← Quay lại trang sách

Chương 16

Bác tôi cho tôi ở trọ một căn hộ, thuê miễn phí (Cháu nghĩ là bác đi lấy tiền thuê nhà với người trong nhà sao? - ông nói với tôi). Đó là căn hộ tốt nhất trong toàn bộ khu nhà này, ngoại trừ căn hộ của riêng ông. Ông hẳn phải đá một ai đó ra ngoài để có chỗ cho tôi: trả tiền cho họ để họ dọn đi hoặc gửi một trong số những “mối giao du” của Mickey đến để tống họ đi. Tôi biết họ là ai. Họ rời đi vội vã, đem theo cả giường chưa kịp dọn, những tấm khăn trải giường bị ố bẩn và đầy những mảnh vụn, như thể chúng đã bị đảo lộn, xáo trộn vào ban đêm. Chính trong căn phòng đó, tôi bắt đầu đọc sách trở lại. Tờ rơi có rất ít thông tin nhưng cả một cuốn sách thì đầy những tư tưởng, ý nghĩ và bẫy ta rơi vào những cảm xúc phức tạp. Không hề có sự chai lì tê liệt cảm xúc trong những trang tiểu thuyết. Thường thì ta hay cảm thấy khó chịu, cảm giác khó chịu của cô công chúa trong truyện cổ tích trằn trọc vì nằm trên núi đệm êm ái mà phía dưới có giấu một hạt đậu. Những cuốn sách tôi đọc nói về những vùng đất xa xôi, những nơi có đền chùa, đồng lúa, cồng chiêng bằng đồng, bọn giết người ẩn nấp trong các ngọn núi, những hành động phi thường táo bạo đã xa.

Nhưng lịch sử của dòng họ Kovacs, lịch sử của chúng tôi ở Hungary, tiếp tục quấy rầy tôi. Nhiều người đã mất và cuộc sống của họ trong quá khứ vẫn hiện diện trong các góc tối của căn phòng. Nói như các giáo viên dạy về lịch sử thì chỉ trong vòng một vài tuần, từ một cô gái chẳng có nguồn gốc tổ tiên, tôi đã trở thành người có quá khứ. Bác tôi và bố tôi đã có nhiều lựa chọn khác nhau: một người sống sót bằng cách chống đối mạnh mẽ, người kia tồn tại trong trạng thái bị phân rã hết một nửa cuộc đời. Những lựa chọn khác nhau đó khiến tôi phải tự hỏi liệu mình sẽ làm gì khi ở vào địa vị của họ. Bẩm sinh, tôi không có bản năng tàn nhẫn như của bác tôi, không có đầu óc buôn bán tính toán nhanh nhạy, sẵn sàng thương lượng, giao dịch, trao đổi bất kỳ một loại hàng hóa nào, kể cả con người, như ông. Tôi cũng không thể chịu đựng nổi hàng chục năm tự giam cầm, giết dần giết mòn mình như bố tôi đã áp đặt lên chính ông; sự khuất phục một cách thấp hèn trước tất cả mọi thế lực của ông làm cho tôi phát điên vì cáu giận. Tôi muốn được sống. Tôi chỉ muốn được sống.

Và, nếu cuộc đời dẫn dắt ta tới chỗ bất định, đẩy ta ra ngoài lề xã hội xa lạ, đến những nơi mà người ta vật lộn để trưng ra toàn bộ con người mình, thông qua áo váy, tình dục hay bất cứ hình thức phô bày cá tính nào như vậy, thì đó sẽ là nơi tôi muốn đến.

Vậy là, tôi dành buổi sáng làm việc bên cái máy ghi âm và máy đánh chữ; buổi trưa nằm dài trên giường đọc sách; đầu giờ chiều tới các quán rượu, đứng phát tờ rơi ở bên ngoài; buổi tối ở cùng Claude nếu hôm đó anh ta làm ca ngày. Tôi không lừa dối bản thân mình về những gì đang diễn ra. Chúng tôi chẳng có một mối quan hệ tình cảm nghiêm túc thật sự. Chúng tôi chỉ có tình dục. Tất cả chỉ có thế. Một mối quan hệ tình dục vội vàng, nóng bỏng và đáp ứng nhu cầu bức bối. Thế mà, Claude đã mua cho tôi chiếc áo khoác da và món quà đó đã ngốn của anh ta khá nhiều tiền. Claude đã phải cắt bớt khoản tiền tiết kiệm cá nhân mà anh ta dành dụm để xăm mình. Anh ta biết tôi không thể có đủ tiền để mua một chiếc áo khoác cho riêng mình nếu tôi cũng muốn có một cái. Nhưng anh ta đã trông thấy tôi mặc cái áo của anh ta và không thể rũ được khỏi đầu ý nghĩ phải mua tặng cho tôi một cái. Có một cái gì đó khác về tôi khi mặc cái áo khoác da đó. Claude nói:

– Em trông như là một cô gái khác khi mặc cái áo da đó. Như thể em làm chủ luôn cả khoảnh đất mà em đang đứng. Ấy thế nhưng lúc em mặc mấy cái váy cũ rích mốc meo thì không được như vậy đâu.

– Váy áo của em sao nào?

– Chúng có mùi.

– Mùi gì?

– Mùi của mấy bà già. Và mùi của nước tiểu bà già.

Claude muốn gì ở tôi? Lúc nào trong đầu tôi cũng bán tín bán nghi rằng anh ta chỉ coi tôi là một phương cách để lấy được tiền của Lão K Đặc biệt. Tôi đã giúp anh ta đòi sửa xong cái cửa sổ rồi. Tôi có thể làm được điều gì nữa cho anh ta? Có thể là lão già K sẽ cho tôi một tờ séc có giá trị lớn, hàng nghìn bảng Anh, hoặc đơn giản là bỗng nhiên một đêm lão già ấy lăn ra chết, để lại cho tôi cái lô đất này. Hay cũng có thể tham vọng bình thường nhất của Claude chỉ là được khoác tay một “cô nàng giàu có, thượng lưu”, một cô nàng hấp dẫn đối với một anh chàng đến từ đảo Sheemess, để dạo bộ khắp thành phố London.

Hay thậm chí đơn giản hơn, Claude là nạn nhân của chính những hormone của mình. Những người đàn ông như anh ta phải vắt cạn sức lực mỗi đêm tìm kiếm gái về nhà với mình và nếu thông minh, họ sẽ hiểu rằng sắp xếp làm sao để thường xuyên có gái sẵn là chuyện thật quan trọng. Tôi không nghĩ mình là bạn gái mà là bạn tình của anh ta. Một bạn tình thường xuyên. Hẳn là anh ta còn có nhiều bạn tình khác nữa. Tôi không chắc lắm về điều này nhưng tôi không quan tâm. Claude hẳn cũng biết như vậy. Chúng tôi đang ở trong một hoàn cảnh thích hợp cho cả hai. Hoàn cảnh đó đáp ứng được nhu cầu hai bên, đó là điều quan trọng.

Cho lũ cá cảnh nhiệt đới ăn, nằm dài trên giường hàng giờ ngắm chúng bơi lội như phát sáng huỳnh quang trong chiếc bể là cách Claude giết thời gian rảnh rỗi của mình khi không đi làm hay không ngủ với ai đó. Sự tồn tại ngắn ngủi vô nghĩa, những hoa văn và sắc màu rực rỡ là điều mà anh ta thích ở lũ cá. Chúng ăn và bơi lội vòng quanh đằng sau lớp kính chẳng vì một mục đích nào cả. Ngắm nhìn lũ cá khiến cho trí tưởng tượng của Claude được bay nhảy tự do trong khi anh ta đang suy nghĩ thiết kế mẫu hình xăm của mình. Claude lúc nào cũng mơ tới cái hình xăm đó bất kể thức hay ngủ, khi ngắm nhìn lũ cá hay cưỡi chiếc xe đạp đến chỗ làm việc vào rạng sáng tinh mơ, băng qua những đường phố vắng vẻ ở mạn bắc thành phố London.

Trước khi rời Sheerness, anh ta đã mua một tập giấy vẽ phác họa, thứ mà anh đã cất kỹ trong va li khóa kín của mình. Tôi không được phép xem nó. Mà thực ra thì tôi cũng chẳng muốn xem vì tôi ghê những hình xăm, căm ghét cái ý tưởng thân hình Claude đâm ra xấu xí với mực màu, với những hình ảnh được xăm trổ bằng kim đâm vào da thịt. Xăm mình thì có gì sai trái nào? Anh ta hỏi. Tôi nghĩ chúng dung tục, tầm thường nhưng không thể nói thẳng điều đó vào mặt Claude. Vì vậy, tôi hỏi xăm mình có đau không. Claude nói chắc là sẽ đau và thừa nhận anh ta cảm thấy tò mò lẫn lo lắng về chuyện này và không biết liệu mình có chịu nổi không. Đối với anh ta, chuyện phải chuẩn bị tinh thần, không để cho mình hét toáng lên, thậm chí là không kìm được đau mà bật khóc ồ ồ (đặc biệt là trước mặt thợ xăm mình, người mà Claude cho rằng là một nhân vật có tính cách cứng rắn) là một chuyện hệ trọng. Anh ta bắt đầu tiến hành nhiều thí nghiệm cẩn trọng để thử ngưỡng chịu đau của mình, dụi điếu thuốc lá đang cháy vào mu bàn tay để xem mình có thể chịu đựng, không la hét được bao lâu. Tôi phải đi ra khỏi phòng và đứng ở hành lang khi anh ta thử làm điều đó. Khi tôi quay lại, điếu thuốc lá đã làm cháy xém da thịt của Claude, để lại một chỗ da bị cháy đen hình vòng tròn. Anh ta giơ nó ra và cười với chứng tích đạt được của mình, tiếng cười nghe giống như một con chó bị mắc kẹt chân trong bẫy.

Tối đó, anh ta rên rỉ trong giấc ngủ, vươn tay ra tìm tới ngực tôi, đặt mu bàn tay bị bỏng lên đó như thể ngực tôi có sức mạnh chữa lành vết thương.

Chỉ khi Claude đem đốt chiếc va li của mình thì cuối cùng tôi mới thấy những gì anh ta cất ở bên trong. Anh ta đang trải qua một giai đoạn muốn đốt phá. Claude tìm những con chim chết và hỏa thiêu chúng trên những giàn thiêu bằng lá. Anh ta nói về chuyện đốt những cột mốc ranh giới hành chính của thành phố London. Tôi nhắc đến trận Đại hỏa hoạn của London; cả thành phố bị thiêu rụi thành tro[59]. Đôi khi tôi nghĩ hẳn là anh ta thích thú với những sự kiện cháy nổ bất ngờ, ví như sự kiện dội bom thành phố Dresden, và thích lang thang dọc khắp bộ mặt bị cháy đen, sém khói của một thành phố trống trơn chẳng còn bóng người[60]. Tôi nghĩ Claude hơi kỳ dị nhưng vì đã lớn lên giữa những người lập dị nên chuyện đó chẳng có gì là mới mẻ đối với tôi. Bản thân tôi cũng mới thôi gặm những cái cốc uống nước cách đây chỉ vài tuần. Claude đem cái va li ra ngoài vườn để lập một bàn thờ mà trên đó anh ta bày một đống nhỏ các món đồ cúng tế: chiếc mũ bảo vệ của anh ta, thứ mà anh ta phải trả tiền đền, một cặp quần lót, một trong số những chiếc áo kiểu bằng vải sa tanh của bà Prescott.

Mớ quần áo không bùng lên thành những ngọn lửa như Claude mong đợi mà chỉ cháy âm ỉ và tỏa mùi hóa chất khó chịu, chủ yếu từ chiếc mũ. Cuối cùng, chiếc áo kiểu cũng đã biến thành một đống tro nhưng chiếc mũ vẫn ngoan cố còn nguyên hình dạng, sém màu nâu nâu, bắt lửa cháy rực chỉ tích tắc ở chỏm. Claude thấy chán, nhắm mắt lại và ngủ. Tôi tiếp tục quan sát những món đồ bị đem ra đốt cúng tế. Sau vài phút, chiếc va li bén lửa.

Tôi lay Claude để đánh thức anh ta dậy. “Anh định đốt va li của mình thật hả?” - tôi hỏi rồi cười to.

– Bỏ mẹ rồi! - anh ta chửi rồi cầm cái va li lên để dập cái đống lửa nhỏ nhưng cái quai cầm làm bằng sắt bọc da của va li đã bị lửa nung nóng. Claude hét lên, buông tay thả va li ra. Chúng tôi chẳng thấy chỗ nào gần đó có nước để dập lửa cả.

Chúng tôi phải chờ gần một tiếng đồng hồ cho cái va li nguội bớt mới đem nó vào nhà được. Cái khóa bị cong do sức nóng của lửa. Claude phải dùng con dao rọc giấy của mình để cạy mở va li. Anh ta nôn nóng muốn biết những thứ đồ cất bên trong có an toàn không. Nhưng anh cất gì trong đó thế? Tôi hỏi Claude. Thứ gì mà quan trọng đến vậy hả? Là đồ của anh - anh ta nói. Bên trong, chiếc va li chất đầy những món đồ nhỏ quý giá một cách khó hiểu đối với Claude: một cuốn tiểu thuyết bìa mềm “Người cuối cùng của bộ lạc Mohican” của James Fenimore Cooper với gáy sách tả tơi, cuốn truyện mà Claude nói với tôi là anh ta đã đọc nó không biết bao nhiêu lần và ám chỉ nó chứa tất cả những bài học lớn của cuộc đời. Nhưng tôi chưa bao giờ đọc cuốn đó. Tất cả những gì tôi biết là nó nói về người da đỏ; một cái vòng đeo tay của phụ nữ làm bằng những hạt bẹt bằng nhựa nhiều màu sắc xâu lại với nhau; một tấm bưu thiếp chụp Lâu đài Edinburgh; một túm lông chim két được cột bằng một sợi dây chun; những lá thư mang dấu bưu điện Sheerness và một túi kẹo.

Nhưng những lá thư, tấm bưu thiếp, cuốn sách, chiếc vòng đeo tay và túi kẹo không phải là thứ mà Claude lo lắng lấy ra khỏi chiếc va li. Tập giấy vẽ phác họa cuộn tròn được anh ta lấy ra và kiểm tra từng tờ để đảm bảo chắc chắn là nó không bị hư. Và thế là từng mẫu hình xăm của Claude bị phơi ra. Tấm đầu tiên là kết quả của nỗ lực cố gắng phác họa những chiếc mỏ neo của dân thủy thủ và những trái tim màu đỏ thẫm khắc tên của một người trong đó (HELEN - Claude giải thích - là tên của mẹ anh ta. Dù không yêu thương bà già khó chịu ấy đến mức đó nhưng ta cần phải đặt một thứ gì đó vào trong những trái tim). Các mẫu hình xăm trong những tấm tiếp theo càng lúc càng phức tạp và đầy tham vọng, thể hiện ý tưởng khá rõ, trong đó có mẫu vẽ một bầy cá đang bơi lội quanh một cánh tay. Tôi nhận ra một vài con vẽ theo mẫu thực trong bể cá. Cuối cùng, Claude lật tới trang cuối và đây, mẫu hình xăm cuối cùng của anh ta. Mẫu hoàn chỉnh.

– Em nghĩ sao? - anh ta hỏi tôi.

Tôi không tài nào rời mắt khỏi nó dù tôi rất muốn quay ra nhìn vào mặt Claude. Tôi cố gắng xem liệu có một sự sai lầm nào ở đây không, liệu rằng nếu ta nhìn nó từ một góc độ khác thì cái mẫu hình xăm đó có tự sắp xếp lại hình thù của mình và trở thành một thứ gì đó vô thưởng vô phạt hơn không. Nhưng, dù cho đôi mắt tôi vẫn dán dính vào trang giấy, nó vẫn nằm trơ trơ ra đó không đổi, neo chặt vào tờ giấy bằng bốn đầu của mình.

– Đó là một chữ thập ngoặc.

– Ừ, anh biết.

– Anh không hiểu nó là gì ư?

– Ừ thì đó là cái hình.

– Không đơn giản chỉ là một cái hình. Anh có biết nó là biểu tượng của cái gì không?

– Dĩ nhiên là anh biết. Mẹ kiếp! Đừng có ăn nói kiểu chặn họng anh như thế.

– Đó là biểu tượng của chủ nghĩa phát xít.

– Nó có thể là biểu tượng của bất cứ thứ gì em thích nhưng anh phải thừa nhận là chúng hơi có vẻ thô kệch, nặng nề. Chúng ẩn chứa rất nhiều quyền lực ở trong mình. Đó là lý do vì sao đã tồn tại hàng nghìn năm trước khi Đức Quốc xã chọn chúng làm biểu tượng cho mình. Người Ấn Độ, ý anh muốn nói là không phải người da đỏ ở Bắc Mỹ, đã nghĩ ra chúng đầu tiên. Anh thấy chúng quả thật là đáng kinh ngạc. Anh yêu chúng.

– Đừng có ngờ nghệch thế. Thời buổi này, chúng chỉ có một ý nghĩa duy nhất và anh cũng biết mà.

– Bận gì đến ai nào?

– Có, đến em.

– Tại sao? Sao em lại quan tâm đến nó?

Chúng tôi cãi nhau một hồi lâu. Claude nhảy qua cửa sổ xuống khu vườn, đứng dưới cây sơ ri mới trồng đang trổ hoa và hút thuốc. Qua khung cửa sổ mở, tôi thấy anh ta ngồi trên nền đất cứng, hai tay bó quanh đầu gối mảnh khảnh, với một vẻ cố chấp yếu đuối đã lôi cuốn tôi, với cái miệng mà tôi không cưỡng lại được, phải hôn. Anh ta là một thực thể sống trong vườn, tràn đầy nhựa sống và hormone sinh dục.

Tôi sẽ không kể với Claude sự thật về bác tôi, về con người của ông, về nơi ông đã rời bỏ để đến đây, về những năm tháng lao động khổ sai của ông. Chuyện đó chẳng liên quan gì đến Claude. Tôi cũng sẽ không kể với anh ta về việc mình là người gốc Do Thái. Bởi vì tôi chẳng cảm thấy chút Do Thái nào ở trong mình cả. Ngôi làng ở Zémplen, ông nội có những món tóc quăn trước tai, giáo đường Do Thái mà cả bác tôi lẫn bố tôi đều còn nhớ (bất chấp bố tôi phủ nhận) giống như trong những câu chuyện thần tiên của một thế kỷ khác.

Bố mẹ tôi nghĩ hòn đảo này, đất nước Anh này, là một ốc đảo của lòng khoan dung, độ lượng và đối xử tử tế. Nhưng, vượt qua phía bên kia Eo biển Anh, sự hoang tàn ảm đạm của những ý tưởng lớn có thể phồng to thành một hệ tư tưởng. Và, một khi người ta đã có một ý thức hệ rồi thì anh ta sẽ luôn luôn canh chừng đề phòng kẻ thù. Khi ta là kẻ thù của một người có ý thức hệ, ta đang rơi vào một rắc rối nghiêm trọng. Nhưng, qua những buổi tối đi phát tờ rơi, tôi lại biết một điều khác hẳn. Tôi nhận thấy rằng những con người khá bình thường, chẳng có tư tưởng gì, chỉ có thuần tình cảm, cảm xúc, cũng có thể là những người nguy hiểm không kém.

Dĩ nhiên tôi biết Claude không hề có tư tưởng Quốc xã nhưng điều khiến tôi buồn và cảm thấy sợ hãi là việc phát hiện ra rằng tôi chẳng có chút sức mạnh nào làm thay đổi suy nghĩ của anh ta, rằng anh ta nhất định không chịu suy nghĩ cho logic, thật sự là không chịu hiểu. Claude đang ở trên hành tinh riêng của mình và trên đó, anh ta định ra những luật lệ riêng. Ở vùng đất của Claude, như anh ta giải thích, dấu chữ thập ngoặc có thể mang bất kỳ ý nghĩa nào mà ta thích, tùy vào việc ta gán cho chúng những ý nghĩa của riêng ta. Đó là những gì mà Claude muốn nói, dù không thể hiện bằng lời. Hình xăm của anh ta thể hiện ý nghĩa biểu tượng cho riêng anh ta mà thôi. Claude là một người duy ngã luận và mang tư tưởng hư vô. Tôi nói với anh ta điều đó và khi nghe những từ ngữ nghiêm túc đao to búa lớn như thế dành cho mình, Claude đã cười một tràng thật dài, dài hơn tất cả mọi tràng cười mà tôi đã từng nghe từ trước đến giờ. Anh ta bắt tôi phải viết những từ đó xuống tập phác họa hình xăm của mình rồi tập viết lại chúng theo nhiều kiểu chữ nghệ thuật khác nhau.

Nhưng tôi sẽ không ngủ với anh ta nữa và Claude cảm thấy ngạc nhiên, tức giận vì chuyện chỉ vì một vài bức phác thảo trong một tập sách mà anh ta bị từ chối nhu cầu mỗi đêm.

* * *

Sau thành công của bữa tiệc sinh nhật, bác tôi và cô dâu tương lai của ông bắt đầu lên kế hoạch cho đám cưới của họ. Eunice đã đặt cho bác tôi một bộ comle chất liệu tơ tằm may ở Italy và đặt cho chính mình một chiếc váy mà chi tiết về nó là một bí mật được giữ kín như bưng nhưng người ta vẫn đoán rằng nó có nguồn gốc từ một trong những nhà may lớn của Pháp. Tất cả những gì bác tôi phải làm chỉ là viết séc và ông đã hết sức vui sướng về việc đó. Chiếc rạp và các dịch vụ ăn uống đã được ông đặt lại cho tiệc cưới vào cuối tháng 9. Như vậy là đã có một ngày được định. Đám cưới là một chuyện có thật.

Và thậm chí trước ngày đó, Eunice sẽ dọn đến ở cùng với bác tôi. Nói như Eunice thì họ sẽ sống với nhau như vợ chồng”. Họ đã ngủ với nhau một tuần ba đêm và suốt trong những đêm đó, bác tôi đã tin chắc rằng đây ắt hẳn là những gì xảy ra đối với một người đàn ông có vợ, lên giường với khuôn mặt của một người phụ nữ nằm cạnh mình bên gối, hôn cô ấy trong khi cô ấy đang say giấc. Làm sao một người đàn ông mà từ trong máu huyết không có chút khái niệm đầu hàng trước một người khác, không chịu để ai sai khiến làm chủ, thậm chí ngay cả khi Eunice có bộ ngực đẹp và thân thể thơm mùi hương hoa và nước hoa nồng đậm, có thể bị khuất phục như vậy? Bất chấp, cơ thể của người phụ nữ ấy vẫn sưởi ấm ông lúc ông ngủ.

Và tiếp theo là giải quyết chuyện liên quan đến bọn đầu trọc ở khu phố Wood Green, lũ du côn đang khủng bố tất cả mọi người bằng những cuộc diễu hành, bằng những cái đầu cạo trọc xấu xí, bằng đôi ủng kinh khủng buộc dây cao lên trên cùng với cái quần xắn cao tới bắp vế để lộ ra da giày màu nâu và hàng lỗ xỏ dây. Nếu bác tôi cưới Eunice thì bà ấy sẽ bỏ lại tất cả mấy thứ ấy ở đằng sau mãi mãi. Ông sẽ có một vài sắp xếp khác nhau, chẳng hạn như đập tường giáp căn hộ bên cạnh để nới rộng căn hộ của mình. Ông dám chịu mất 6 bảng Anh tiền thuê nhà một tuần.

– Cô ấy nghĩ sao ạ? - tôi hỏi bác mình khi ông nói với tôi lần đầu tiên về kế hoạch tổ chức đám cưới với Eunice.

– À thì, cháu thấy đấy, Eunice không có cái nhìn thiện cảm về chuyện cưới xin. Cô ấy đã từng thử một lần nhưng đó là một thảm họa. Cô ấy là một người phụ nữ độc lập. Vì vậy, nếu ta sắp sửa trói chặt cô ấy thì ta phải có một thứ gì đó dâng tặng cho cô ấy, thứ mà cô ấy chưa có. Tiền không thôi cũng chưa đủ vì cô ấy có thể tự kiếm sống được.

Và cuối cùng thì bác tôi đã bị đánh bại, đã vượt qua được những lo lắng của riêng mình về việc bị mất tự do. Đó là một bước lớn đối với ông; chuyện ông trở thành một người đàn ông có gia đình sẽ là thực tế cho suốt quãng đời còn lại của ông. Bác tôi sắp sửa cưới vợ vì ông không thể để cho người phụ nữ của mình sống trong cảnh không được che chở bảo vệ ở Wood Green. Ông thậm chí còn không dám nghĩ tới chuyện đưa ra ý tưởng họ sẽ sống với nhau như một cặp vợ chồng được công nhận do hôn nhân thực tế dù không làm hôn lễ. Không có lễ cưới, thậm chí chỉ là thủ tục tại một văn phòng đăng ký kết hôn, không có nhẫn đính hôn, áo cưới, bánh cưới và một bài phát biểu trong đám cưới thì Eunice sẽ không nhúc nhích thay đổi. Và chiếc nhẫn là lời tuyên bố rằng ông hoàn toàn nghiêm túc và không hề có ý định lừa Eunice.

“Không phải là em không thấy cái nhẫn,” - Eunice nói khi bác tôi cầu hôn trong một bữa trưa tại một nhà hàng Italy vào cái ngày tổ chức tiệc sinh nhật cho tôi. Một bữa trưa phô trương với những bộ đồ ăn bằng bạc, một xe đẩy phục vụ các món tráng miệng và quyền được có một người phục vụ đứng bên cạnh nướng cho ta một miếng bê thui trên một cái bếp trực tiếp ngay trước mắt ta. Bác tôi biết điều gì gây ấn tượng đối với phụ nữ. Từ trước đến giờ, không có thứ gì ở ông là keo kiệt bủn xỉn cả.

Và để cứu Eunice khỏi bọn đầu trọc ở Wood Green, ông cần phải mua một chiếc nhẫn đính hôn vì kể từ giờ phút này, không còn một cơ hội nào cho việc bố tôi sẽ chế tác cho anh mình một cái nhẫn nữa.

Bác Sándor có con mắt rất tinh tế, sắc sảo về nữ trang nhưng ông vẫn muốn tham khảo ý kiến của phụ nữ. Vì vậy, ông đề nghị tôi đi cùng ông tới cửa hàng Harrods để lựa chọn nhẫn. Thật sự thì việc mua nhẫn không xảy ra ở đó. Bác tôi không còn đủ tiền để mua nổi một cái nhẫn trị giá 10.000 tới 20.000 bảng Anh. Tiền cho thuê hai căn nhà ở Camden có thể cho phép ông thoải mái vung tay nhất định vào một số thứ, chẳng hạn như bữa tiệc sinh nhật của tôi, nhưng dù sao thì tài sản lưu động của ông cũng có một mức giới hạn. Kế hoạch của ông là lựa ra vài cái nhẫn thích hợp rồi sau đó đưa những chi tiết mô tả về chúng cho Mickey. Anh này sẽ ngó nghiêng, lùng sục khoảng một hay hai tuần và xuất hiện với một cái tương tự, thậm chí giống y như chiếc nguyên mẫu được miêu tả, không phải là hàng giả, tuyệt đối không phải như vậy nhưng cũng không nhất định phải là chiếc được bày bán ở Harrods. Vì thành phố London của Mickey, thành phố tỏa ra khắp mọi hướng với bán kính hàng dặm tính từ tâm là cửa hàng nhỏ của anh ta ở chợ trời Dalston, đến những vùng ngoại ô ở phía bắc và phía nam (nhưng không vượt quá những xa lộ chạy dài như quỹ đạo, tới những thứ mà anh ta không hiểu và không muốn hiểu như bò, cừu và chim), có đủ tất cả mọi loại người mà có thể đáp ứng được cho ta gần như là bất cứ thứ gì ta muốn, chẳng hạn như một mẩu đá từ mặt trăng hay gần hơn là những mảnh vỡ của Bức tường Berlin.

Đây là sự thật: bác tôi muốn bố tôi làm cho ông cái nhẫn. Ông tự thấy mình hào phóng trả cho người em trai vì thời gian, công sức đã bỏ ra làm món đồ trang sức; hào phóng khen tặng tay nghề điêu luyện của em mình. Nhưng bố tôi đã làm phá sản kế hoạch đó.

– Bác nói cháu một lần nữa nhé, - bác tôi nói khi chúng tôi đang ở trên xe buýt đến quận Knightsbridge[61] - lần tới bác sẽ gặp bố cháu ở một nơi khác. Khi đó, hai anh em sẽ nói chuyện với nhau.

– Nơi khác là nơi nào? - tôi hỏi ông.

– Đó là nơi người ta làm bảng cân đối kế toán cuối cùng. Bản tổng kết những ngày sống trên cõi đời.

– Sao bác lại nghĩ mình sẽ ra đi? Bác lo sợ sao?

– Không hề. Thượng đế không quan tâm nghĩ ngợi đến những thứ mà người ta lo lắng trong cuộc đời này. Ngài nhìn mọi thứ theo một cách khác hẳn. Bác không lo lắng sợ hãi. Thượng đế không quan tâm đến chuyện con người ta sống như thế nào mà chỉ cần biết anh ta có sống hay không? Con người có bỏ phí món quà mà Ngài đã trao cho hay biết tận dụng món quà đó bằng hết khả năng của mình?

– Vậy là bác tin vào Chúa?

– Bác có nói gì về Chúa đâu?

– Chẳng phải đó là điều mà chúng ta đang nói đến hay sao?

– Không, không phải.

Nhưng điều bí ẩn này trong niềm tin của bác tôi vẫn chưa được giải thích rõ ràng vì chiếc xe buýt đã ngoặt vào đường Sloane và chúng tôi xuống xe, đi bộ tới của hàng Harrods. Bác tôi dừng lại bên cửa sổ của các cửa hàng nằm dọc theo đường Brompton và xuýt xoa trầm trồ trước những món hàng nữ trang xa xỉ.

Những chiếc nhẫn nằm trên giá đỡ bọc vải sa tanh và nhung. Chúng ngẩng cao đầu lên phía ánh sáng và giấu thân bằng vàng và bạch kim sâu xuống lớp đệm sang trọng màu xanh da trời và nắng. Tôi có thể kể ra mọi loại đá đang được bày bán ở đây.

Tôi đã lớn lên trong cái nghề này mà. Kim cương, ngọc bích, ngọc lục bảo, hồng ngọc và tiếp đó là những loại đá quý ít giá trị hơn như ngọc hồng lựu, ngọc mắt mèo, thạch anh tím và ngọc topaz. Bác tôi chỉ thích mỗi ngọc bích. “Màu xanh da trời là màu sang trọng, quý phái, cháu có thấy như vậy không?” - ông hỏi tôi. “Với bác thì nó là loại hảo hạng nhưng biết đâu bác cũng có thể sai. Thế đá mà Nữ hoàng có gắn trên vương miện của mình là đá gì ấy nhỉ?” - ông hỏi người bán hàng. Anh nhân viên này rất vui khi được hỏi như vậy và bắt đầu bài diễn giải uyên thâm của mình về chủ đề này. Bởi vì nó không chỉ dừng ở một cái vương miện. Chúng tôi nhìn ngắm cẩn thận những cái nhẫn và bác tôi hỏi về giá cả, một câu hỏi tượng trưng để vờ chứng tỏ chúng tôi là những khách hàng thật tình muốn mua chứ không phải là những kẻ chỉ đi xem mà không mua, làm mất thời gian của người bán hàng. Chúng tôi trao đổi xem liệu Eunice thích nhẫn chỉ có một hạt đá hay một dãy, mặt đá hình vuông hay hình thoi. Rồi tiếp theo là hoa văn trang trí như thế nào? Chất liệu là gì?

Bác tôi nói to: “Cháu biết lời nguyền và thề thốt của bác rồi phải không? Sẽ phải lòng một người phụ nữ thanh lịch, có phong cách. Mọi thứ phải chuẩn chứ nếu không thì cô ấy sẽ coi thường. Bác muốn cái nhẫn này phải thật hoàn hảo, cháu có hiểu không, Vivien? Bác muốn khi cô ấy mở hộp ra, cô ấy phải há hốc miệng vì đây là thứ mà cô ấy đã chờ đợi suốt cả cuộc đời mình, kể từ khi cô ấy chỉ là một cô bé nữ sinh ở Vịnh Tiger và đọc nhiều câu chuyện về những nàng công chúa.”

– Xem này! - ông thì thầm - cái này này.

Đó là một cái nhẫn mặt đá màu xanh da trời hình vuông chỉ có một hạt đính trên cái vòng tròn bằng bạch kim.

– Cháu thấy sao?

– Hoàn hảo tuyệt vời ạ.

– Tao nhã chứ?

– Vâng ạ.

– Chúng tôi sẽ suy nghĩ về nó, - bác tôi nói với anh chàng bán hàng. - Cảm ơn anh. Anh đã giúp chúng tôi rất nhiều.

– Làm cách nào mà bác sẽ tìm ra một cái giống như vậy? - tôi hỏi ông khi chúng tôi bước dọc theo dãy cửa hàng.

– Chà chà, Mickey sẽ phải làm hết sức mình. Cậu ta sẽ cố tìm được. Cậu ta chưa bao giờ làm bác thất vọng. Cháu có muốn đi uống cà phê không?

– Bác sẽ chụp ảnh cái nhẫn đó hay đại loại là làm điều gì tương tự như vậy phải không?

– Sao phải làm vậy? Không cần thiết. Bác nhớ kỹ lắm. Hình ảnh cái nhẫn đó đã ở trong đầu bác rồi. Bác nhớ được nó rồi mà.

Chúng tôi đi thang máy xuống những phòng trà. Những chiếc bàn nhỏ ở đó đứng như thể những cô gái mới đến sàn nhảy lần đầu, chờ đợi người tới mời khiêu vũ.

– Cái quán này thật dễ thương - bác tôi nhận xét. - Thật là quan trọng khi biết được bàn nào ở trong một quán cà phê sẽ đem lại cho ta dịch vụ tốt nhất. Bác biết điều này vì bác đã từng là một bồi bàn. Cách ta đối xử với bồi bàn như thế nào cũng quan trọng không kém, nếu ta muốn được phục vụ bánh ngọt hảo hạng nhất. - Những cái bánh phủ kem cứng ngắc trông như bạc màu dưới ánh sáng quá chói lọi của những bóng đèn chùm được bưng ra cho chúng tôi trên một cái khay bạc.

– Cô có thứ gì đặc biệt cho hôm nay không? - bác tôi hỏi cô bồi bàn và mỉm cười với cô ta. Cười chủ yếu bằng mắt chứ không phải bằng miệng. Đôi mắt của ông có vẻ như chào cô ta với toàn bộ hàm ý ấm áp, thông cảm và hài hước. Một nụ cười biểu hiện ông hiểu tất cả mọi thứ về đôi bàn chân sưng phồng và thái độ phải nhịn nhục, nuốt vào trong những cay đắng trước những lời xúc xiểm.

– Tôi sẽ đi xem thử quán chúng tôi có không, thưa ngài, - cô bồi bàn nói và nháy mắt. Chỉ một giây sau, cô ta đã quay lại với một cái khay nhỏ hơn đựng một cái bánh ga tô tươi mới hơn: - Tôi nghĩ quý ngài nên chọn bánh bông lan cuộn mâm xôi và chocolate.

– Vậy thì chúng tôi sẽ chọn loại đó, - bác tôi đáp - tôi luôn luôn nghe theo lời khuyên của các nhân viên phục vụ. Bởi vì sao thì cô cũng biết rồi phải không? Các cô đều là những bậc thầy, những bậc thầy đáng yêu, tất cả các cô đều như vậy. Cảm ơn, cô bạn yêu quí! Chúc cô một ngày vui vẻ hạnh phúc. - Bác tôi nói đoạn quay sang tôi - Cháu thấy không? Chẳng đòi hỏi phải mất nhiều lời mới được phục vụ tốt nhất đâu.

– Thế bác đã định ngày cưới chưa? - tôi hỏi ông. Tôi không có ý nói là mình bị ông bác bỏ bùa mê nhưng tôi bị thu hút bởi người tự định ra những luật lệ của riêng mình và chẳng sợ ai. Những người không quan tâm đến những gì xã hội nghĩ gì hay nói gì về họ như vậy luôn tràn đầy sinh lực và khiến cho thế giới xoay tròn. Chồng tôi cũng là tuýp người này.

– Sẽ sớm thôi. Nhưng Eunice muốn có thời gian để chuẩn bị. Phụ nữ là như thế đó. Phải chấp nhận thôi. Ô cái bánh này mới ngon làm sao! Thật là một cái bánh ngon tuyệt. Cháu đã không nhìn thấy cái bánh này nằm ở trên khay phải không? Cái khay lớn đấy. Vivien này, trong cuộc đời bao giờ cũng có một cái khay lớn mà những người bình thường không biết rằng ở trong đó có một thứ gì đó đặc biệt đang chờ đợi họ. Lúc nào cũng có. Bác đã học được điều này cách đây lâu lắm rồi. Chờ đợi chiếc khay đặc biệt.

– Nhưng cuộc đời không phải là những cái bánh.

– Không, dĩ nhiên là không phải rồi nhưng nguyên tắc thì vẫn giống nhau. Cháu phải biết là có một thứ gì đó khác, một thứ gì đó tốt hơn bị che giấu khỏi tầm mắt cháu, thứ mà thiên hạ không muốn cháu phát hiện ra, thứ mà cháu phải đòi hỏi, hay đôi khi cháu chỉ cần đến và lấy đi. Bố cháu chưa bao giờ biết được điều này. Đó là thất bại lớn nhất của bố cháu đấy. Đừng để nó xảy ra với cháu.

– Gần đây mẹ cháu kể với cháu là bà đã gặp bác trước khi gặp bố cháu.

– Đúng là như vậy. Bác vui vì mẹ cháu còn nhớ. Một cô gái tội nghiệp cùng với một chiếc gậy, một cô gái xinh đẹp nhưng chẳng hề nghĩ mình xinh đẹp. Cái gậy đó sẽ đánh bại cô ấy nếu cô ấy từng tự nhủ rằng mình xinh đẹp. Cô ấy không những đẹp mà còn thông minh nữa. Bác biết mẹ cháu đúng là dành cho bố Ervin của cháu.

– Vậy là bác cố tình giới thiệu bố mẹ cháu với nhau à?

– Dĩ nhiên rồi. Tất cả hoàn toàn là sắp xếp. Bố cháu không biết là mình sắp sửa gặp một cô gái. Bác chỉ nói với bố cháu là đến quán uống cà phê với bác bên bờ sông Danube. Nhưng đây là kế hoạch của bác, giới thiệu hai người với nhau. Bố cháu cần một người phụ nữ nhưng bản thân lại quá khó tính, hay gắt gỏng nên không thể tự mình tìm gặp một người nào được.

Tôi cảm thấy tất cả mọi thứ đã xảy ra xong hết cả rồi, rằng chúng ta, những sinh vật sống, chỉ là những cái bóng của các sự kiện có thật, chỉ là những đường viền mờ nhạt phủ bóng xuống thời gian hàng chục năm.

– Nhưng sao bác lại làm vậy? - tôi kêu lên. - Sao mẹ cháu lại là một vật hi sinh? Chẳng lẽ mẹ cháu không đáng được hưởng điều tốt đẹp hơn thế sao?

– Không, không, cháu không hiểu rồi. Mẹ cháu đã nâng bố cháu lên ngang tầm với mình chứ không phải là bố cháu nâng mẹ cháu lên. Mẹ cháu đã biến bố cháu thành một con người.

– Cháu không cho điều bác nói là đúng. Mẹ cháu đã kể với cháu là bố từng hát cho bà nghe nhiều bài hát của Mỹ, những bài hát có trong phim.

– Vậy à? Bác chưa từng biết chuyện này.

– Mẹ cháu nói lúc đó bố cháu khác lắm.

– Ừ, có thể mẹ cháu hiểu bố cháu hơn bác - bác chỉ biết bố cháu là một thằng em trai và là một thằng đàn ông đứng tuổi đi xúc phạm chị dâu tương lai của mình. Xúc phạm một cách có chủ ý, như cháu thấy đấy. Bác chưa bao giờ nghe nó hát một bài hát nào và cũng chưa bao giờ biết nó đi xem một bộ phim nào. Nhưng lúc nào cháu cũng là người thắc mắc đặt câu hỏi chứ không phải bác. Thế còn cháu, cháu làm gì với mình nào? Cháu sử dụng thời gian của mình như thế nào?

– Cháu đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, - tôi đáp với một chút tự hào, hi vọng bác tôi ủng hộ việc mình làm. Tôi hi vọng ông sẽ nghĩ rằng tôi đang làm một việc nhỏ để bù lại những năm tháng ông đã phải lao động khổ sai.

– Cháu làm điều đó như thế nào?

– Thì cháu đã nói với bác rồi đấy thôi. Cháu đi phát tờ rơi tuyên truyền.

– Tờ rơi. Rất tốt. Thế những tờ rơi đó nói gì?

Tôi giải thích thông điệp chính trị quan trọng mà chúng tôi gửi đến mọi người về mối đe dọa Quốc xã ẩn đằng sau khuôn mặt dối trá của chủ nghĩa yêu nước Anh.

– Chà chà, bác chắc là người ta sẽ lắng nghe. Ai có thể bất đồng ý kiến với một tờ rơi được nào? Thế còn cái thằng Claude thì sao, nó có đi với cháu không?

Tôi cố che giấu mối quan hệ của mình với anh ta. Tôi cảm thấy bác tôi sẽ không hiểu được những gì tôi đang làm với một thằng con trai tầm thường, dung tục, một tên thô lỗ cục cằn như ông đã gọi Claude, một gã suốt ngày chỉ mặc áo khoác da và có một công việc thấp kém hạ đẳng. Nhưng chắc hẳn là bác tôi đã bắt gặp hình ảnh tôi và Claude đi cùng với nhau, từ quán rượu trở về nhà, hoặc là cảnh tôi lẻn ra khỏi phòng của anh ta vào buổi sáng sớm trước khi tôi cũng có một căn hộ trong ngôi nhà đó. Và cả những mẫu phác họa hình xăm chữ thập ngoặc nữa. Tôi thấy hết sức xấu hổ.

– Bác có lo lắng cho cô Eunice không? - tôi hỏi, đánh trống lảng sang chủ đề khác.

– Dĩ nhiên là có rồi. Đó là lý do vì sao bác vội vàng cưới cô ấy để cô ấy rời bỏ căn hộ đó và dọn đến đây ở cho an toàn hơn. Chỗ đó không phải là nơi có hàng xóm láng giềng tốt lành tử tế.

– Bác Sándor, nói cho cháu biết vì sao bác luôn đi ra ngoài cùng với các cô da đen đi?

– Vì sao à? - ông nhìn tôi và mỉm cười giống như cách đã cười với cô bồi bàn, một nụ cười đầy ấm áp và không hiểu sao cái môi dưới trề ra giống như môi của Hitchcock mềm ra thành một hình ảnh đầy cảm xúc mà trước đây tôi chỉ tình cờ trông thấy ở ông có duy nhất một lần. Vì ông có thể là một người kinh doanh lạnh lùng, một con thú gầm rống đòi hỏi lợi nhuận, người vung tay mua nợ bạt mạng, không suy tính những món hàng phô trương hào nhoáng mà ông khao khát muốn có vì ông đã từng là một nô lệ bị đánh dập nát cả hai tinh hoàn. Nhưng rồi, những hình ảnh xấu xa đó cũng đã có một hai lần tan biến, sửa đổi lại và khoác lên một hình dáng khác.

– Trước chiến tranh, bác chưa bao giờ trông thấy một cô gái da màu nào. Bác gần như không biết có một người như vậy tồn tại trên thế giới này, có lẽ ngoại trừ những cô xuất hiện trong mấy bộ phim của Mỹ mà bố cháu kể là đã từng đi xem và bác ngờ là bố cháu nói dối. Nhưng khi bác ra đi, đã quá trễ để rời khỏi Hungary, khi chủ nghĩa cộng sản nhẹ nhàng len vào đời sống chúng ta trong lúc chúng ta không để ý, chúng ta bị cắt đứt khỏi các nước còn lại của châu Âu. Những ban nhạc nhảy như của Tommy Dorsey, những ca sĩ như Frank Sinaua, những nhân vật mà người ta yêu thích, không bao giờ đặt chân đến Đông Âu. Chúng ta có tình anh em, chúng ta có bạn bè đồng chí và trong số các bạn bè đồng chí đó có người Mỹ. Những người Mỹ theo chủ nghĩa cộng sản. Chỉ có một lần duy nhất một nữ ca sĩ đến từ Mỹ chuyên hát về tình yêu tan vỡ, ca sĩ theo chủ nghĩa cộng sản, đến quán cà phê mà bác đang làm bồi bàn.

Bác tôi ngả đầu ra sau và cười. “Một hình ảnh mới lạ lẫm, hấp dẫn làm sao! Nhưng cháu biết không, cô ca sĩ đúng là như thế đó. Tên cô ấy là Elvira. Cô ấy mặc một cái váy được trang trí bằng những miếng bản tròn như đồng xu và đi đôi giày cao gót trong khi phụ nữ ở Budapest mặc áo khoác của đàn ông và đi giày ống da để chống chọi với cái lạnh giá của mùa đông cắt da cắt thịt. Elvira đến từ thành phố Kansas. Đó là người phụ nữ đẹp nhất mà bác từng thấy trong đời, kể cả trước đây và đến tận bây giờ. Bác không biết chuyện gì đã xảy ra với cô ấy. Bác cố tìm những đĩa thu âm của cô ấy nhưng bác nghĩ cô ca sĩ này chẳng ra một đĩa nào. Cô ấy là một người theo chủ nghĩa cộng sản thực sự, một thành viên của Đảng Cộng sản. Bác đảm bảo chắc chắn là cô ấy được phục vụ những cái bánh ngọt hảo hạng nhất, những cái mà chúng ta bày trên khay đặc biệt dành cho các quan chức của Đảng Cộng sản Hungary và quan khách đến từ thủ đô Moscow của Nga.

“Kể từ lúc đó, bác mất hẳn sự thích thú đối với phụ nữ da trắng. Bà của Elvira là một nô lệ và bác nói với cô ấy rằng mới trước đó 4 năm thôi, bác cũng là một nô lệ. Bác uống rượu Tokaj đựng trong đôi giày của cô ấy. Bác sẽ không bao giờ quên được điều đó. Trong căn hộ bé tí của mình, với một chai rượu xuất xứ từ những cánh đồng nho của Zémplen, bác uống rượu đựng trong gót giày vương mùi mồ hôi của cô ấy, vương tất cả mùi thơm của cô ấy. Cho đến giờ, bác vẫn thấy đó là thứ nước uống ngọt ngào nhất trên thế giới.”

Khi chuyến tàu cuối cùng rời khỏi sân ga để đến đích, khi hành khách đã bước xuống trạm cuối cùng và ánh sáng của con tàu lóe lên rồi vụt tắt tối om, những con tàu lắc lư đến chỗ nghỉ ngơi ban đêm của chúng.

Chúng làm điều gì sai trái hay nghịch ngợm quậy phá ở dưới kia trong bóng tối?

Chú thích:

[58] Francisco de Goya y Lucientes là danh họa người Tây Ban Nha nổi tiếng thế giới.

[59] Năm 1966, thành phố London xảy ra một vụ hỏa hoạn thảm khốc. Nhiều khu vực trung tâm London đã chìm trong biển lửa suốt 3 ngày, từ ngày 2-5.9.1966, 13.200 căn nhà, 87 nhà thờ và hầu hết trụ sở của chính quyền thành phố bị thiêu rụi.

[60] Trong Thế chiến II, vào các ngày 13-15.2.1945, lực lượng Không quân Hoàng gia Anh và Không quân Mỹ đã 4 lần oanh kích thành phố cổ Dresden của Đức, dội hơn 3.900 tấn bom cháy và bom có sức công phá lớn xuống thành phố, tàn phá 39km² trung tâm Dresden.

[61] Knightbridge là một quận ở phía Tây trung tâm thủ dô London, nơi giới thượng lưu Anh thường lui tới để mua những món hàng xa xỉ.