← Quay lại trang sách

Chương 14

Và rồi cũng đến một buổi sáng, tôi vừa cầm chiếc máy sấy tóc trên tay để duỗi mái tóc đen dày rậm của mình vừa nhìn mình trong gương và nghĩ: “Trông mình sẽ như thế nào nếu mình không để cái đám rừng rậm rạp ấy bao quanh mặt nhỉ? Và cả mấy bộ đồ cũ rích chết tiệt này nữa. Claude đã cười chúng. Anh ta nghĩ chúng hết sức kỳ quái. Và, tôi nhận ra thứ mà khởi đầu là một cuộc giải phóng khỏi bố mẹ tôi giờ đã chính xác biến thành một niềm đam mê ưa thích.

Những gì tôi đang cố gắng làm là một sự vận động phức tạp. Cứ hễ mỗi lần tôi cố gắng miêu tả lại quãng đời tuổi trẻ này của mình cho mọi người, tôi lại có cảm giác như họ chẳng hiểu gì cả. Hoặc cũng có thể là do tôi không biết cách diễn tả bản thân mình một cách chính xác. Tôi là một dạng phôi thai không thể tự quyết định được liệu mình sẽ trở thành một con gà con, một củ cà rốt hay một thổ dân Australia. Cái phôi ấy cứ thế mọc lông rồi sau đó chuyển sang màu cam và có da. Tôi nhìn lại con người trẻ tuổi bất định, yếu ớt là mình khi đó với một chút hài hước lẫn một chút thương hại. Tôi có thể cảm thông với Vivien trẻ tuổi dù quãng đường mà cô ấy đã đi để thử thách và nhào nặn mình thành con người như bây giờ dường như là hết sức kỳ quặc. Nhưng sự đời là thế đấy. Khi ta trẻ, ta tự do làm những việc buồn cười, tự do mặc quần áo trông đến là gớm guốc. Bởi chúng đang là mốt, tự do phê phán các quan điểm hay thái độ. Và giờ thì ta nhìn lại mình trong những tấm ảnh ngày xưa rồi cau mày trong khi lẽ ra những gì ta nên làm là chạm ngón tay vào tờ giấy phẳng lì như gương đó và cố gắng làm sống lại sự táo bạo ngây thơ mà ta đã từng có thuở còn đôi mươi.

Claude nói với tôi: “Sao em không để anh cắt tóc cho em? Anh biết cắt tóc mà. Về chuyện này thì anh khéo tay lắm.”

Claude nói mái tóc đen rậm rì của tôi làm anh ta thấy phát bực vì anh ta không thể nhìn thấy khuôn mặt tôi. Mối quan hệ của chúng tôi chỉ đơn thuần là tình dục chứ chẳng có một thứ gì khác. Chúng tôi rõ ràng là những phương tiện tình dục của nhau. Anh ta đọc những tờ rơi mà tôi đưa cho anh ta nhưng chỉ ngó chúng với một thái độ chẳng mấy thích thú. Chính trị làm anh ta thấy nhức đầu. “Quanh anh và em có vài gã kiểu đó đấy,” - cuối cùng anh ta nói với một vẻ căng thẳng kìm nén. “Tất cả bọn họ đều có cái đầu trông như thể bị luộc sôi ấy. Nhiều gã nuôi chó. Để anh nói cho em biết, anh đếch ưa nổi cái giống sủa ông ổng đó. Một lũ đáng ghét cay ghét đắng.”

Mối quan hệ giữa Claude với tôi không phải là kiểu quan hệ dựa trên nền tảng cùng chia sẻ mối quan tâm chung hay trao đổi quan điểm sống. Chúng tôi thậm chí còn không nói về âm nhạc. Claude là một người khá lệ thuộc vào ma túy, một người nghiện nói và ngoài lũ cá màu sắc, anh ta chẳng có một thú riêng nào. Cái ẩm ướt của vùng đầm lầy trên Isle of Sheppey đã chạy khắp huyết quản của anh ta. Cả những bản năng tinh mắt do ông bà làm nghề hàn thiếc của anh ta truyền lại nữa. Anh ta lúc nào cũng dòm ngó tìm kiếm một mối lợi cho mình.

“Tuyệt vời,” - Claude nói - “giờ thì em trông rất tuyệt. Em nên kiếm cho mình một đôi giày ống đi. Hãy đến mà khoe với mấy anh chàng cá đi chứ.”

Chúng tôi lên giường, vật lộn và quẫy đạp trên cái khoảnh chật hẹp đó. Tôi ngủ thiếp đi một lúc. Có lẽ lũ rắn, bươm bướm hay nhiều con vật khác biến đổi từ hình thái này sang hình thái khác cần phải nghỉ ngơi sau quá trình gắng sức vất vả thay đổi bản thân cả bên trong lẫn bên ngoài. Tôi ngủ một cách khó khăn nặng nhọc, một trong những giấc ngủ rơi thẳng vào bóng đen tăm tối không mộng mị.

Khi tôi tỉnh dậy, Claude đang lục lọi túi xách của tôi. Tôi he hé mắt, dõi nhìn anh ta một lúc. Anh ta đẩy cây son môi của tôi lên xuống trong ống son, nhìn chằm chằm khuôn mặt mình trong cái gương của hộp phấn sáp màu vàng rồi săm soi tất cả các món đồ nhỏ lặt vặt trong túi. Tôi nghĩ anh ta chuẩn bị lấy mấy tờ 8 bảng mà bác tôi đã trả công cho tôi nhưng anh ta chỉ đếm tiền, liếm mấy đầu ngón tay rồi để trả lại vào túi xách một cách thận trọng. Thế là hôm nay không có cái trò lấy cắp tiền trong ví người chết. Tôi nghĩ bụng rồi giả vờ thức dậy, vươn hai cánh tay ra phía anh ta. Claude đặt cái túi xuống và quay lại nằm xuống bên cạnh tôi, vuốt mái tóc tôi như thể đang mài mạt sắt.

* * *

Bác tôi nghĩ rằng ông muốn tổ chức một bữa tiệc sinh nhật cho tôi ngay trong vườn nhà ông. Tôi sắp sửa được 25 tuổi rồi. Kế hoạch của ông là thuê thợ tới dọn dẹp sạch sẽ khu vườn, nhổ hết đám cỏ dại và cây con, xô các bụi cây ra và dựng một cái rạp to. Ông thậm chí còn nghĩ tới việc thuê một dàn nhạc nhảy tới chơi vào dịp này hoặc nếu không thuê được thì sẽ mượn một dàn âm thanh lớn mà người ta đã dùng ở các lớp dạy khiêu vũ. Kế hoạch tổ chức tiệc sinh nhật là một phần trong tính cách thích phô trương của bác tôi, người đã từng có thời sở hữu một căn nhà ở khu dành riêng cho giới thượng lưu, người đã từng mua vé hạng nhất bay tới New York vào năm 1961 và xem Eartha Kitt[55] biểu diễn nhạc sống tại Camegie Hall. Sự yêu thích một cuộc sống xa hoa nhung lụa, yêu thích những cái bánh ngọt phết kem và những cô gái điếm đẫy đà tròn trịa đã có ở ông trước khi ông trở thành một nô lệ lao động khổ sai tại Ukraine. Nhưng khi ông không còn phải sống kiếp nô lệ nữa thì niềm yêu thích đó quay trở lại với một cấp độ mãnh liệt đến bạo tàn. Ông ham sống và khao khát, tham lam sở hữu vật chất. Đồ ăn thức uống, những món hàng xa xỉ, thú vui nhục dục. Rồi tiếp đó là 14 năm trở lại tù tội. Cuộc đời của ông là một chuỗi những thăng trầm, lên voi xuống chó.

Thế nên, ông mơ đến chuyện tổ chức tiệc sinh nhật cho tôi. Ông không còn là một tay triệu phú nữa, thậm chí lúc ông được như vậy, phần lớn tiền bạc chỉ tồn tại trên giấy tờ. Dẫu vậy, ông không hề nghèo và chẳng biết đốt tiền vào thứ gì nữa cả. Bất kể ta có thể nói như thế nào về ông thì ông không bao giờ là một kẻ keo kiệt, bủn xỉn. Vấn đề không phải là ông yêu thích tiền mà là yêu thích những thứ ta có thể mua được bằng tiền. Có tiền chỉ để nhằm mục đích giàu có không phải là điều ông quan tâm thích thú.

Tôi không nghĩ bác mình có ý định nghiêm túc thật sự về chuyện tổ chức tiệc sinh nhật. Mãi đến khi mấy người thợ đến cùng bao thứ dụng cụ lỉnh kỉnh nào cưa, nào hái, nào súng phun lửa, nào bình xịt thuốc trừ cỏ bằng nhựa và máy xén cỏ, tôi mới tin ông nói thật. Từ bồ công anh, cúc, mao lương hoa vàng, đám cây con, thường xuân mọc chen chúc, dây leo bạc bà đâm rễ từ dưới đất lên rồi bò khắp hàng rào cho tới bản thân cái hàng rào với những tấm phên giậu mục nát, tất cả đều bị dọn sạch. Mặt đất trơ trụi và tất cả những gì còn sót lại chỉ là vài chòm lá chảy nhựa, vài đám cỏ bị cày xéo, dập nát, vài bụi tử đinh hương và một cây tần bì. Ngày hôm sau, công việc dọn dẹp khoảnh đất kết thúc. Người ta quay lại, đào một cái hố và trồng một cây sơ ri đang trổ hoa mà họ cam kết là sẽ nở bung vào mùa xuân năm sau.

Tôi không biết liệu Eunice có cố can ngăn bác tôi thực hiện những ý tưởng ngày càng chi tiết tỉ mỉ của ông hay không. Ông thấy bị tổn thương bởi sự ghen tị của cô người tình. Tôi là tất cả những gì ông có; tôi là người sẽ cứu rỗi ông, không phải chỉ thông qua công việc liên quan đến câu chuyện của ông, quyển sách mà ông thực sự hình dung ra là sẽ được in và được xuất bản, bày bán tại các cửa hàng sách, mà còn thông qua hồi ức sống mãi trong một tâm trí khác, một cảm giác mà ở đó đối với tôi ông đóng vai trò như một người cha giống như bố tôi. Thậm chí còn sâu đậm hơn nữa. Vì ông hẳn đã hiểu ra rằng tôi đang nghiêng về phía ông trong cán cân đo lường mức độ phung phí của con người và niềm khao khát sống hơn là nghiêng về người thợ kim hoàn có nước da xanh tái, đeo mắt kính và vận bộ đồ bụi bặm, đếm ngày của mình thông qua cái vùng vô hình của màn hình ti vi.

Và bác tôi đã đúng. Tôi cũng giống ông. Tôi thực sự có tất cả mọi khuyết điểm của ông.

Như vậy là các kế hoạch tổ chức sinh nhật đã đâu vào đó. Rạp đã được đặt. Eunice sắp xếp chuyện đồ ăn nước uống.

– Cô có phiền không nếu tôi mời một số anh em bằng hữu của tôi tới dự tiệc sinh nhật? - bác tôi hỏi - Tôi muốn họ thấy tôi có một cô thư ký xinh đẹp nhường nào và cuốn sách mà cô ấy sắp sửa viết cho tôi ra sao. Cuốn sách về cuộc đời tôi.

– Chắc chắn là có đấy ạ - tôi đáp, cảm thấy buồn cười trước sự ngạo mạn của ông. Đối với tôi, bữa tiệc giống như một trò hề. Tôi không biết liệu có ai đến không. Nhưng ông bác Sándor đã mời tất cả mọi người, từ Jim trong lớp học khiêu vũ cho đến ông thầy dạy nhảy đeo túi xách da cá sấu lộn ở mặt trong lẫn mặt ngoài.

– Chúng ta sắp sửa có một cuộc trình diễn tango, - ông nói.

– Thế cô định mặc gì? - Eunice hỏi - Chưa bao giờ trông cô giống dân hippi hơn lúc này.

– Chà, chà, tất nhiên rồi. Chúng ta sẽ đưa cô tới cửa hàng để mua cho cô một cái váy. Một cái đặc biệt cho dịp này, - bác tôi nói.

– Thôi được rồi, bác ạ. Cháu có váy rồi. Cái váy bác đã mua cho cháu đấy, - tôi đáp.

– Không, không, cô phải có một chiếc váy mới. À, nhân tiện đây cho tôi hỏi, cô có mời bố mẹ mình tới dự không?

– Sao lại không ạ?

Thậm chí họ chưa từng thân thiết với nhau, ngay cả khi còn niên thiếu, nhưng tôi nghĩ rằng họ cần được hàn gắn, nhích lại với nhau. Và sau đó, tôi phát hiện ra đây chính là điều mà bà nội tôi hẳn đã muốn làm và chính tôi, thế hệ tiếp theo của dòng họ Kovacs, là người thực hiện những ước nguyện cuối cùng của bà.

Chính cái chết của bà vào tháng 11.1965 mới là thứ khiến bác tôi quyết định đến đây, đến thành phố London này, chứ không phải là cuộc nổi loạn bất thành chống lại xe tăng của Liên Xô. Một khối u đã phát triển trong ngực bà mà không ai hay biết. Chẳng có bàn tay nào chạm vào hay vuốt ve âu yếm lên bộ ngực đó kể từ khi chồng bà bị bắt đi lao động khổ sai vào năm 1939. Bà nằm trong bệnh viện, ốm yếu và bệnh tật, nói với bác tôi: “Con trai, hãy đi và tìm em trai con. Đi đi và ở cùng nó. Hai đứa con của mẹ phải thuộc về nhau. Đi đi. Đi đi, con!”

Bà đã nâng niu gìn giữ những bức thư mà bố tôi gửi cho bà kể từ sau chiến tranh trở đi, những bức thư mà trong đó bố tôi đã cẩn thận viết rất chung chung và tránh đề cập đến bất kỳ điều gì về cuộc sống của ông ở London nhằm tránh bị kiểm duyệt. Đây là lần đầu tiên ông bác Sándor của tôi nói xa nói gần tới chuyện ông có một đứa cháu gái và chờ xem liệu tôi có mắc câu không. Nhưng tôi đã không dính mồi, khi đó thì không. Tôi đang nghiền ngẫm thông tin bà nội tôi đã biết tất cả mọi việc về tôi từ khi tôi sinh ra cho đến khi tôi được ba tuổi, cũng là lúc bà mất. Bà có một tấm ảnh chụp tôi. Nó được lồng vào một khung bạc và được đặt trên một cái tủ com-mốt nhỏ trong căn hộ của bà. Nó cũng theo bà vào bệnh viện ung bướu. Tôi đã ở đó, cùng với bà khi bà chết - bác Sándor kể lại - cả hai chúng tôi, ông và cô cháu gái bé nhỏ, đều có mặt ở đó. Ông vẫn còn giữ tấm ảnh đó nhưng dĩ nhiên là không còn khung. Ông phải vứt bỏ cái khung khi ông đi ra nước ngoài nhưng bức hình thì vẫn nằm bên trong túi ngực của áo khoác, gần tim ông, lúc ông rời Budapest. Ông sẽ cho tôi xem vào tuần tới, sau bữa tiệc sinh nhật - một mảnh giấy chưa xén mép có tôi ở trong đó, một bé gái có cái đầu tròn với mái tóc đen đang nằm trên đôi tay của mẹ tôi ở phòng khách của chúng tôi tại Benson Court. Tôi đã quên đôi mắt mẹ tôi từng sáng như thế nào, mái tóc của bà bóng mượt mềm mại ra sao. Có một bàn tay với các móng được cắt sửa gọn gàng đặt trên vai bà nhưng nó bị cắt ngang trong khung hình: bố tôi. Tôi không biết ai đã chụp tấm ảnh này.

Ngày 1 tháng 12, hai tuần sau khi bà nội tôi mất, người con trai cả của bà đứng trong nghĩa địa, biết rằng giờ đây ông không còn ràng buộc gắn bó với ai, rằng chẳng còn một ai đã từng mang họ Klein đến từ ngôi làng Mád, những người đã bị đẩy tới lò thiêu người của Đức Quốc xã, còn sống, ông lội bộ trong tuyết cùng với một nhóm những người tị nạn khác qua biên giới Hungary vào Áo. Quân đội bắn vào họ khi họ lẩn mất giữa rừng cây. Ông kể, chuyện này đối với ông thật dễ dàng: “Chỉ là một cuộc dạo bộ nho nhỏ trong rừng so với những gì chúng tôi đã trải qua trong suốt chiến tranh. Lần này lại có cả áo khoác và ủng tốt nữa.”

Một trận bão tuyết xảy đến và che lấp hết mọi dấu vết của họ. Những ánh đèn của ngôi làng đã hiện lên trong tầm mắt ở phía trước. Gió ngừng thổi. Mọi thứ trở nên tĩnh lặng. Một người nào đó nói anh ta nghĩ mình đã trông thấy một con đại bàng và tất cả mọi người phá lên cười. Làm sao có thể có một con đại bàng ở đây được, loài chim trong sách và những câu chuyện cổ tích? Một cậu bé đưa ống tay áo lên chùi mũi và mẹ cậu bắt đầu bảo cậu đừng làm thế vì mũi dãi sẽ làm hỏng cái áo khoác tốt. Bác tôi lúc đó thì mơ màng về tất cả những người tình mà ông đã từng ngủ với họ, tên của họ và thứ tự mà họ đến với ông.

Một cô đội tóc giả vì tóc thật của cô ta đã rụng hết; một cô có một chân bị thọt; một cô có một bàn tay bị khoèo. Đột nhiên, ông nhận ra rằng ông bị cuốn hút tới những người đàn bà hơi chút xấu xí, khiếm khuyết không ở chỗ này thì cũng ở chỗ kia, không phải những người khá hoàn hảo hay đẹp tròn trịa. Ông tự hỏi sao lại như vậy. Nhưng bác tôi không phải là tuýp người có tính cách hay tự vấn nội tâm mình nên ông bỏ lửng luôn suy nghĩ đó.

Họ vượt qua biên giới và bác tôi lần đầu tiên trông thấy phương Tây. Ông được người ta đưa cho một bộ đồ mới. Ông trải qua vài tuần ở trong một trại tị nạn. Rồi sau đó là tới Vienna và chuyến đi trên một toa tàu tới một nơi mà trước đây ông chưa từng trông thấy bao giờ: một bờ biển. Biển. Xám xịt, cuồn cuộn sóng. Nhấp nhô, lắc lư. Đi phà, cập bến tại Dover và đi tàu hỏa hơi nước về hướng Bắc tới London. Ông kể đó là một ngày trời đẹp, quang đãng và sáng sủa nhưng sương giá và lạnh. Tràn ngập bởi tất cả mọi thứ bên ngoài cửa sổ, con tàu hơi nước ào ào lao qua ánh mặt trời vàng nhạt và bên trong toa tàu, chiếc ghế bọc vải nhung sang trọng màu hạt dẻ mà ông đang ngồi như thấm đẫm nỗi phấn khích của ông.

Những ngôi nhà mới kỳ lạ làm sao!

“Ngôi nhà nào cũng có vườn, ta có thể trông thấy chúng,” - ông kể - “vì chúng nằm ngay sau những đường ray. Một số khu vườn có cây ăn quả; một số thì có những bụi hồng còn số khác thì trông hoang vu, um tùm như thể chẳng có người nào chăm sóc chúng. Cửa sổ thì cao và các ngôi nhà cũng cao. Tôi chưa từng trông thấy cái nhà nào giống như kiểu nhà này ở Hungary, nơi mà chỉ có những khu chung cư mọc quanh một cái sân nhỏ và tất cả mọi người đều biết chuyện của người khác. Sau này tôi nghe được một câu châm ngôn mà người ta nói ở đây: “Nhà của một người Anh là thành trì của người ấy”. Tôi nghĩ, ở Buda, chúng tôi có một tòa lâu đài, nơi Đức vua từng sống. Nhưng ở Anh, tất cả mọi người đều có thể là vua, thậm chí đến ngay cả tôi. Đó là điều tôi đã nghiệm ra ngay cả trước khi tôi đặt chân tới thành phố London.

“Tôi nhìn những ngôi nhà, mở cả hai mắt ra nhìn hau háu. Tôi muốn biết ai là người chủ sở hữu chúng và ai là người sống ở bên trong những căn nhà đó, họ phải trả tiền thuê nhà là bao nhiêu và họ phải trả tiền đó cho ai? Những bộ luật nào quy định những giao dịch này? Một người như bản thân tôi có thể kiếm được bao nhiêu tiền từ những giao dịch đó? Đây là tất cả những ý nghĩ đã lướt qua đầu tôi lúc con tàu đưa tôi mỗi lúc đến gần hơn với cuộc sống mới của mình. Từ trên tàu hỏa, tôi cũng thấy có nhiều mèo trong các khu vườn. Thậm chí còn có sóc trèo lên trèo xuống các cây và những tổ chim rất sạch sẽ trên những cành cây trơ trụi lá. Tôi ngạc nhiên trước tất cả mọi thứ.

Thời điểm mà bác tôi đặt chân đến Anh là lúc chiến tranh vừa kết thúc. Nếu ông không được cho thôi lao động khổ sai vào năm 1944 và được đưa trở lại Budapest, nếu ông được quân Anh hay Mỹ giải phóng và đưa tới một trại tị nạn, hẳn là ông đã đến Anh sớm hơn đó 10 năm. Ông bảo với tôi, thời đó, ta có thể đến một phòng đấu giá trên phố Queen Victoria và mua một căn nhà với giá chỉ 10 bảng Anh, thậm chí 5 bảng. Hồi đó làm ăn là như vậy. Mua rẻ như bèo rồi bán lại đắt như tôm tươi. Đó là một vận đỏ và chẳng có thuế má gì đối với tiền lời kiếm chác được. Nếu ông đã đến London khi đó thì hẳn ông đã trở thành một triệu phú bất động sản rồi và vào thời điểm người ta tống ông vào tù, ông hẳn đã nghỉ hưu rồi. Nhưng, đặt chân đến London vào năm 1956, ông đặt ra vài câu hỏi, nhận được vài câu trả lời và định hình suy nghĩ về cách một người như bản thân ông, một người tị nạn chẳng có một thứ gì trong tay, có thể tạo dựng một cuộc sống thoải mái như thế nào, thậm chí là phát đạt và trở nên giàu có.

Chính một cuộc gặp tình cờ trên đường phố đã dẫn ông tới một lĩnh vực kinh doanh mới. Bác tôi cũng thích có mặt ở trung tâm của mọi sự kiện, nơi mà người ta tụ tập, nơi mà ta có thể nhìn thấy một cơ hội, chứ không phải ngồi giam mình trên giường, ngó chăm chăm vào bốn bức tường. Ông nhận thấy cái nơi mà sau này trở thành đại lộ Piccadilly Circus, nơi có tượng thần Tình yêu cầm cung tên, là nơi mà tất cả mọi người đều nghĩ rất nhiều về nó; hay khu phố Oxford Circus - nơi bốn con đường quan trọng giao nhau và mỗi con đường đều có nhiều cửa hàng lớn với đông người qua lại - cũng vậy. Những người qua lại nơi đây đều có tiền trong túi và có nhu cầu mua sắm. Có một cơ hội làm ăn và tất cả mọi người ai ai cũng nhận thấy điều đó.

Vào một ngày thứ bảy mùa đông ngay trước thềm Giáng sinh, trên phố Regent, vào khoảng 5 giờ chiều, ông bác Sándor của tôi đi ngang qua một cậu thanh niên bán những con gấu đồ chơi vặn dây cót đựng trong một cái va li.

Anh chàng nhà nghèo chắc chỉ mới 22-23 tuổi nhưng đã hói sạch và đội một mái tóc giả trông gớm ghiếc. Mặc bộ đồ rẻ tiền, mang đôi giày kếp da đanh màu xanh, anh ta lên dây cót cho những con gấu rồi thả chúng chạy khắp trên vỉa hè, dưới chân của đám đông người qua đường đang tụ tập lại để xem. Bác tôi chẳng thích thú gì với mấy thứ đồ trẻ con đó nhưng ông chẳng có việc gì khác để làm. Ông quan sát anh chàng kia bán mấy con gấu đồ chơi. Anh ta bán rất chạy và dễ dàng. Nhưng anh chàng kia, về phần mình, đã trông thấy Sándor đang quan sát anh ta và ngay lập tức, bác tôi hiểu rằng anh ta nghĩ bác tôi là cảnh sát vì anh ta bắt đầu hốt hoảng cuống cuồng vơ tất cả mấy con gấu đồ chơi ném vào chiếc thùng.

Anh ta không phải là một người khéo léo. Mấy con gấu bị lộn đầu trên vỉa hè. Một số con bị gãy đầu, gãy chân gãy tay vĩ rõ ràng chúng chỉ là mấy món đồ chơi rẻ tiền và có lẽ là đồ ăn cắp ở đâu đó. Hình ảnh mấy con gấu bị gãy tay gãy chân, què cụt đã làm lũ trẻ con hoảng sợ. Một vài đứa bắt đầu la khóc.

“Tôi muốn anh trả lại tiền cho tôi” - một người phụ nữ đòi và cố giằng con gấu đã mua ra khỏi tay của cậu con trai nhưng một khi trẻ con đã có đồ chơi rồi thì nó sẽ không bao giờ thả ra. Giờ thì cảnh tượng thật ồn ào với những tiếng la hét, gào khóc trong lúc anh chàng có mái tóc giả cứ chạy vòng quanh, cố nhặt hết tất cả mọi con gấu. Với vốn tiếng Anh rất cơ bản của mình, ông bác Sándor cố giải thích với anh ta rằng ông không phải là cảnh sát và chứng minh điều đó qua bàn tay và đầu gối của mình. Rồi ông giúp anh chàng kia nhặt bỏ mấy con gấu vào trong thùng. Cả hai cùng nhau cố gắng sửa chữa, gắn lại đầu và tay chân của lũ gấu đồ chơi rồi vặn cái khóa lên dây cót xem chúng có còn chạy được nữa hay không. Và giờ thì họ đã có rất nhiều con gấu chạy vòng quanh. Một cách khá tự nhiên, họ nhận thấy ngôn ngữ tốt nhất để hiểu nhau không phải là tiếng Anh, dĩ nhiên cũng không phải là tiếng Hungary, thứ tiếng mà anh chàng kia chẳng hề biết lấy đến một chữ, mà là tiếng Yiddish[56], tiếng mẹ đẻ của họ, thứ tiếng mà họ đã học hồi còn là những cậu bé, một ở ngôi làng tại Zémplen và một ở Bethnal Green. Một ngôn ngữ mà ngày nay, thậm chí là trước đây, không còn được sử dụng ở tất cả các nước châu Âu, giờ đây đã vượt qua mọi biên giới. Bằng cách này, một người Anh và một người Hungary có thể nói chuyện được với nhau. Nói bằng tiếng Yiddish. Tên của anh chàng thanh niên đó là Mickey Elf. Họ đi đến một quán rượu để cùng nhau uống và bác tôi giải thích về hoàn cảnh của mình để Mickey biết ngay từ đầu rằng mặc dù ông là một người nhập cư, một dân tị nạn trong khi Mickey sinh ra ở đây nhưng ông sẽ làm chủ. Và thế là họ bắt đầu công việc làm ăn cùng nhau. Mickey lo một việc còn bác tôi lo một việc khác. Mickey có tất cả mọi mối quan hệ. Theo lời khuyên của Mickey, bác tôi mở một dịch vụ trung gian về thuê nhà, công việc mà ai cũng có thể làm. Ta có thể điều hành công việc kinh doanh từ một buồng ngủ nhưng sở hữu những căn nhà và lấy tiền thuê nhà mới là nơi đẻ ra tiền. Mickey giải thích, ta có thể mua nhà với giá rất rẻ, nhưng vấn đề rắc rối nằm ở chỗ những người thuê nhà bị kiểm soát, những người thuê được pháp luật bảo vệ: ta không thể tống khứ họ đi hay tăng tiền thuê nhà lên được. Ta cần phải tìm ra nhiều cách thức và phương tiện để lách vấn đề này. Bác tôi nói cách thức và phương tiện thì lúc nào mà chẳng có, dĩ nhiên là như vậy rồi. Nó đòi hỏi phải có đầu óc thông minh mưu mẹo và điều này thì bác tôi có.

Những gì mà tôi biết, những gì mà bất cứ ai theo dõi vụ xét xử bác tôi cũng biết - hay những gì mà họ đọc về ông trên các báo và nhìn chằm chằm khuôn mặt quỷ sứ của ông - là tình trạng bẩn thỉu, hơi nước đọng lại trên các bức tường chảy thành dòng, những đứa trẻ chết vì bệnh viêm phế quản, cái rét buốt run người mà những người từ vùng Carribe vừa mới chân ướt chân ráo đặt chân tới London phải chịu đựng khi thuê nhà của ông bác tôi.

“Để tôi nói cho cô biết ai là người mà không ai muốn cho thuê nhà, - ông nói với tôi. - Đó là những người da màu, những người Tây Ấn đã rời khỏi các hòn đảo của mình tới đây trên những chiếc thuyền, những người mà người ta mang đến đây để lái xe buýt và tất cả công việc chỉ có thế. Tại sao? Tại sao người ta không muốn cho họ thuê nhà? Tiền của họ cũng có màu giống như tiền của bất kỳ người nào khác, chẳng khác nhau tí nào. Đồng 10 shilling trong tay một người Anh cũng có màu nâu như trong tay của một người Jamaica.”

“Định kiến. Tất cả chuyện này cũng chỉ vì thế. Họ đặt chân đến nhà ga Victoria, nhân tiện tôi cũng nói cho cô biết đó cũng là nơi tôi được đưa đến, và tất cả hành lý của họ bị chất thành một đống lớn cạnh sân ga. Họ đến cùng với một niềm hi vọng tràn trề trong tim nhưng họ đã tìm thấy gì nào? Những biển hiệu. Cấm người da màu. Cấm chó. Những biển hiệu này tôi đã biết do những trải nghiệm trước đó của tôi dù da của tôi có màu nhợt tái.

Không ai buộc những người da màu đó tới thuê nhà của tôi. Tôi chẳng sai một đứa đầu bò đầu bướu nào ra ngoài để cò mồi dụ dỗ khách hàng. Tất cả mọi người đều biết tên của tôi. Ngày đó, với họ, cái tên Sándor Kovacs cũng nổi tiếng ngang ngửa với công tước Ellington hay võ sĩ nhà nghề Sonny Liston. Tại tòa, một quý ông Tây Ấn đã cố nói cho tôi: “ông ấy là một vị cứu tinh và mọi người kính trọng ông ấy.” Đó là những gì ông ta nói và ông ta thậm chí không phải là một trong những khách thuê nhà của tôi mà là người mà người ta gọi là nhân viên xã hội. Thế thì có phải là tôi đã cho thuê nhà với cái giá cao hơn giá mà một người thuê nhà bị quản lý cần phải trả hay không? Tôi là người nhân đức, từ thiện đấy chứ?”

“Nói về một căn hộ, một căn phòng không có đồ đạc, ta không thể đẩy người thuê nhà ra ngoài, họ có thể ở đó cả đời và ta thậm chí không thể tăng tiền cho thuê nhà nếu không muốn ra tòa. Đó là luật. Còn về một căn hộ có đồ đạc đầy đủ thì đây lại là một vấn đề khác. Đối với khách thuê những căn hộ được trang bị đầy đủ, ta có thể lấy giá cho thuê ngang với mức thị trường chấp nhận và ta có thể gửi thông báo cho họ trước một tháng. Nếu họ không dọn ra, ta có thể kêu cảnh sát tới tống họ ra ngoài.”

“Giờ thì xem một người Tây Ấn có đồ đạc gì của mình nào? Anh ta đến đây mà không có giường, có bàn. Tôi chu cấp cho anh ta tất cả mọi thứ - giường, bàn, bếp hâm để anh ta có thể nấu cơm và đậu. Có thể là chiếu có mùi nước tiểu. Nhưng thế thì đã sao nào? Ở cái nơi mà tôi đã ra đi ấy, thậm chí còn chẳng sang đến mức có chiếu. Để tôi nói cho cô nghe, đối với tôi, những căn phòng mà tôi cho thuê chắc chắn phải gọi là cung điện vào thời chiến tranh. Bọn họ gọi tôi là một tên ăn bám. Nghe này, những kẻ ăn bám là tụi quý tộc, những kẻ chủ nhân ngồi chễm chệ trên cái mông của chúng cả trăm năm, chờ những họp đồng thuê nhà tới. Còn tôi, vào những ngày đầu chân ướt chân ráo đặt chân tới đây, tôi đã làm việc bất kể ngày đêm từ những ngày đầu, đi thu tiền thuê nhà và thu tiền xu ở các điểm lắp đồng hồ đo khí đốt. Phải, trước khi tôi có một chiếc xe hơi, tôi đã trút những đồng xu lẻ kiếm được vào những cái thùng rồi lôi chúng về nhà bằng xe buýt. Đấy, chuyện làm ăn kinh doanh của tôi hồi đầu là như thế đấy.”

“ Về sau, tôi có một đội ngũ những người chuyên đi thu tiền thuê nhà. Tôi luôn luôn thuê người của họ, những người Tây Ấn khác, cũng giống như họ. Tôi cho họ một công việc khi tất cả mọi cánh cửa đều đóng sầm vào mặt họ. Tôi nói với họ, tiền thuê nhà là 6 bảng Anh. Anh có thể giữ lại 5 bảng. Cô thấy không, họ sống nhờ vào tiền hoa hồng, họ có một động cơ làm việc. Tại tòa, tôi nghe rằng họ đã đe dọa những người thuê nhà nếu những người này không trả tiền đúng hạn. Trong chuyện này, đây là lỗi của ai? Tôi chưa bao giờ đe dọa một người nào hết. Lẽ ra người ta nên khiếu nại người của họ chứ không phải tôi.

“Dĩ nhiên khi người Tây Ấn dọn tới ở thì những người thuê nhà da trắng làm ầm ĩ cả lên. Những người da trắng này chỉ phải trả 1 bảng một tuần mà vẫn kêu ca phàn nàn, trong khi đó số tiền thuê nhà quá nhỏ mọn nên gần như chẳng phải đáng để tôi thu tiền của họ. Họ phàn nàn rằng, làm sao tôi dám để họ thành hàng xóm với những người da đen đó? Họ chơi nhạc suốt đêm, uống rượu mạnh, tổ chức tiệc tùng. Lại còn nuôi súc vật nữa.”

“Các người không thích điều này sao? tôi bảo. Thế thì chuyển đi chỗ khác.”

“Giờ thì họ buộc tội tôi là đã ép buộc họ ra khỏi nhà họ, cho lũ dắt mối và gái điếm vào ở những căn nhà đàng hoàng. Đây là một vấn đề khác. Đến giờ này thì cô đã biết tôi rồi. Cô biết là tôi luôn luôn làm công việc mối lái này mà.”

Nhưng còn chuyện về người em trai của bác thì như thế nào? Tôi cắt ngang lời bác tôi. Việc tái hợp giữa hai anh em diễn ra ra sao?

Bác tôi trông hết sức giận dữ. “Không,” - ông đáp cụt lủn - “chuyện đó không thành”. Rồi bác tôi vươn người tới trước để tắt chiếc máy thu âm. Tôi cần phải hiểu rằng buổi trò chuyện của chúng tôi hôm nay tới đây là kết thúc và đã đến lúc tôi bắt đầu đánh máy lại nội dung.

Chú thích:

[55] Ngôi sao điện ảnh, ca sĩ nổi tiếng người Mỹ.

[56] Yiddish là tiếng Đức cổ của người Do Thái ở Trung và Đông Âu.