– Có, có chứ, dĩ nhiên là nó biết. Tất tần tật mọi thứ.
– Vậy còn điều gì đã xảy ra với mẹ của bác?
– Mẹ tôi sống sót được ở Budapest. Cứ hễ có bố ráp ở nơi này thì bà lại luôn luôn ở một nơi khác. Ý tôi là bà ở đúng nơi cần ở. Lúc nào bà cũng gặp may. Quả thật là ngạc nhiên! Và đây chính là điều mà tôi chưa bao giờ hiểu tường tận ngọn nguồn, ngay cả khi bà còn sống. Bà giống như một trong số những quả bóng trong trò chơi bắn đạn Pinball, cái trò mà mấy cô cậu thanh thiếu niên hay chơi trong các quán bar cà phê ấy. Bà bay vèo vèo quanh thành phố nhưng những cái lẫy của số phận luôn luôn bắt được bà trước khi bà rơi xuống rồi đẩy bà trở lại.
– Thế bác có đến sống với mẹ mình lúc quay về Budapest không?
– Không, điều đó quá nguy hiểm. À, ý tôi là quá nguy hiểm cho bà. Tôi ở với mấy cô bạn của mình. Họ, tất cả những cô nàng xinh đẹp đó, đã chăm sóc tôi.
– Và rồi sau đó chiến tranh kết thúc.
– Đúng, đúng là chiến tranh cuối cùng cũng tàn.
– Vậy tại sao bác lại tiếp tục ở Budapest khi mình có thể đến Anh?
– À, tôi biết, tôi biết chứ. Có rất nhiều nơi mà tôi có thể đi. Hội Chữ thập đỏ đến và tìm thấy tôi, trao cho tôi một thông điệp của thằng em Ervin với nội dung là nó sẽ bảo lãnh cho tôi. Tôi cũng có một cơ hội khác là tới Palestine hay tới Mỹ. Nhưng tôi sẽ không rời bỏ mẹ mình. Bà cứ tin chắc rằng bố tôi sẽ quay về nếu bà chờ đợi ông. Cô thấy không, dù thiên hạ người ta có nói như thế nào về tôi, tôi vẫn cố hết sức mình làm một thằng con trai có hiếu. Tôi yêu kính bà mặc dù dĩ nhiên đáng nhẽ ra tôi phải là một đứa con tốt hơn. Cô phải chắc chắn ghi đoạn này lại đấy.
– Nhưng bố của bác đã chết vì bệnh sốt Rickettsia rồi cơ mà!
– Tôi biết. Ông đã chết rồi. Tôi đã nhìn thấy ông. Không phải lúc ông chết mà khi người ta chôn ông xuống một cái hố vôi.
– Thế tại sao mẹ bác vẫn cứ nghĩ là ông sẽ trở về?
– Thì tôi đã nói với cô rồi mà. Con người với con vật khác nhau lắm. Con vật khuất phục số phận nhưng con người thì không.
– Nhưng đó là ảo giác.
– Dĩ nhiên là như vậy rồi nhưng vẫn có những điều kỳ diệu xảy ra. Có nhiều vụ đánh bắn nhau hỗn loạn mà người ta vẫn trở về từ cõi chết đấy thôi. Đấy, mẹ tôi đã nói như vậy đấy. Làm sao tôi có thể nói với bà rằng chính mắt tôi đã trông thấy xác bố mình được chôn trong một cái hố chôn tập thể kia chứ? Ôi, mẹ của tôi!
– Thế còn điều gì đã xảy ra với ông bà nội bác ở Mád?
– Dĩ nhiên là vào lò thiêu người của Đức Quốc xã chứ còn đi đâu nữa?
– Còn gia đình của bà Berta?
– Cũng vậy.
Vậy ra, đây là chính là bí mật câm lặng lớn đã phủ bóng u ám lên tuổi thơ của tôi. Giờ thì tôi đã hiểu rõ hơn một chút. Làm sao người ta có thể nói ra bất kỳ một tí sự thật nào như vậy cho một đứa trẻ? Bố mẹ tôi đã giữ tất cả những điều đó trong lòng, như thể giữ máu huyết của riêng mình.
– Vậy thì sau đó bác tiếp tục làm gì?
– Quay lại nghề cũ. Tại sao bây giờ lại bỏ nghề đó kia chứ? Tôi có nên tước đi một kế sinh nhai của các cô gái xinh đẹp trong khi họ cứu vớt cuộc đời tôi? Trong khi họ cho tôi một chỗ để nương náu?
– Làm sao mà cái nghề của bác sống được dưới thời một chế độ cộng sản?
– Câu hỏi hay đấy. Chủ nghĩa cộng sản nhẹ nhàng len vào đời sống của chúng tôi khi chúng tôi không để ý. Tôi cũng không nhận thấy. Đến khi nhận ra thì nó đã ở đó rồi. Nhưng nhu cầu về những dịch vụ mà tôi cung cấp không mất đi trong thiên đường xã hội chủ nghĩa bất kể mấy tay đấu tranh đòi giải phóng phụ nữ nói gì. Tôi cứ tiếp tục công việc kinh doanh của mình. Cái khác trước có chăng chỉ là thay vì đặt văn phòng của mình tại một cái bàn ở khách sạn Astoria, bây giờ tôi được phân cho một chức vụ. Tôi vẫn làm ở quán cà phê cũ, ở đúng cái quán đó, nhưng bây giờ là với tư cách một chân chạy bàn, vẫn là những vị khách cũ lui tới, vẫn là những thứ họ để lại giống trước. Những cuộc trò chuyện trí thức như xưa không đổi, những chiếc bánh ngọt như thuở trước. Tất cả đều là những câu chuyện y hệt như cũ, chẳng khác gì lúc trước. Điều này làm cho tôi nhớ tới chuyện mà tôi gần như quên khuấy đi mất. Tôi đã đến tiệm Maison Bertaux và mua cái bánh đó rồi. Cô có muốn xơi thử một lát bánh không?
– Dạ thôi, cháu không ăn đâu. Cảm ơn bác. Nhưng sao bác lại cười?
– Sao lại không cười cơ chứ? Tôi còn sống mà, phải không? Bọn chúng cố giết tôi nhưng đâu có được. Đó chẳng phải là cách trả thù hay ho đối với những kẻ độc ác, xấu xa đó hay sao?
Ta đi xuống bóng tối rồi lại đi lên vùng ánh sáng. Đây là lẽ tự nhiên của một hệ thống tàu điện ngầm; và khi ta đi lên, ta đã ở một nơi khác. Ta không thấy cảnh vật thay đổi. Tấm bản đồ biến thành phố thành một mạng lưới, một biểu đồ. Ta chẳng có cảm giác gì về khoảng cách giữa các trạm. Tất cả đều là tương đối. Tôi đi tới ga King’s Cross, đi dọc suốt nút giao thông buồn tẻ, ảm đạm đó, chờ đợi ở sân ga, dừng lại hai lần ở tuyến Circle Line màu vàng, đi bộ xuôi xuống phố Portland Palace, rẽ vào con đường nhà mình, nhấn nút thang máy đi lên rồi tra khóa vào ổ. Đến khi tôi vào nhà thì mẹ tôi đã ở trong bếp. Tôi hỏi bà: “Sao bố mẹ không bao giờ kể về chiến tranh?”
Mẹ tôi đang đãi đậu xanh trong một cái chao bằng kim loại.
– Chiến tranh hả? Sao tự nhiên bây giờ con lại hỏi về chuyện này thế? Nó đã qua lâu rồi cơ mà.
– Con chỉ muốn biết vì sao bố mẹ không bao giờ nhắc đến nó thôi.
– Ờ thì mẹ đã kể với con rồi. Bom đạn thật là kinh khủng và khẩu phần ăn thì…
– Không phải chiến tranh ở đây, ở cái thành phố London này mà là chiến tranh ở châu Âu ấy.
– Lúc đó bố mẹ không ở châu Âu mà đang ở Anh. Ôi, thật là ơn Chúa!
– Nhưng mẹ còn bà con họ hàng ở đó kia mà.
– Đúng là như vậy, con à.
– Thế chuyện gì đã xảy ra với họ, hở mẹ?
Mẹ tôi nhún vai. Trong khung cửa sổ của căn bếp tòa nhà bên cạnh, một người phụ nữ ăn vận trang nhã, sang trọng đang đứng cạnh bồn rửa bát, rót nước vào ấm.
– Bà ấy là người mới đến đấy, - mẹ tôi nói. - Người ra người vào ở cái nhà bên đó cứ thay đổi xoành xoạch đến là chóng mặt. Chắc là phải có chuyện gì không ổn với cái nhà đó rồi. Có thể là nó quá ẩm thấp, con có nghĩ thế không?
– Đó là ông bà của con.
– Con nói đến ai cơ? Quý bà kia ấy à?
– Mẹ biết là con đang nói về chuyện gì mà.
– Sao đột nhiên con lại quan tâm đến chuyện này nhỉ? Con vừa xem một bộ phim à?
– Con chỉ muốn biết thôi.
– Mẹ kể gì được nào. Ông bà con đã mất cả rồi.
– Thế mẹ không có anh chị em gì hay sao?
– Bữa trưa của mẹ đang nguội lạnh hết cả rồi đây này. Đã 2g15 rồi. Mẹ đang chết đói đây. Con có muốn ăn thứ gì không? Mẹ đang chần quả trứng này. Hay mẹ chần cho con một quả nhé?
– Không, con không đói. Nhưng sao bố mẹ không bao giờ kể cho con nghe?
– Về cái gì?
– Về bất cứ điều gì.
– Thế con muốn nói đến chuyện gì nào? Nói đi rồi mẹ sẽ cố tranh luận với con dù mẹ chẳng được học hành cao như con. Con biết điều đó mà.
– Chuyện gì đã xảy ra, chẳng hạn như với bác Sándor, trong chiến tranh?
– À, hẳn nhiên là ông ấy đã trải qua một quãng thời gian khủng khiếp. Không ai phủ nhận điều đó.
– Chẳng hạn như là chuyện gì?
– Nhưng nó chẳng làm cho ông ấy trở nên tốt đẹp hơn. Lẽ ra ông ấy đã có thể sửa chữa và sắp xếp để sống một cuộc đời tốt đẹp hơn nhưng ông ấy lại không lựa chọn như vậy. Đó là quyết định của ông ấy.
– Nói chuyện với mẹ mà con thấy như đang nói chuyện với một bức tường gạch ấy.
Chẳng có gì thay đổi và tôi cũng không thể làm nó thay đổi. Tôi cứ ngỡ rằng những thông tin tiết lộ vào buổi sáng hôm ấy sẽ làm thay đổi mọi thứ nhưng hóa ra mọi sự vẫn y hệt như cũ.
– Con muốn biết những chuyện này để làm gì vậy, Vivien? Sao con lại quan tâm tới tất cả cái chuyện cũ rích này? Cái gì đã nhiễm vào con vậy? Mẹ biết là con đang chán nản, đầu óc đầy những suy đoán. Có lẽ đây là lúc con cần tìm một cậu bạn trai mới đáng yêu.
– Chắc là con đã có rồi, - tôi trả lời một cách ác ý hằn học và giận dữ.
– Có phải cái cậu trông dung tục tầm thường mà mẹ thấy con đã đi cùng không?
– Ai cơ?
– Cách đây khoảng độ một tuần, mẹ thấy con đi trên đường với một cậu mặc áo khoác da với đủ thứ dây nhợ treo lòng thòng.
– Thế mà con không thấy mẹ.
– Con không thấy mẹ sao? Ờ thì, mẹ đã ở đó, không lâu sau bữa trưa đâu. Nếu đây là bạn trai của con thì con cần phải cẩn thận đừng để cậu ta kéo con xuống ngang hàng với cậu ta đấy. Bao giờ cũng có nguy hiểm khi con giao du với những hạng người ô hợp. Mẹ không hiểu sao con có thể đi lại với cậu ta sau khi đã lấy Alexander.
– Ôi mẹ! Mẹ đúng là quá đặt nặng địa vị xã hội, giàu sang phú quý rồi đấy, - tôi vừa nói vừa quay mặt đi để bà không phát hiện ra vẻ bối rối của mình.
Mẹ tôi bưng cái đĩa lên, đổ ụp quả trứng chần cùng đậu xanh vào thùng rác.
– Thế là xong. Giờ thì mẹ chẳng còn muốn ăn uống gì nữa.
– Có một tấm màn sắt - tôi nói. - Con đã đập đầu vào một tấm màn sắt.
– Tốt - bà nói - mẹ hi vọng là con không đập đầu quá mạnh đến nỗi phọt cả óc ra ngoài.
Bà đi đến bồn rửa bát để rửa cái đĩa.
– Mẹ có muốn uống một tách cà phê không? - tôi hỏi bà.
– Sao thế? Con muốn uống cà phê cùng mẹ à?
– Vâng, mẹ ạ. Mẹ con mình cùng uống cà phê. Hiếm khi mẹ con mình uống với nhau như thế mà.
– Thôi được, ý cũng hay đấy. Có vài cái bánh bích quy trong hộp thiếc. Con xem thử có tìm được thứ gì. Mẹ thì lại thích ăn củ dong, mấy cái củ trông như những ngón tay thon dài.
Tôi xếp bánh bích quy vào một cái đĩa và đem cà phê sang phòng khách. Mẹ tôi nhặt một quyển tạp chí truyền hình lên và bắt đầu khoanh tròn những chương trình mà bà và bố tôi dự định xem tối hôm đó. Ngón tay của bà ngập ngừng phân vân giữa một chương trình đố vui và một vở kịch.
– Mẹ không muốn kết bạn với những người tị nạn khác khi mẹ đến đây sao, mẹ? - tôi hỏi bà.
– À, lẽ ra thì bố mẹ cũng đã làm vậy nhưng bố con hơi nhạy cảm.
– Về chuyện gì?
– Ồ, con biết rồi mà, ông ấy không thích mấy chuyện ngồi lê đôi mách.
– Thế thiên hạ kháo nhau chuyện gì vậy mẹ?
– Vivien này, mẹ cảm thấy như mình đang ở trong chương trình Perry Mason[49] mà con là luật sư còn mẹ là bị cáo. Con gọi đó là gì nhỉ? Điều tra chéo phải không? Mẹ mong là con sẽ ngừng lại.
Với một vẻ điềm tĩnh, từ tốn, mẹ tôi đã đánh trống lảng tất cả mọi câu hỏi của tôi. Tôi không thể moi được tí gì ở bà. Không phải là mẹ tôi chẳng biết gì vì khoảng một năm sau đó, sau khi ông bác Sándor chết, chính bà là người đã nói với tôi rằng trong thời gian ông bác của tôi đi lao động khổ sai, ông đã bị đánh rất bạo vào hạ bộ, dữ dội đến nỗi khiến ông bị vô sinh.
* * *
Suốt mùa hè năm ấy, nỗi sợ hãi và chứng bệnh hoang tưởng của bố mẹ tôi ngày một lớn dần cho đến khi nó vỡ òa ra ngoài mặt và thứ vốn trước giờ vẫn là một cuộc sống như trong mơ, một chu kỳ nữa phân rã dễ chịu đột nhiên giống như vừa bừng tỉnh một con ác mộng đối với họ. Những sự kiện xảy ra ở bên ngoài này - các lực lượng chính trị nổi lên vào năm 1977[50] và tiếp diễn suốt hai năm sau đó cho đến khi chúng lắng xuống và một kiểu trật tự được vãn hồi - khiến tôi muốn giúp và bảo vệ bố mẹ mình vì họ không thể tự giúp được mình. Thậm chí bố mẹ tôi còn không dám ra khỏi nhà vì quá khiếp hãi: chiếc ti vi quý giá của họ đã trở thành người thông tin những cảnh báo khủng khiếp về những gì có thể xảy ra khi ta bước chân ra khỏi vùng an toàn của tòa nhà Benson Court.
– Con thấy chưa - bố tôi vừa nói vừa trỏ một ngón tay vào màn hình ti vi, ngón tay trên bàn tay của một người thợ thủ công tài hoa, một bàn tay chính xác trong tất cả mọi cử động, các móng tay được bấm cách nhật ở một độ dài mà bố tôi đo bằng một cái thước nhỏ xíu - giờ thì chuyện đó đã bắt đầu rồi.
Bố mẹ tôi bám chặt lấy nhau khi họ ngồi trên chiếc ghế sofa bọc da màu nâu trầy xước; lưng thẳng đơ, không dựa vào những chiếc gối tựa màu be tươi tắn, thẳng đơ như thể có một thanh sắt bỗng nhiên luồn vào trong người họ.
– Chính phủ sẽ không cho phép chuyện này xảy ra - mẹ tôi nói sau khi buông một chiếc tất đang đan dở xuống. - Đây là nước Anh chứ không phải là Hungary - Nhưng cổ họng bà tắc lại ở chỗ này như thể mấy từ vừa rồi đã bóp nghẹt bà.
– Bọn Mũi tên chữ thập trở lại nữa sao? Thế lúc trước ai đã chặn chúng chứ? Nói cho tôi biết đi, ai đã chặn chúng?
– Bọn chúng không phải là tụi Mũi tên chữ thập. Đây là một bọn khác. Chờ một tí. Tôi sẽ lấy giấy bút ghi tên chúng lại. Chúng ta cần phải biết. Điều này quan trọng lắm đấy. Vivien, bút đâu rồi? Con có nhiều bút trong phòng ngủ đấy. Lấy ngay một cây nhanh lên. Cả giấy nữa.
Tôi tới bàn của mình rồi lấy đưa cho mẹ một quyển vở kẻ ô và một cây bút bi.
– Viết đi, con gái - mẹ tôi nói. - Nhớ là phải viết tên chúng cho chính xác đấy.
Và tôi đã viết: Mặt trận quốc gia (National Front)[51]
– Nhìn chúng kìa - bố tôi thốt lên, mặt nhăn nhúm. - Chúng là lũ tội phạm. Tên nào tên nấy cũng như tội phạm. Rặt một lũ lưu manh, du côn du đảng. Trông cái tên này này. Một kẻ mới hạ đẳng làm sao! Người Anh là những người hào hoa phong nhã nhưng cái tên này không phải là hạng người lịch thiệp, hoàn toàn không phải.
– Thật là kinh khủng! - mẹ tôi thốt lên. Nỗi khiếp đảm chạy dọc xuống các bức tường.
– Sao chúng lại tuần hành qua những nơi mà dân da màu đang sống chứ? - bố tôi hỏi.
– Dĩ nhiên là để kiểm soát đường phố rồi - mẹ tôi trả lời. Đột nhiên tôi nhận thấy bà biết nhiều hơn những gì bà giả vờ như không biết. - Có thế người ta mới sợ không dám đi bộ lòng vòng ngoài phố hay làm ăn buôn bán gì. Rồi khi người ta sợ hãi, chúng mới đánh được họ. Em đã thấy chuyện này ở Budapest rồi. Đúng y như vậy luôn. Mà anh xem kìa, cảnh sát đang bảo vệ chúng kia kìa. Họ cho chúng cái quyền được tuần hành. Họ đâu phải là vô tội đâu. Anh thấy đấy.
– Không phải cảnh sát nào cũng vậy - bố tôi nói.
– Bọn chúng đã xông vào các cửa hàng và đánh những người chủ tiệm vô tội đơn giản chỉ vì những người này là dân da đen - tôi nói.
– Ai? Cảnh sát hả? - bố tôi hỏi, vẻ như bị xúc phạm.
– Không, bọn Mặt trận quốc gia.
– Con lôi đâu ra những suy nghĩ như vậy hả? Bố cứ nghĩ con vùi đầu cả buổi sáng vào sách ở thư viện. Con đọc được thứ này ở trong sách sao?
– Không, bố ạ. Chuyện này không có ở trong sách mà ở ngoài đời thực.
– Con đã biết gì về đời thực rồi? - bố tôi hỏi, lộ vẻ lo lắng trên khuôn mặt.
Cách sống trốn tránh ẩn dật của bố mẹ tôi càng được củng cố bởi một cuộc chạm trán khiếp sợ với thứ chưa biết là cuộc đời thực này vào giữa tháng hai. Bố tôi từ chỗ làm về nhà với khuôn mặt dính máu. Mẹ tôi đã thét lên thất thanh khi nhìn thấy ông. Tiếng thét nghe đinh tai nhức óc giống như tiếng mèo gào. “Ervin!” - bà la to - “Chuyện gì xảy ra với anh vậy?”
Ông phớt lờ câu hỏi của bà và đi thẳng vào bếp, tự rót cho mình một cốc nước rồi ngồi xuống. Máu đang khô bết cục trên tóc của ông. Mẹ tôi thấm ướt một cái khăn lau chén bát dưới một vòi nước và bắt đầu nhẹ nhàng lau những cục máu khô đi. Nhưng, những vết thương lại hở ra và máu lại chảy thành giọt xuống mắt ông.
Bố tôi vẫn tiếp tục lặng im chẳng nói chẳng rằng cho đến khi mẹ tôi băng lại vết thương cho ông. Ông để bà đỡ một bàn tay lên và dắt sang phòng khách, tới chiếc ghế bành quen thuộc của ông, ấn ông ngồi xuống cùng với một tách cà phê đậm đặc. Sau một hồi, bố tôi mới bắt đầu nói. Ông đã trông thấy một cảnh. Cảnh gì? Mẹ tôi và tôi hỏi. Bố tôi chỉ lắc đầu. Điều đó quá sức kinh khủng, không cần thiết phải kể lại chi tiết. Nhưng cả mẹ và tôi đều muốn biết chi tiết. Cả hai đều đòi bố kể lại. Và ông đã thuật lại bằng một giọng thì thầm cảnh một cô gái trẻ đang đi trên đường thì bỗng nhiên một băng côn đồ xuất hiện, vô cớ túm tóc cô và đập đầu cô vào tường như thế nào. Lũ côn đồ đó là loại người nào? - mẹ và tôi hỏi bố. Em và con biết không, lũ chúng nó đi giày ống, cạo trọc đầu. Là loại đấy đấy. Còn cô gái kia là loại người nào? Là loại người đi cùng với Sándor lúc trước, một cô gái da màu, nhưng có lẽ là người đàng hoàng đứng đắn hơn một chút. Cô ta đi một đôi giày chắc chắn và có một cặp kính to trên mũi.
Thế thì bố tôi đã can dự vào việc này như thế nào? Không làm gì cả, ông chẳng có lựa chọn nào. Ông chỉ đứng đó nhìn với một nỗi khiếp đảm cảnh tượng diễn ra trên góc phố Farringdon ngay giữa thanh thiên bạch nhật, lúc vừa mới hơn 5 giờ chiều, khi cái cửa hàng ở góc phố đó đóng cửa còn ông thì đang đứng đợi đèn tín hiệu giao thông chuyển sang màu xanh. Và khi bố tôi thấy những gì mà ông chứng kiến, ông thậm chí đã dợm bước băng qua đường dù còn đèn đỏ nhưng xe cộ qua lại đông quá. Đấy, em và con thấy đấy, bố nói, chuyện này thậm chí không phải xảy ra ở một góc đường hay trong hẻm mà ngay ở trên con phố lớn. Rồi lũ côn đồ quay sang và trông thấy ông. Chúng nhận ra đã có một người chứng kiến việc làm của chúng.
Và thế rồi chúng bắt đầu gào rú, rủa xả những từ ngữ kinh tởm, những lời tục tĩu vào ông mà ông không sẵn sàng kể lại cho mẹ con tôi nghe đó là gì. Bố tôi đã không đương đầu với bọn du đãng cục súc, dĩ nhiên là không rồi. Chúng tôi phải đòi hỏi ông là người như thế nào cơ chứ - một anh hùng chăng? Ông có súng hay lệnh bắt người không? Khi đèn tín hiệu giao thông đổi sang màu xanh, bố tôi co giò chạy thục mạng. (Tôi chưa từng thấy ông chạy bao giờ) nhưng ra đến chính giữa đường thì ông vấp phải dây giày mà ông đã không buộc cẩn thận trước khi rời xưởng làm. Ông ngã dúi người, tay và đầu gối úp xuống mặt đường, đầu đập vào vỉa hè. Đèn giao thông lại đổi tín hiệu và dòng xe cộ bắt đầu chuyển động. Ông không thể tin vào chuyện này. Các tài xế đang nhấn chân ga tăng tốc. Họ đang rồ máy và chạy về phía trước vì họ có quyền đi tới. Bố tôi nằm đó, trên mặt đường, ngay lối đi của họ.
Một người phụ nữ chạy ra giữa đường giúp bố tôi đứng dậy. Cô ấy đứng, cầm một chiếc ô giương thẳng trên tay, khiến cho dòng xe cộ giống như một con quỷ độc ác phải lui lại. Ông kể, cô ấy vẫy vẫy cây dù vải lụa màu xanh lá cây trên đầu. Cô ấy đã đưa bố tôi sang bên kia đường và sau đó thì ông bình yên vô sự. Cô ấy muốn ông đến bệnh viện nhưng ông bảo không cần thiết. Bởi vì cho đến tận lúc này, ông vẫn còn cảm thấy hết sức hoảng sợ (thậm chí e sợ cả người phụ nữ có chiếc ô đó), sợ đến mức trong đầu chỉ nghĩ được mỗi một chuyện là về nhà càng nhanh càng tốt để được an toàn trong tòa nhà Benson Court, nơi tất cả mọi người đều tử tế, rộng lượng và chẳng ai phiền hà tới ai.
Quãng thời gian dài sống bình lặng trong cuộc đời của bố mẹ tôi, kéo dài từ khi chiến tranh kết thúc cho đến ngày hôm nay, những năm tháng bình yên không có biến cố sóng gió nào vốn là cách sống ưa thích của họ, sắp sửa kết thúc. Họ cảm thấy như đang đối mặt với một tương lai bất định, kinh khủng ở phía trước và hoàn toàn không biết mình có thể sẽ đi tới đâu vì nếu cần thiết phải di tản lần nữa thì dù sao bây giờ họ cũng đã quá già để bắt đầu một cuộc sống mới.
Nhưng với tôi thì không phải là quá trễ để làm lại từ đầu nếu tình hình trở nên xấu đi, bố mẹ tôi nói. Tôi luôn luôn có thể đi tới Mỹ, tất nhiên rồi? Nhưng tôi trả lời rằng tôi không hề có ý định đi đâu cả.
Sức hút như nam châm của tòa nhà Benson Court và cuộc sống khép kín ẩn dật của bố mẹ tôi đã suy yếu thành một lực kéo yếu ớt, đáng thương và bây giờ thì hiện thực phơi bày khắp xung quanh tôi, rõ mồn một, hiển hiện sắc nét như khắc như in. Đây những quận nội thành: King’s Cross, Brixton, Wood Green, Harlesden, Islington, Southall, New Cross, Lewisham và kia, xa hơn, tới những vùng đất chưa ai biết đến: cửa sông Thames và những hòn đảo của nó như Isle of Dogs, Isle of Grain, Sheppey. Thành phố London này giống như một con mắt khổng lồ đang nhìn lên, hấp háy hết ngày đến đêm. Những đường ray tàu hỏa chạy ngang qua thành phố, vẽ nên những vết sẹo trên khuôn mặt của nó. Từ những cây cầu, những tháp chuông nhà thờ. Dòng sông uốn khúc. Những nhà máy bị bỏ hoang vô chủ. Những tòa chung cư hình khối. Từ mùi da thịt con người cho đến vỏ cam, vỏ bao khoai tây rán, trạm chờ xe buýt tráng nhựa đường, cho đến những con người già, hằng ngày đứng xếp hàng mua đồ.
Khắp mọi nơi, đâu đâu cũng thấy chữ.
NF$b
Dấu hiệu của Mặt trận dân tộc có mặt trên các trạm dừng xe buýt, ghế ngồi xe buýt, cửa sổ xe buýt. Trên các cây cầu dành cho tàu hỏa, trên các cửa hiệu, trên cả thùng rác. Trên những hình xăm ở ngón tay và trán của người ta. Đường nét thanh tú trong hình thức của hai chữ cái viết tắt đó đã đơn giản hóa tất cả mọi thứ. Ta có thể viết chúng một cách dễ dàng ngay cả khi ta không có hoa tay viết chữ đẹp. Nó lỗ mãng và chẳng cầu kỳ phức tạp, giống như một nắm đấm. Nhưng thực sự hai chữ cái đó có nghĩa là gì cơ chứ?
Thời đó, có rất nhiều lời bàn tán bình luận về điều này. Đối với một số người, nó là một nỗi hoài cổ về một thời vàng son đã lùi xa, khi nước Anh còn là một đế chế hùng mạnh cai trị một nửa thế giới; người da trắng đã đánh mất vị thế của mình. Còn Nữ hoàng - người đã lên ngôi và tổ chức lễ bạc kỷ niệm 25 năm trị vì của mình trong một nghi lễ mà bà đã ngồi trên một cỗ xe ngựa bốn bánh, đầu đội vương miện, tay cầm vương trượng, đi đằng sau những con ngựa có gắn lông chim trên đầu, chạy nước kiệu qua các đường phố London - nhân vật biểu tượng của chế độ quân chủ, huyền bí và có quyền lực thiêng liêng - đã bị hạ bớt vai trò của mình thành một phụ nữ lớn tuổi, thấp lùn đeo kính lão, mặc áo khoác màu hoàng yến, mang đôi giày và đeo găng tay cài khuy cùng tông màu. Nhóm khác phản bác, cho rằng NF là quân Quốc xã thứ thiệt, rằng đây chính là lực lượng phát xít Anh vốn bị buộc phải rút lui vào hoạt động ngầm sau khi chiến tranh kết thúc nhưng vẫn âm thầm phát triển và vươn rộng giữa những lời đả kích, giống như lũ giòi bọ trắng nhởn sinh sôi nảy nở trong bóng tối. Phe này nói “Hãy tin tôi đi, chúng sẽ xây những phòng hơi ngạt ở Yorkshire cho mà xem”.
Cũng có một cách giải thích thứ ba về tình hình đang diễn ra, rằng NF đơn giản chỉ là lũ thanh thiếu niên côn đồ du đãng thích đánh người da đen và dân đồng tính nam để được nếm mùi vị Quyền lực của người da trắng trên đôi môi khô khát nứt nẻ của chúng.
Về phần mình, bản thân tôi không có ý kiến gì. Tôi chẳng có một phương tiện nào ngoài những lời đồn để đi đến bất kỳ một kết luận gì.
Cho đến giờ, chưa ai trong gia đình tôi từng tham gia một phong trào hay một đảng phái nào. Dòng họ Kovacs cứ thế mà sống. Họ đã có khả năng thích ứng với hoàn cảnh, hoặc là rời bỏ đất nước giống bố tôi, hoặc là tìm ra những cách thức và phương tiện để chiến thắng thời cuộc càng nhiều càng tốt, giống như ông bác Sándor của tôi đã nghĩ đến khía cạnh dắt mối trong công việc làm ăn của mình khi ông bị buộc phải thôi làm trong lĩnh vực địa ốc vì những luật lệ phân biệt chủng tộc ban hành. Bức tranh lớn hơn của xã hội không phải là điều làm cho dòng họ nhà tôi quan tâm. Họ không bị cuốn theo một chiều hướng nào về mặt lý tưởng, chẳng ngả về những người theo chủ nghĩa cộng sản cũng chẳng đi theo những người ủng hộ chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Đơn giản chỉ là vấn đề làm sao vượt qua thời buổi nhiễu nhương cho đến khi khó khăn qua đi như cách mà họ tin rằng trước sau gì mọi sự cũng sẽ diễn ra như thế. Như bác tôi, thậm chí khi còn phải đi lao động khổ sai, ông cũng không bao giờ tham gia vào bất kỳ một kế hoạch trốn thoát hay cuộc nổi dậy nào. Cái đặc tính “chỉ hành động vì lợi ích của riêng mình” đã ăn sâu thâm căn cố đế vào tính cách của ông và ông không để mình bị cuốn vào những chuyện ảo tưởng hão huyền hay hào hiệp viển vông kiểu Đông-ki-sốt.
Khắp thành phố London, đâu đâu cũng thấy bắt đầu xuất hiện huy hiệu mang biểu tượng như thế này trên quần áo của mọi người, được cài lên ve áo, váy, áo chui đầu và áo sơ mi:
HÌNH 2
Anti-Nazi League[52]
Ban đầu, tôi chẳng hiểu nó có nghĩa là gì nên phải hỏi một người đứng chờ ở một trạm xe buýt. Anh ta lấy một tờ rơi từ túi khoác vai của mình ra và nó đã giải thích tất cả mọi thứ.
Có vẻ như điều tối thiểu mà tôi có thể làm để trả thù cho nỗi thống khổ kinh hoàng của bác tôi là tham gia vào tổ chức này, liên minh này và đấu tranh chống lại lực lượng phát xít ở ngay tại đây, tại thành phố London này.
Và điều đó đã thực sự mở mắt cho tôi nhiều biết bao nhiêu! Như thể là đôi mắt tôi trước đây đã bị bịt chặt và chứng hoang tưởng của bố mẹ tôi thực ra cũng có cơ sở.
Tôi được cử đến đứng bên ngoài các quán rượu và phát các tờ rơi của mình. Những tờ rơi này nhận được nhiều phản ứng khác nhau. Bản chất con người không nhất thiết lúc nào cũng đẹp khi ta nhìn gần. Ta thấy một người hết sức đáng kính đi về phía mình cùng với một con chó đang chảy dãi nhớt lòng lòng và có một cái chân khập khiễng - con chó mà anh ta vỗ về nhẹ nhàng và nói với nó: “Chà chà cu cậu tội nghiệp, cu cậu đã phải trải qua chiến tranh, nhỉ?”. Và thế là dù cho ta sợ chó và đặc biệt không thích mùi bốc ra từ con chó ốm yếu què quặt này, ta vẫn cúi xuống chạm vào bộ lông thô ráp của nó, cố nở một nụ cười và gắng trao vào tay ông chủ của nó tờ rơi. Anh ta xem xét tờ rơi rồi sau đó nói với ta rằng lũ người nhập cư da màu, lũ khỉ hiếm khi dám trèo xuống khỏi những cái cây, sắp sửa nhấn chìm dân da trắng; rằng Enoch Powell[53] đã nói thật chí phải, rằng ta có biết là chúng đã nhét cứt đái thối tha của chúng vào những hộp thư của các quý bà già nua, rằng chờ đến khi con chó Buster của anh ta khỏe mạnh hơn thì anh ta sẽ xua nó ra đuổi cắn lũ khỉ đó, rằng anh ta đang huấn luyện cho con vật đánh hơi được mùi của lũ khỉ đen hôi hám.
Tôi trở về nhà và được mẹ tôi trao lại một mảnh giấy ghi chi chít chữ kiểu Trung Âu thẳng đứng với nội dung: Mick gọi điện thoại, cậu ta nhắn là giục bạn đem tờ rơi đến Red Lion, đưa cho Claire. Dave có tiền đưa cho bạn để bạn đưa lại cho Steve. Họ đang cần tiền để trả phí in ấn. Và vào thứ bảy, bạn phải tập họp ở một góc đường tại Phố cổ, góc đường mà Mick nói là bạn có biết. Và mẹ tôi liền dồn dập đổ lên tôi hàng loạt câu hỏi: “Mấy cậu đó là ai hả Vivien? Những Mick, những Dave này, mấy cậu đó xuất thân từ gia đình như thế nào? Gia đình có đàng hoàng không? Con có biết không? Vivien, mẹ đang nói chuyện với con đấy!”
Ông bác Sándor của tôi chỉ quan tâm tới việc bảo vệ Eunice. “Cô ấy phải đến đây sống cùng với tôi,” - ông nói. “Wood Green, nơi cô ấy sống trong một căn hộ, không phải là một nơi có hàng xóm láng giềng tốt đối với cô ấy. Dân ở đó là dân tứ chiếng đổ về. Nhưng cô ấy nói là sẽ không đến đây, sẽ không sống với tôi, rằng làm thế là không đứng đắn. Tôi làm được gì bây giờ đây?”
– Có phải mọi thứ xảy ra bây giờ cũng giống như chuyện ở Hungary hồi trước với Đảng Mũi tên chữ thập không hả bác? - tôi hỏi.
– Chuyện này hả? Ha ha. Lũ đó sẽ chẳng làm được trò trống gì cả. Bọn chúng là đồ cặn bã. Chúng thích khua chiêng gõ mõ ầm ĩ. Chỉ có bấy nhiêu thôi và chấm hết. Ta nên đối xử với chúng giống như đối xử với bất kỳ lũ rác rưởi nào ở bất kỳ nơi đâu.
– Nghĩa là sao ạ?
– À, là thế này, cô phải chơi theo kiểu của chúng.
– Như thế nào ạ?
– Cô phải ăn miếng trả miếng, lấy độc trị độc. Tôi có thể nói được gì nữa nào?
Tôi nói cho ông biết mình đã gia nhập một tổ chức.
Tốt lắm, - ông nói, đoạn hỏi – Thế cô làm gì trong cái tổ chức đó?
– Cháu phát tờ rơi ở bên ngoài các quán rượu.
– Ồ! Tờ rơi, rất tốt. Giờ thì tôi cảm thấy an toàn rồi. Eunice cũng sẽ cảm thấy thế khi tôi kể với cô ấy về chuyện này.
Nhưng tôi không quan tâm để ý. Ta chỉ cần phải nhớ bốn điều về Mặt trận dân tộc (gần 30 năm sau, tôi không thể nhớ được ba điều trong số đó là gì, chỉ đọng lại mỗi một điều duy nhất là những gì mà họ nói về họ - Mặt trận dân tộc là một mặt trận phân biệt chủng tộc. Cho tới giờ tôi vẫn không phân biệt được sự khác nhau giữa hai khái niệm “racist” và “racialist”[54]. Nội dung trong các tờ rơi của tôi tự nó đã giải thích đủ rồi, tôi không cần phải giải thích thêm điều gì cả. Đi ra ngoài phố cùng với những tờ rơi, tôi có thể nói chuyện với bất cứ ai miễn là tôi phải nói theo những gì có trong mảnh giấy đó và không sa đà lạc đề sang những vấn đề tranh luận khác. Yêu cầu đòi hỏi nhất định phải tập trung vào một chủ đề duy nhất là điều không dễ dàng đối với tôi. Có người đã phản ánh với tôi rằng tôi nói lan man ra khỏi chủ đề chính và quá dễ bị những chủ đề nói chuyện của người khác dẫn dắt. Nhưng sự thật là tôi đã dính chặt với chuyện này. Tôi đi ra ngoài mỗi tối cuối tuần để phát tờ rơi. Tôi nhặt những tờ rơi bị người ta vứt xuống vỉa hè. Tôi lấy lại những tờ rơi bị người ta vò nát rồi vứt vào thùng rác, vuốt phẳng chúng ra rồi về nhà ủi phẳng chúng để có thể dùng phát lại vào hôm sau. Tôi đi khắp nơi cùng với những tờ rơi này, tới bất cứ nơi nào mà người ta cử tôi đến. Tôi thậm chí còn đi qua bên kia sông Thames, về hướng Nam, tới các quận Lewisham, Brixton, Tooting, Morden, những nơi mà đối với tôi trước đây chỉ là những cái tên trên bản đồ tàu điện ngầm. Thế giới như tỏa rộng ra từ Benson Court và tòa nhà to lớn trên phố Marylebone High Street trở thành một cái chấm rất nhỏ; chỉ còn là một điểm bé tí tẹo, một giao lộ mà thôi.
Cáu ghét của thành phố London chui vào dưới các móng tay của tôi. Bụi bặm trên các vỉa hè của thành phố nằm dưới đế giày của tôi. Những con đường này là của tôi. Thành phố này là địa hạt của tôi. Con dốc thoai thoải của một quả đồi nằm dưới những phiến đá bê tông của nền văn minh, một quả đồi với một dòng suối thân quen, một cánh đồng cỏ bị lấp dưới dòng xe cộ giao thông đã lọt vào hệ thống định vị của riêng cơ thể tôi. Tôi cảm thấy như cuối cùng tôi cũng có quyền nói rằng mình thuộc về nơi này.
Thuộc về một nơi. Giờ thì điều đó thực sự có ý nghĩa. Trước đây, chưa có một ai trong dòng họ Kovacs từng cảm nhận được điều này!
Chú thích:
[46] Đảng Mũi tên chữ thập - Arroiv Cross - là phần tử dân tộc cực đoan Hungary thân phát xít Đức thời Chiến tranh Thếnbgiới thứ II. Trong thời gian quân Đức chiếm đóng Hungary vào tháng 5~6 năm 1944, Đảng Mũi tên Chữ thập và cảnh sát Hungary đã trục xuất gần 440.000 dân Do Thái, đa số là đến trại tập trung Auschwitz khét tiếng.
[47] Bệnh lây nhiễm gây sốt, ốm yếu, cơ thể mọc lên những đốm đỏ tím.
[48] Sándor muốn ám chỉ tới chi tiết trong kinh Phúc Âm, Judas là kẻ bán đứng Chúa để lấy 30 đồng bạc.
[49] Perry Mason là một nhân vật chính trong loạt truyện trinh thám của tác giả - luật sư người Mỹ Erle Standley Gardner. Perry Mason hành nghề luật sư, chuyên bào chữa cho các bị cáo liên quan đến tội giết người.
[50] Năm 1977, bất chấp lệnh cấm đình công đối với lực lượng vũ trang, cảnh sát Anh đã tổ chức nhiều cuộc đình công lớn đòi chính phủ tăng lương trong bối cảnh lạm phát tăng cao. Các cuộc đình công sau đó biến thành biểu tình bạo loạn, gây bất ổn chính trị.
[51] Sự kiện Cuộc chiến quận Lewisham: Ngày 13.8.1977, đảng phái tân phát xít cực hữu phân biệt chủng tộc mang tên Mặt trận quốc gia - National Front (NF) - ở Anh đã tổ chức một cuộc tuần hành từ quận New Cross tới quận Lewisham ở Đông Nam thủ đô London. Tại đây, lực lượng này đã đụng độ với hàng nghìn người biểu tình chống chủ nghĩa phát xít và phân biệt chủng tộc. Cảnh sát đã can thiệp để đưa người của NF thoát khỏi đám đông biểu tình nên bị lực lượng biểu tình tấn công. Cảnh sát buộc phải triển khai hàng rào chống bạo động lần đầu tiên ở London.
[52] Liên minh chống Quốc xã (ANL): một tổ chức thành lập năm 1977 theo sự khởi xướng của Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Anh, được sự tài trợ của một số công đoàn và được một số nhân vật có tiếng ủng hộ. ANL đối kháng với các nhóm cực hữu đang lên lúc đó tại Anh, tiêu biểu là NF.
[53] John Enoch Poivell là nghị sĩ của đảng Bảo thủ Anh, từng giữ chức Bộ trưởng Y tế từ năm 1960-1963 và nổi tiếng nhất vào năm 1968 với bài diễn văn gây nhiều tranh cãi, cảnh báo về những mối nguy hiểm tiềm ẩn của làn sóng nhập cư ồ ạt đến từ các quốc gia trong Khối Thịnh vượng chung Anh. Vì bài diễn văn này mà Powell