Chương 17
Anh muốn làm chuyện đó trên tàu với cô bé của anh, - Claude nói.
– Cái gì? Giữa thanh thiên bạch nhật ư?
– Sau khi chúng ta dừng máy. Anh sẽ đưa em tới chỗ nhà ga.
– Anh được phép làm vậy sao?
– Không. Nhưng điều đó không có nghĩa là không thể.
Chúng tôi chẳng có một mối quan tâm nào chung, một đời sống xã hội nào cùng với nhau. Phần lớn chuyện chúng tôi làm cùng nhau chỉ là nằm dài trên giường ngắm nhìn lũ cá bé tí của Claude có những con mắt như cái chấm. Thỉnh thoảng, một con cá bị bệnh nấm trắng và chết từ từ. Đôi khi chúng nhảy ra ngoài, phơi mình trên cái bếp hâm, với một ý định rõ ràng là tự tử: Thế giới ở đó thật là chật hẹp, ngột ngạt.
Cái chết của mấy con cá làm Claude buồn mất nhiều ngày. Những cái xác nhỏ xíu được gói trong một tờ giấy lụa và được chôn trong một hõm nông ở trong vườn được khoét bằng muỗng cà phê. Nhưng chỉ khoảng một tuần sau đó, anh ta sẽ đào chúng lên và xem xét những bộ xương trước khi chúng quá rã. Anh ta cảm thấy buồn vì chúng phải chết trên mặt đất lạnh lẽo của nước Anh trong khi chúng đến từ những vùng biển xa tít và những vùng khí hậu ấm áp. Cái đêm sau khi tôi đi cùng bác mình rảo xem mẫu nhẫn đính hôn ở cửa hàng Harrods, nơi tôi đã nhìn thấy thứ được đặt trên cái khay đặc biệt, tôi mặc quần jeans và áo khoác da và đứng đợi gần tới nửa đêm trên sân ga của trạm tàu điện ngầm Camden, ngóng nhìn về hướng bắc.
Những hành khách cuối cùng đang trên đường trở về nhà. Những tay ăn chơi người ngợm tái nhợt và những công nhân làm đêm bộ dạng mệt mỏi rã rời ngồi sụp xuống dựa vào thành tàu. Chuyến tàu cuối cùng là một hành trình hiu quạnh, đơn độc và ngày đang tàn khép lại sau lưng ta. Một cơn gió mạnh thổi dọc theo đường hầm, báo hiệu tàu đang đến. Bảng báo sáng lên rồi mờ dần. Những con tàu đến rồi đi cho đến lượt chuyến tàu cuối cùng. Những cánh cửa mở ra và Claude nhún nhảy bước ra, tìm kiếm giữa các khuôn mặt trong đám đông và nhận ra tôi đang đứng trên sân ga. Tôi bước nhẹ đôi giày ống cổ ngắn của mình lên tàu. Những cánh cửa đóng lại sau lưng chúng tôi và chúng tôi lên đường.
– Lại đây, - Claude nói. - Để anh âu yếm vuốt ve cho em. Em trông có vẻ bị lạnh đó. Em đã đợi lâu lắm rồi hả?
– Em không sao, - tôi đáp. Chúng tôi đứng ở khoảng trống chật hẹp nối giữa hai toa tàu đang kêu ầm ầm, trên sàn tàu có khe hở nơi hai toa được ghép lại với nhau. Đứng ở một nơi như vậy, ta cảm giác mình có thể sẽ bị xé toạc thành hai mảnh, nửa cơ thể này sẽ tách rời khỏi nửa cơ thể kia.
– Em thổi cái còi của anh được không? - tôi hỏi Claude.
– Được. Này, thổi đi. Thổi thử xem nào.
Tôi đặt cái còi lên miệng. Nó vẫn còn hơi ấm từ đôi môi của Claude. Rồi tôi thổi một hơi thật dài, đanh và chói sắc.
Chúng tôi đang lao sầm sập về hướng Bắc. Claude chạy dọc khắp các toa; chiếc mũ lưỡi trai của anh ta phủ bóng xuống đôi mắt; cái áo khoác da lùng thùng quanh hai vai và bám muội than tàu xám xịt. Claude không đẹp trai: mũi quá sắc, tóc quá mảnh, tất cả mọi đặc điểm của anh ta đều quy về hình mũi nhọn, ngoại trừ cái miệng. Đôi môi đó trông như thể được ghép lên khuôn mặt anh ta không phải để nói mà để bú, để hôn. Dù Claude chẳng đẹp trai nhưng những cô ả trẻ đang trên đường trở về nhà sau một đêm chơi bời ở bên ngoài cứ nhìn chằm chằm vào anh ta bằng những đôi mắt cười trơ trẽn.
Claude nói với các cô ả rằng tôi là “đào” của anh ta. Tôi cười bảo chúng tôi chỉ là bạn tình với nhau mà thôi.
– Quả đúng là như thế, anh quá tầm thường đối với em, - Claude xác nhận một cách chế nhạo.
– Em đang ở đây, phải vậy không? Nhìn em này, anh đã đặt đôi bàn tay tầm thường của anh lên ngực em, - tôi nói.
– Đơn giản là em muốn có một chút gì thô ráp, táo bạo, - Claude đáp.
– Thế còn anh thì muốn gì? - tôi hỏi - Kế hoạch của anh là gì?
– Anh chỉ đi theo tiền của em thôi, cô nàng ạ. Em nghĩ sao?
– Cứ việc lấy đi - tôi nói - 8 bảng một ngày là cả gia tài của em đấy. Em sẽ cho anh tất.
– Anh đang tưởng tượng mình là một tên trai bao, một thứ đồ chơi của một bà già giàu có. Một bà già giống như em. - Một tiếng cười cộc lốc, ngắn ngủn đột ngột vang lên - Chuyện này thú vị thật, phải không?
Claude không thể cất đôi tay mình khỏi mái tóc tôi. “Để anh vuốt ve em, quý bà già nua. Em giống như Nữ hoàng xứ Sheba. Vị nữ hoàng trong Kinh thánh ấy. Đức vua đã tặng cho nữ hoàng vàng và tặng vật. Anh cũng sẽ tặng vàng cho em nếu như anh có tiền.”
Tôi ước mình có thể dẫn Claude tới xem phòng ngủ của mình ở Benson Court, bức tranh vẽ một cảnh trong vở múa ballet Hồ Thiên Nga, con chó bằng sứ, bộ chặn sách hình con ngựa, những bộ đồ cũ kinh khủng treo trong tủ quần áo. Nhưng, Claude sẽ không bao giờ để mắt xem xét bên trong Benson Court. Đó là điểm lôi cuốn thu hút của anh ta. Chúng tôi chỉ là những cơ thể đang rơi tự do.
Tới trạm Golders Green, chúng tôi ra khỏi những đường hầm sâu hun hút lên những đường ray trên mặt đất. Ở trên này, con tàu dường như yếu ớt, dễ bị tổn thương hơn, giống như một sinh vật sống dưới lòng đất bị đào lên trên và nằm phơi ra trước những kẻ thù ăn thịt tự nhiên của nó. Tàu dừng lại ở Hendon, Colindale, Burnt Oak rồi đến trạm cuối ở Edgware. Những hành khách đi tàu đang ngủ bỗng bừng tỉnh, chen nhau tìm cách đi qua những cái cửa quay soát vé rồi về nhà.
– Em đừng xuống vội, - Claude nói với tôi - chúng mình vẫn chưa đến đó đâu.
Chúng tôi đứng đợi một lúc lâu. Những toa tàu đứng im lìm và trống trơn trong sân ga tối tăm trước khi chúng tôi lại di chuyển, chậm chạp quay ngược về hướng nam rồi tăng tốc. Lướt qua bên trên chúng tôi là bóng đen của cây cối, của nhà cửa mọc trên những đường đắp cao của tàu điện ngầm và bên trên nữa là vầng trăng mùa hè đẹp một cách đầy nhục cảm.
– Người ta nói nhiều con tàu có ma, em biết không? - Claude nói với tôi - Lúc nào cũng có hành khách chết trên tàu. Một số tàu cán chết người. Chúng là những con tàu sát nhân. Nhưng mình không thể biết đó là những con tàu nào vì người ta đã đổi số hiệu của chúng.
– Chúng giết người ta như thế nào?
– Những người tự tử nhảy vào đường ray ngay trước mũi tàu và máu chảy dọc theo đường ray.
Chúng tôi vào nhà ga Golders Green. Tôi nghe thấy tiếng bước chân của người lái tàu vọng theo dọc lối đi khi ông rời tàu về nhà nghỉ ngơi buổi tối. Chỉ còn trơ trọi hai chúng tôi trong im vắng. Claude nói ở ngoài kia có những con cáo đang rón rén di chuyển qua các bụi cây. Thỉnh thoảng anh ta nhìn thấy chúng. “Cô gái của anh! Giờ thì chỉ còn anh và em mà thôi.” - Claude vừa nói vừa cởi chiếc mũ và cái áo khoác. “Anh ước gì lúc này chúng mình đang di chuyển nhưng anh không thể liều lĩnh như thế được.”
Chẳng có nơi nào để nằm xuống ngoài sàn tàu vứt đầy bịch khoai tây chiên rỗng, những tờ giấy báo rách tả tơi, nhàu nát, bao ni lông, đầu mẩu thuốc lá, giấy bọc chocolate, một núm vú cao su của em bé, một chiếc ví đã bị móc hết ruột, một cái mũ, một đôi giày, một cái áo sơ mi và những chiếc vé đã bị xé. Claude mở cửa sổ cho không khí ban đêm tràn vào.
– Kéo khóa quần jeans của em xuống đi! - anh ta bảo. Claude cũng mở khóa quần của mình xuống rồi ngả người về phía trước, tuột chiếc quần lót của tôi xuống hông rồi đặt hai tay của anh lên hai quai móc tay thòng từ trên nóc của toa xe xuống. Chỗ đó quá tối, tôi gần như không trông thấy Claude. Anh ta chỉ là một cái bóng và một giọng nói vọng ra. “Hôn anh chút xíu đi rồi cho nó vào bên trong em.” Tôi nâng thân mình lên cho đến khi đầu gối của tôi kẹp chặt vào hai bên hông hẹp của Claude. Chúng tôi treo lơ lửng ở đó. Claude thì treo từ trần tàu còn tôi thì treo vào anh ta. Khi xong, anh ta lấy áo khoác của mình lau hai bắp đùi tôi. Tôi chẳng nói gì. Đó là sự tưởng tượng của Claude chứ không phải của tôi. Tôi cảm thấy chúng tôi đã đi quá xa: giống như tàu điện ngầm rời khỏi tuyến hành trình được thiết lập sẵn cho nó trên bản đồ, chúng tôi đã khởi hành tới những miền đất xa lạ. Claude cuốn một điếu thuốc lá trong bóng tối. Tôi ngồi xuống.
– Em có ngại không nếu anh ngồi vào lòng em một phút? - Anh ta hỏi.
– Được, không sao.
Cơ thể Claude nhẹ giống như một con chim hay một bóng ma.
– Anh gầy quá, - tôi nói, ôm Claude cẩn thận để anh ta không rạn vỡ ra. - Anh không ăn đủ để mà sống, - tôi vừa nói vừa vuốt khuôn mặt anh.
– Anh đang sống ư? - Claude hỏi, quay đầu đi.
– Anh đang phí hoài sức lực của mình. Hồi mùa xuân anh khỏe hơn nhiều. Mấy viên thuốc mà anh đang uống là thuốc làm gầy đó, anh có biết không? Đó là lý do tại sao cần phải có bác sĩ kê đơn. Đó là lý do tại sao anh chẳng thèm ăn.
– Anh sống bằng không khí - Claude đáp. Tiếng nói vọng ra từ đốm cháy nhỏ đang lập lòe trong bóng tối. - Đó là điều mà bà anh đã từng có lần nói với anh. Bà là một trong số những người Di gan lang thang và họ đều có dây mơ rễ má với lũ yêu tinh, - Claude bật cười. - Anh như thể đến từ một thế giới khác vậy. Đôi khi, anh nghĩ anh không thuộc về thế giới này.
Tôi biết mọi chuyện gần như đã kết thúc nhưng điều đó không có nghĩa là tôi sẽ ngưng thèm khát anh ta, hay những lời nói, cử chỉ dịu dàng, nhạy cảm mà thỉnh thoảng Claude phô bày ra sẽ không còn tiếp tục làm cho tôi xúc động hay sẽ thôi làm rung động một trái tim mà bản thân nó đã tự chữa lành những vết thương qua cảm giác bình yên thanh thản vô hình.
– Hai chúng mình, người này sẽ kể cho người kia một bí mật của mình chứ nhỉ? - Claude đề nghị - Chẳng phải đêm tối là để sẻ chia cho nhau những câu chuyện như vậy sao, phải không nào?
– Em không ngại chia sẻ đâu.
– Thế ai kể trước nào?
– Là ý tưởng của anh mà.
– Thôi được. Anh kể một câu chuyện trước vậy. - Claude bắt đầu nói bằng một giọng nhanh và trầm, như thể anh ta đang săn đuổi những ý nghĩ của mình để tiêu diệt chúng. - Chuyện xảy ra khi anh còn là một thằng bé con bắt đầu đi học chính thức, gọi là đi học chính thức có đúng không? Bọn anh phải mang một đôi tất màu xám dài tới đầu gối. Đó là cách người ta biết mình đang học ở một trường lớn. Phải, chỉ cần nhìn qua những đôi tất. Ngày đầu tiên từ trường về nhà, bố anh bắt anh ra ngoài sân rửa sạch mấy cái đĩa đựng thức ăn cho chó.
– Chó gì vậy? - tôi hỏi Claude. Tôi biết anh ta sợ chó. Trước đây, Claude đã nói với tôi là cái mùi của chúng làm cho anh ta cảm thấy buồn nôn đến thế nào.
– Hai con chó lai có hàm răng nhọn hoắt, bộ lông thô xù và cái mõm đen. Đôi mắt thì lúc nào cũng chảy nước. Anh không biết bố anh muốn nuôi chúng để làm gì vì ông ấy chả bao giờ dẫn chúng đi dạo hay làm cái gì cả. Ông ấy chỉ xích chúng lại. Nhưng bố anh đến từ Ireland, một nơi nào đó trong đất nước này. Ông nói đàn ông mà không có một con chó thì không gọi là đàn ông.
“Thế là lúc anh đang khom lưng nhặt mấy cái đĩa thì cái con chó mà bố anh gọi là Alf, sau khi lùng sục ở ngoài đường về, đã nghếch một chân lên rồi tè vào anh. Anh có thể cảm thấy nước đái của nó chảy ri rỉ ở tất của mình, nóng, ướt, khai khắm và toàn một màu vàng khè. Anh chạy vào trong nhà, la toáng lên, phun ra hết mọi thứ chứa trong đầu còn mẹ anh thì chỉ đứng đó cười. Bà ấy hôn anh một cái và cởi đôi tất ra, giặt rồi phơi chúng suốt đêm trước lò sưởi. Hôm sau, anh đến trường, cái mùi khai khăm khẳm vẫn còn tỏa ra từ người anh. Tất cả bọn con nít gọi anh bằng đủ cái tên xuất hiện trong giờ nghỉ giải lao. Còn anh thì bỏ chạy.”
– Anh bỏ chạy đi đâu?
Claude tựa mặt mình vào má tôi và tôi hôn lên đó, giống như hôn một đứa trẻ.
– Chạy xuống tới chỗ mấy con tàu cập bến, tới vài cái xưởng mà anh biết. Anh sống với mấy người lang thang và họ cho anh uống rượu táo. Lúc đó anh mới chỉ 11 tuổi nhưng anh đã thích cái mùi vị của nó và cái cách cảm nhận nó như thế nào khi nó đi vào trong huyết quản của mình. Bọn họ cũng tốt thôi. Anh không ngại gì mấy người đó cả dù dĩ nhiên là họ bốc mùi hôi hám và rồi thì anh cũng bốc mùi y như vậy. Anh giống như một con mèo đi hoang, em có hiểu ý anh nói không? Có bao giờ em từng cảm thấy như thế chưa? Giống như em chẳng thuộc về một cái gì hay một ai cả đấy? Anh nghĩ anh có thể ở đó suốt đời và không bao giờ quay trở lại trường nhưng cuối cùng người ta cũng tìm đến bắt anh về. Đi cùng còn có một cảnh sát và một bà của tổ chức xã hội. Anh phải về nhà. Mẹ anh đã vứt đôi tất kia đi và mua cho anh một đôi mới nhưng anh luôn luôn nghĩ rằng người ta vẫn có thể ngửi thấy mùi nước đái của con chó, rằng nó sẽ theo anh khắp nơi chừng nào anh còn sống.
– Anh có mùi thơm thật tuyệt, - tôi nói. - Anh không biết điều đó ư?
– Ừ, nhiều cô trước đây cũng nói với anh như vậy nhưng ta không bao giờ tin được họ, phải không nào? Anh đã tắm rất nhiều, để chắc chắn là cái mùi kia không ám theo anh.
Những cánh cửa mở ra và xa hơn phía dưới con tàu, những công nhân vệ sinh đã bắt đầu công việc của họ, với túi đựng rác, giẻ lau sàn và vải lau chùi. Claude đứng dậy. “Bây giờ mình phải đi thôi,” - anh ta nói. “Bọn họ có thể báo cáo về anh. Anh thích ngồi lên lòng em. Lúc nào đó chúng mình sẽ làm lại.”
Mới chỉ 1 giờ 30. Cả một đêm dài vẫn còn ở phía trước chúng tôi.
– Chúng mình đi đâu bây giờ?
Claude nói chúng tôi có thể bắt đầu đi bộ về nhà khi trời hửng sáng nhưng trước hết chúng tôi sẽ uống chút trà trong phòng ăn tập thể. “Giờ thì em có thể kể cho anh nghe câu chuyện của em được rồi. Mà này, phải kể một câu chuyện thật hay đấy, người tình của anh?”
Tôi nhớ đến cái phòng khám lợp ngói, cái phòng chờ màu xanh lá cây, những cô nàng đang trong tâm trạng hoảng sợ, bàn tay của mẹ tôi lau mồ hôi trên cổ tôi, chiếc xe buýt, mùi của những chiếc ghế nhựa và cơn đau kinh khủng. Nhưng ai có thể thật sự nhớ được nỗi đau? Không, không thể. Ta không thể nhớ được nó. Ta chỉ sợ nó quay lại. Những ý nghĩ này giống như những đường may - ta khâu một ký ức dính vào với chúng và da thịt lành thành một vết sẹo. Vết sẹo là ký ức.
Mẹ tôi đem trà đến cho tôi.
– Con phải tắm rửa sao cho cẩn thận, - bà nói - con không được để viêm nhiễm. Cái chỗ dưới đó đang bị hở ra ngoài không khí đấy.
Trà có vị giống như mạt sắt.
– Con không uống nổi thứ này đâu.
– Thế uống một cốc nước nhé?
– Vâng, nước tốt hơn mẹ ạ.
Nhưng khi nước đến thì nó lại nhờn như dầu và có mùi tanh khó chịu. Cơ thể ta biết được điều gì? Nó biết rất rõ là nó đã bị xâm lấn bằng một cái ống fuse hay ống tuýp thổi bay đi một khối sinh linh sống. Nó sẽ không bao giờ để cho ta quên đi. Trong cơ thể tôi có nhiều lỗ thủng. Những khoảng trống. Những chỗ thiếu hụt. Tôi cố không để ý đến chúng.
* * *
– Ôi không, ngậm những lời chết tiệt ấy lại, được không? Cô không thể giết một đứa bé được.
– Em không giết một đứa bé.
– Có đấy, cô đã làm. Nó đã chết, phải không? Nếu nó không chết thì bây giờ nó đang ở đâu? Đứa bé đó đâu, Viv, cho chúng ta thấy nó đi nào.
– Thôi đi, dừng lại được rồi đấy.
– Dừng cái gì? Cô đã giết một đứa bé và cô muốn tôi phải thấy cảm thông, thương hại cho cô à, có phải như vậy không?
– Nhưng em đã kể với anh câu chuyện của em rồi. Anh không hiểu là em buộc phải làm như vậy à? Còn có sự chọn lựa nào khác ở đây được chứ?
– Lúc nào cũng có một câu chuyện để bào chữa. Con người ta luôn có đầy mọi lý do. Lúc nào ta cũng nghe thấy những lời biện minh xin lỗi xin phải, ồ mà này, anh ta nói anh ta sẽ cưới cô. Tôi không nghĩ cô có thể gục ngã ngay lần đầu tiên gặp khó khăn như vậy, đồ đĩ thỏa ngu ngốc!
Claude ném một cái túi đựng đường sang bên kia phòng ăn tập thể. Đường rắc như mưa từ trên cao xuống những cái ghế nhựa, xuống sàn nhà trải nhựa vinyl màu nâu sẫm và chiếc bàn nhựa formica. “Xem cô đã khiến tôi làm gì này?”. Khuôn mặt Claude trông xanh xao bệnh hoạn dưới ánh đèn huỳnh quang, nửa như bị chết đói, nửa như phát điên.
Tôi nhớ đến hình ảnh bàn tay đặt lên lưng Claude khi bố anh ta đẩy anh ta lên đồi tới nhà thờ.
– Hẳn là một vị linh mục nào đó đã nhồi vào đầu óc anh đầy những thứ rác rưởi - tôi nói.
– Địa ngục chính là cái thế giới thực tế này. Đừng có nói với tôi rằng điều đó không đúng chỉ vì đức cha giảng về điều đó.
Tôi chẳng biết tí gì về Claude. Tôi không hiểu điều đầu tiên về anh ta. Anh ta là một khối vật chất mờ đục trong một cái áo khoác da và một cái áo phông. Đằng sau đôi mắt của anh ta là một con người phức tạp nào đó đang ẩn nấp. Tôi đã hoàn toàn không chạm tới được anh ta.
– Tôi đi đây, - tôi nói - tôi đi về nhà đây. Anh đúng là đồ điên khùng.
– Tốt thôi. Gặp lại đâu đó nhé! - Claude bắt đầu cuốn một điếu thuốc lá nhưng những ngón tay của anh ta cứ run run. Khi tôi quay người lại ở cửa, anh ta đang đứng ở cửa sổ nhìn theo tôi, như thể đột nhiên anh ta thuộc về một thời gian khác, một chiều khác; đóng khung trong cái khung hình vuông với ánh sáng ở đằng sau, một khoảnh vuông ánh sáng nổi lên giữa khung cảnh tối đen như mực của nhà ga điện ngầm, giống như một trong số những bóng ma mà anh ta tin rằng đang vất vưởng lang thang trên những con tàu trống vào ban đêm, bóng ma của những người nhảy tàu tự tử.
Bầu trời sáng dần khi bóng đêm vỡ tan khắp thành phố London, thành phố của những tháp và gác chuông, của những đường tàu chui qua những đường hầm. Càng về gần đến nhà, tôi càng bước nhanh hơn cho đến khi vùng lên chạy, chạy xuyên dọc phố Chalk Farm, chạy mãi cho đến lúc ánh sáng ban ngày rực rỡ bừng chiếu, mặt trời đang mọc dọc theo cửa sông.
Tôi cứ chạy, chạy qua các nhà máy, các xưởng sản xuất và các cửa hàng nhỏ. Sinh lực của thành phố London đã truyền sang tôi, tất cả sinh lực và sức sống của một thành phố đang thức giấc đã dâng lên trong tôi nhưng những ý nghĩ của tôi còn chạy nhanh hơn cả đôi chân.
Nếu tôi giữ đứa bé đó lại thì chắc hẳn là bây giờ nó đã có gần như đầy đủ mọi thứ mà nó cần để trở thành một con người thật sự rồi. Cái đầu, đôi chân, đôi tay, hai bàn tay, tóc và bây giờ đang phát triển đôi bàn chân và những ngón tay. Bộ óc của nó sẽ bắt đầu nhận được những thông điệp và hình thành ký ức về thời sống trong bụng mẹ, điều mà sau đó nó sẽ quên đi vì tất cả mọi người đều quên như vậy. Xoay xở một cách tài tình, nó sẽ lớn lên, mải mê dốc sức tới mục đích trở thành người mà nó muốn. ADN của nó sẽ quyết định chọn những cái xương dài và mái tóc vàng của Alexander hay tay chân ngắn ngủn cùng ria mép đen của tôi. ADN sẽ làm việc để quyết định cái gì cần gửi lại cho tương lai - cái chuỗi mã hóa đó có thể quay trở về Đông Âu, tới tận ngôi làng ở Zémplen với những giáo sĩ Do Thái và những quả nho khô; hoặc là nó tới những thị tứ ở miền Tây nước Anh với những nhà thờ và những cây sồi. Cơ thể tôi sẽ là một cỗ máy bận rộn để cho ra con người mới toanh này.
Bằng giờ này năm sau, có thể tôi đã để con bé trong xe nôi mà đẩy xuyên qua công viên Regent’s, ngang qua vườn hồng. Có thể tôi đã chỉ cho con bé thấy cái hồ có những con chim nước và giải thích với nó về đời sống nội tâm của một con ngỗng, giống như bố nó đã hiểu như vậy. Một làn sóng hối hận cực độ dâng lên khắp người tôi, một cảm giác đau đớn đến khô héo vì ngộ ra rằng tôi đã làm một điều sai trái và rằng Claude, theo cái cách thô thiển, giản đơn của anh ta, đã đúng. Tôi đã bị những lời lỗ mãng khó nghe của Claude đâm thấu tận nỗi đau thầm kín nhất.
Cuối cùng thì tôi cũng về tới nhà, bước vào căn phòng nhỏ của mình, nằm rũ xuống giường, không tắm rửa, để nguyên bộ đồ đó và chìm vào giấc ngủ. Tôi mơ tới đứa trẻ của tôi. Tên nó là Gertrude. Cái tên mới ngốc nghếch, buồn chán làm sao! Con bé có đôi mắt màu xanh lơ và mặc một cái váy nhung. Nó nắm lấy tay tôi. “Mẹ ơi”- nó gọi. “Gì thế con yêu?”. “Tên mẹ là gì?”. Tôi cố gắng nói với nó nhưng lưỡi tôi đã cứng như gỗ. Tôi cố gắng chúm đôi môi để nói thành tiếng cái tên của mình và càng cố gắng, tôi càng thành công. Phải, rõ ràng tôi có thể nghe thấy tiếng của chính mình.
– Vivien! - bác tôi gọi - Vivien! Mười giờ rồi. Cháu vẫn còn đang ngủ à?
– Cháu với cái thằng đó đã cãi nhau, - bác tôi nói. - Bác có thể thấy điều đó hiện rõ rành rành trên mặt cháu.
– Vâng, đúng thế ạ - tôi thừa nhận. Khuôn mặt bác tôi sáng lên. Ông nói ông sẽ tống khứ anh ta đi. Chỉ mất vài bảng thôi và ngày mai, anh ta có thể rời khỏi đây. Nhưng tôi nói Claude có quyền được sống ở đây và dĩ nhiên bác tôi đảo tròn đôi mắt mình: - Cháu và những cái quyền của cháu thật là…
– Nói cho bác nghe nào, - ông bảo tôi. - Cháu thấy gì ở cái hạng người đó? Nó là thằng thấp kém, không xứng với cháu, với một cô gái có bằng cấp như cháu.
Làm sao tôi giải thích với ông bác mình về sức hút nhục dục đã kéo tôi về phía anh ta?
– Ồ, bây giờ thì bác hiểu mọi chuyện đã qua như thế nào. Đừng xấu hổ ngượng ngùng. Đừng biến cái phần đời đó của cháu thành phần đời của một tên tù nhân, một kẻ phải sống tha hương giống như bố cháu đã làm. Được rồi, cháu xứng đáng được có một món đồ chơi nhỏ sau tất cả những gì mà cháu đã trải qua. Nhưng món đồ chơi đó bây giờ đã bị vỡ rồi. Cháu phải vứt nó đi và tiếp tục đi tìm một thứ khác.
– Có phải tất cả những người phụ nữ đó đối với bác là như vậy phải không?
– Thời trước thì đúng là như vậy. Nhưng bây giờ bác đã thay đổi rồi. Đó là sự thật. Một người thậm chí là tội phạm như bác cũng có thể thay đổi, giống như báo có thể thay đổi sọc lông của mình.
– Đốm chứ.
– Đốm gì cơ?
– Một con báo không thể thay đổi những đốm đen trên bộ lông của mình. Thành ngữ nói như vậy.
– Bác không biết. Bác chưa bao giờ trông thấy một con báo. Vì vậy, nó có thay những cái đốm đen trên người nó hay không thì bác không biết. Nhưng còn bác thì bác đã thay đổi. Bác sắp sửa trở thành một con người khác, rất khác. Rồi cháu sẽ thấy.
Tôi và bác Sándor ngồi trong căn hộ của ông, phía dưới bức tranh tường, cùng uống cà phê. Ông ngồi trong chiếc ngai mây hình đuôi công xòe ra còn tôi thì ngồi đối diện ông, trong chiếc áo phông và quần jeans, hai chân thu lên, hai tay ôm quanh đầu gối như thể đang bảo vệ cái bụng của mình khỏi sự tấn công từ bên ngoài.
Hôm nay chúng tôi không thu âm câu chuyện cuộc đời ông. Ông trông thấy tôi kiệt sức mệt mỏi và ông muốn tôi giữ gìn sức lực để dành làm một việc mà ông nhờ đến tôi - đi cùng ông sáng đó tới Wood Green để giúp Eunice đóng gói dọn đồ đạc. Rốt cuộc thì người phụ nữ ấy cũng sắp sửa dọn tới ở cùng ông, tới căn hộ của ông. Những cái thùng để đóng đồ chuyển đi đã được giao tới chỗ của Eunice và xe tải dọn nhà sẽ đến vào ngày mai. Bà ấy đã xin nghỉ làm một ngày nhưng vẫn lưỡng lự chưa thừa nhận cần phải có thêm hai người nữa cùng phụ giúp một tay.
– Sao lại là cháu? Có nhiều người thế cơ mà, - tôi hỏi. - Cô ấy có thích cháu đâu.
– Chẳng qua là cô ấy chưa biết cháu đó thôi. Mà bác nói thật nhé, cháu không phải là người dễ hiểu đâu, về mặt này thì cháu giống bố cháu đấy. Nhưng các mặt khác thì không, đừng có hiểu sai ý bác. Ơn Thánh là cháu chẳng có tí tính cách nào của bố cháu cả.
– Sao cháu lại khó hiểu đối với người khác thế cơ ạ? Cháu chẳng hiểu gì cả.
Bác tôi mỉm cười.
– Vậy thì, bác phải gọi cháu là gì nào? Miranda? Vivien? Hay gì khác? Cháu biết không, cháu là một cô gái cứ 5 phút một lần lại thích khoác lên mình một bộ mặt khác, giống như thay một cái áo váy mới, trong khi cô ấy hoàn toàn không cần vì bản thân cô ấy đã xinh đẹp, đáng yêu với khuôn mặt của chính mình rồi. Tất cả chỉ vì cô ấy không tự tin, cô ấy không tin tưởng vào những bản năng của mình khi người ta dẫn dắt cô ấy đi sai đường tới chỗ thảm họa. Bác biết đó là những gì mà cháu cảm thấy. Bác đã quan sát cháu khi chúng ta thu âm. Cháu cảm thấy ngờ vực ở bên trong và cần phải đặt câu hỏi. Tại sao cái này, tại sao cái kia. Tại sao và tại sao. Đó là những gì cháu che giấu ở bên trong. Những câu hỏi tại sao của cháu. Cháu nghĩ nếu cháu hỏi tại sao thì cháu sẽ có một chút thời gian, về điểm này thì cháu giống như một đứa trẻ, nhỉ? Bởi vì, cháu có biết không, bác vẫn còn nhớ hình ảnh cháu đứng ở cạnh cửa với một khuôn mặt chỉ thấy mắt là mắt, và bác đã cố đưa cho cháu thanh kẹo chocolate nhưng bố cháu đã giật nó khỏi tay bác như thể nó là thuốc độc.
– Vâng, cháu cũng nhớ như vậy. Đó là ký ức rõ ràng nhất mà cháu có về thời thơ ấu của mình. - Tôi bận rộn đánh giá những nhận xét này về tính cách của tôi để xem xét lại sau này, khi tôi đã tìm thấy chút yên ả, thanh thản. Tôi thấy chúng thật là bất ngờ, thậm chí gây hoang mang vì tôi nghĩ mình là một người luôn luôn sục sạo để lý giải chuyện phải trái và logic ngay trước mặt bố mẹ mình, những người không có đầu óc lý trí cùng những hận thù cũ rích, những nỗi lo sợ bất an, chứng loạn thần kinh chức năng và những suy nghĩ gàn dở, lập dị.
– Thật vậy ư? Cháu vẫn còn nhớ bác à? - ông ngồi ngả về phía trước trong ngai mây, hỏi một cách hào hứng.
– Cháu nhớ bác mặc bộ đồ vest màu xanh dương, đi đôi giày da lộn và đeo đồng hồ kim cương, còn cô gái đi cùng với bác thì mặc áo khoác và đội mũ da báo. Cháu đã nhìn theo bác từ cửa sổ nhà mình khi bác và cô ấy về. Bác bước ra ngoài vỉa hè còn cô ấy thì dính đầy chocolate quanh miệng.
Ông mỉm cười. “Đúng rồi, cái cô gái ấy. Bác không biết chuyện gì đã xảy ra với cô ấy. Họ đến rồi đi. Bác cũng không biết điều gì xảy ra với bộ đồ đó hay cái đồng hồ đó nữa. Nhưng cháu đúng thật là một đứa bé đáng yêu. Bác chưa từng có một đứa con nào hay dù gì chăng nữa, cũng chưa từng nghe ai nói đã có con với bác.”
– Thế bác có ước là mình có một đứa không? - tôi hỏi, vì lúc đó tôi chưa biết về chuyện không thể có con của ông. Gương mặt bác tôi hơi đông cứng lại. Nét sa sầm xuất hiện trên những nếp nhăn của khuôn mặt ông.
– Nhiều năm qua, bác đã nghĩ đến một đứa con trai. Đàn ông mong muốn có con trai là chuyện bình thường. Nhưng sau đó khi ta trông thấy một đứa con gái bé bỏng, ước muốn của ta biến thành một điều gì đó khác hẳn. Ta nhận ra rằng cái cách mà ta đối xử với một người phụ nữ cũng là cách mà con gái bé bỏng của ta sẽ được những người đàn ông trong cuộc đời nó đối xử với nó. Ý nghĩ này đập vào ta giống như một tấm gỗ phang vào đầu. Cháu biết không, bác chưa từng đối xử tử tế với phụ nữ, chỉ toàn là vô tâm. Ta không nên làm như vậy với mọi người. Bác không muốn cháu trở thành người vô tâm. Đó là lý do tại sao bác không thích cháu giao du cùng với cái thằng đó. Nó chỉ là một thứ đồ chơi cho cháu thôi. Nhưng thôi, bác nói vậy cũng đủ rồi, đó không phải là chuyện của bác. Bác chỉ nói lên một ý kiến thôi. Tất cả chỉ có vậy. Còn bây giờ đã đến lúc xem tin tức rồi.
Ông bật ti vi lên. Người ta đang phỏng vấn John Tyndall, lãnh đạo của đảng Mặt trận Dân tộc, người đang nói về “chủng tộc da trắng”. Tôi nhìn xuống đôi tay mình để xem chúng có màu gì. Màu nâu ô liu tối. Đứng quanh hai bên mạn sườn Tyndall là những người đàn ông ủng hộ ông này, tất cả họ đó đều mặc áo sơ mi trắng, thắt cà vạt sẫm màu. Cái đầu của họ dường như đã sôi lên khiến máu dồn hết lên mặt.
– Nhìn xem cái tên đê tiện ghê sợ kia kìa! - bác tôi nói. - Cháu thấy chưa, bác không lo lắng cho bản thân mình mà bác lo cho Eunice. Bây giờ, cô ấy làm bác lo đến phát ốm, không biết chuyện gì đang xảy ra với cô ấy nữa. Lũ mang giày ống cột dây ngược lên cao đó có mặt ở khắp nơi, ai có thể kiểm soát được chúng đây?
– À, cháu sắp sửa tham gia tuần hành biểu tình vào tuần tới, - tôi nói, giọng kiêu hãnh.
Bác tôi cười to. Chiếc môi dưới trề rung rung trên khuôn mặt ông còn đôi mắt màu nâu thì ánh đầy vẻ hài hước giễu cợt:
– Bác đã thấy nhiều cuộc tuần hành biểu tình rồi. Người ta diễu hành thành đám đông với những biểu ngữ cầm trên tay. Bác đã thấy ở Budapest vào năm 1956. Cuối cùng thì chuyện đó tới đâu nào?
Nhưng bất chấp vẻ ngoài tỏ ra can đảm, bạo dạn, thực ra bác tôi đang lo sợ. Tôi thấy gương mặt ông trắng bệch dưới ánh sáng của màn hình ti vi. Hai bàn tay ông bấu chặt vào hai bên thành chiếc ngai mây hình đuôi công.
– Eunice! - ông kêu lên khi hình ảnh những kẻ theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc diễu hành từng hàng từng hàng qua màn hình. - Điều gì sắp sửa xảy ra? - ông quay sang tôi hỏi - Cháu định sẽ làm gì nào?
Tôi cố giải thích với ông rằng có những ngày tôi phải mất rất nhiều thời gian mới tống sạch hết mấy tờ rơi của mình nhưng cũng có khi người ta nhận chúng rất nhiệt tình, họ gần như là vồ lấy chúng khỏi tay ta, cảm ơn ta, chúc ta những điều tốt lành chỉ vì ta đứng đó và chỉ cho họ thấy rằng sắp sửa có chuyện, rằng sẽ có một ai đó đứng lên để mà tin tưởng, dựa vào.
– Ôi, cháu đúng là một đứa con gái ngốc nghếch, - bác tôi kêu lên với vẻ tuyệt vọng - ngốc nghếch với bộ óc trong đầu cháu với Shakespeare của cháu. Nhìn cháu kìa, ăn mặc thì như một thằng con trai, còn cái đầu thì đã cắt mất mái tóc đẹp đẽ đáng yêu.
– Cháu sẽ nuôi tóc mọc dài trở lại mà, - tôi nói - cháu không muốn là một người ăn mặc bắt chước theo phong cách rock nữa.
– Tốt. Điều đó làm bác thấy rất vui. Bác cháu ta sẽ tiếp tục công việc ghi âm nữa chứ? Bác vẫn chưa kể với cháu điều gì quan trọng về câu chuyện thực sự sắp diễn ra, về những gì bác đã làm và người ta làm đối với bác. Cháu chưa biết đâu. Cháu mới chỉ biết phần bắt đầu thôi. Cháu hôn bác một cái được chứ?
Dĩ nhiên là được ạ - Tôi hôn nhẹ lên trán ông và bác tôi vươn người tới, chộp lấy một bàn tay tôi rồi đặt đôi môi của mình lên đó. Tôi cảm nhận được đôi môi trơn ướt đó trên làn da của mình, lực đè của những ngón tay ông vào cổ tay mình, những móng tay của ông trắng ra. Ôi, bác của tôi, người bà con họ hàng máu mủ ruột thịt của tôi, con người đã phải chịu đựng nhiều đau đớn khổ ải và cũng là người khiến người khác phải chịu đựng như vậy. Khiếp sợ và cảm thông là những tình cảm lẫn lộn mà tôi dành cho ông. Ông nhặt một mẩu vải hay vữa tường trắng khỏi tóc tôi. “Người cháu bụi quá” - ông nói và đưa một tay ngập ngừng chạm vào má tôi. “Cháu để tóc dài lại đi, được chứ? Mái tóc cháu rất đẹp. Hãy để nó tự nhiên như những gì nó muốn, như khi bác trông thấy lúc cháu còn là một cô bé con. Khi đó, cháu có một mái tóc xoăn ở trên đầu. Bà nội của cháu cũng vậy. Có mái tóc xoăn y hệt. Bà đã cố chiến đấu với mái tóc xoăn đó giống như cháu đang làm nhưng chưa bao giờ bà có một chiến thắng đầy đủ. Bác thích một cô gái có mái tóc xoăn, thích nhất trong tất cả mọi phụ nữ đấy.”
Chúng tôi tiếp tục xem tin tức nhưng ông đã mất hết hứng thú với chương trình này. Tôi viết lại địa chỉ của Eunice và ông cảm ơn tôi. Tôi ước gì cuối cùng mình đã có phần cốt lõi của câu chuyện, về việc ông đã mua được những ngôi nhà ở phía tây London như thế nào và bắt đầu cho thuê chúng ra sao. Tôi có nhiều câu hỏi muốn hỏi ông về những gì ông đã làm và ông có thể bào chữa cho mình ra sao. Nhưng hóa ra, đây là cuộc nói chuyện cuối cùng của ông và tôi, ngồi trong căn hộ của ông, phía trước bức tranh tường của ông vẽ những cây cọ đang đu đưa và mặt trời đang chiếu sáng rực rỡ xuống bãi cát.
Trên tay bác tôi cầm cái đĩa đựng một miếng bánh kem trang trí dâu tây bóng láng màu đỏ mà ông đã tới tận tiệm bánh Swiss Cottage để mua nhưng gần như không ăn. Lý do là vì dù ông nói về bánh ngọt rất nhiều và làm tất cả mọi thứ trong khả năng của mình để có chúng (tôi nghĩ chính cách nghĩ của ông về bánh đã thúc giục ông làm như vậy) nhưng bộ máy tiêu hóa của ông không thể chịu nổi lượng đường và chất béo nhiều đến mức vậy.
30 năm sau, tôi vẫn hình dung thấy ông ngồi trước bức tranh tường với cái đĩa đựng bánh kem trên tay, nhìn tôi với gương mặt của tình yêu thương rụt rè và niềm khát khao mong mỏi, rồi đôi mắt màu nâu mờ đi và ông lấy một chiếc khăn tay chùi hai mắt kính của cặp kính lão giả đồi mồi.
* * *
Tôi luôn luôn nghĩ là Eunice sống trong một căn hộ cầu kỳ kiểu cách với rất nhiều thứ trang hoàng và suy nghĩ của tôi đã đúng. Bà ấy đã mua một vài thứ đẹp - một số bức tranh và đồ trang trí, những tấm màn nhung và hoa violet cắm trong mấy cái bình nhựa. Tuy nhiên, nó trông giống như một căn phòng nhỏ của khách sạn, như thể bà ấy quay về đây chỉ để ăn một bữa ăn, xem ti vi và ngủ; còn cuộc đời thực của bà, những gì phô bày trước thiên hạ, là ở cửa hàng bán quần áo hoặc ở trong vòng tay của bác tôi. Ngôi nhà của bà ấy là nơi mà ở đó một con búp bê đẹp nhất của một đứa bé được cất đi cẩn thận trong chiếc hộp gốc của nó và được bọc trong lớp giấy lụa màu hồng. Bà ấy sống đằng sau cổng trước của một khối nhà kiểu Victoria có một ô kính màu đầy bụi và rạn nứt. Chỉ có cái cửa là thứ khiến cho Eunice thấy thích thú. Nó là rào chắn ngăn cách bà với thế giới.
Bà ấy chỉ qua những căn hộ bên kia đường và nói: “Có một hạng người khác sống ở đằng kia. Không phải là hạng người tử tế.” Có nhiều thằng xấu xa, Eunice nói, những tên tội phạm vặt, những tên ăn cắp vặt, những thằng trộm đêm, những kẻ tiêu thụ hàng ăn cắp và những đứa trẻ lêu lổng, hoang đàng, xấc xược chẳng biết kính trọng bậc cha chú của chúng. Có một ngày, một trong số bọn chúng đã giật túi xách của bà rồi bỏ chạy trong lúc bà đang đi tới ga tàu điện ngầm. Tất cả mọi thứ - ví tiền, chìa khóa son môi, thẻ bảo hiểm quốc gia của bà - đều nằm trong túi. Bà đã tìm kiếm quanh khu hàng xóm của mình và phát hiện chiếc túi tại một nơi đổ rác nhưng tất cả mọi thứ đều đã bay mất. Eunice buộc phải tốn tiền để thay hết các ổ khóa.
“Rồi sau đó một lũ xấu xa hơn xuất hiện,” - bà ấy nói - lũ da trắng đi giày ống và cạo trọc đầu.”
Thế là tôi kể với Eunice về những hoạt động của tôi trong Liên minh chống Quốc xã với hi vọng bà ấy sẽ có một phản ứng thân thiện, tích cực mà thích tôi nhưng tôi cũng không dám hết sức tự tin nghĩ rằng Eunice sẽ đánh giá cao điều đó hơn bác tôi.
– Chà chà, - bà ấy nói. - Thật tốt khi cô cũng đấu tranh chống lại bọn chúng. Chúng ta cần phải gắn bó, đoàn kết cùng với nhau, chúng tôi và những người Do Thái như cô. Nhưng có điều, những tên đi giày ống kia chẳng buồn bận tâm đến mấy tờ rơi đâu.
– Thế cô nghĩ cháu nên làm điều gì? - tôi hỏi. Vì ít nhất thì tôi cũng đã ở đó, đứng ở ngoài đường thay vì trốn trong nhà.
Eunlce nhún vai:
– Ờ, cô biết không, đây là lúc mà một người như Mickey Elf rất có giá trị đấy.
Tôi nghĩ anh ta là một người kỳ quặc và mối quan hệ thân thiết giữa anh ta với bác tôi đang xấu đi nhưng Eunice nhắc tôi nhớ rằng họ đã chơi với nhau rất lâu, từ thuở bác Sándor mới chân ướt chân ráo tới London. Còn bố tôi thì chẳng lúc nào tử tế và chào đón anh mình, tìm cho ông một công việc chân tay tại một nhà máy trong khi ông rõ ràng là một người có đầu óc của dân kinh doanh. Mickey đã giúp ông khởi dựng sự nghiệp. Mickey có nhiều mối quan hệ. Mickey chỉ cho ông những gì ông có thể làm, những điều mà bất cứ ai cũng có thể làm được nếu họ muốn hoặc có rất ít sự chọn lựa khác như trong trường hợp của bác tôi.
Tôi hỏi Eunice làm sao có thể tuyển mộ một người như Mickey vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít? Ừ thì, bà ấy đáp, Mickey đã giúp Jim giải quyết những kẻ đã quấy nhiễu tại cửa hàng của Jim và chúng không còn quay trở lại nữa.
Một nhân vật trông như thần lùn giữ cửa với mớ tóc giả kinh khủng đó đã đánh bại được lũ đầu trọc sao? Tôi hỏi với một vẻ kinh ngạc. Không, không, Eunice đáp, dĩ nhiên không phải đích thân Mickey làm điều đó mà là nhờ vào những mối quan hệ của anh ấy. Anh ấy biết rất nhiều người. Eunice không nói đó là cách đúng. Nó không phải là cách đúng nhưng nó vẫn cứ là một cách và đôi khi một cách cũng có nghĩa là cách duy nhất.
Eunice dán nhãn lên tất cả mọi thùng đồ chuyển đi để biết trước thứ gì sẽ được bỏ vào từng thùng. Tất cả mọi thứ được làm theo một hệ thống mà bà ấy đã học được qua nhiều năm làm việc trong lĩnh vực bán lẻ. Chỉ có những thứ trần tục như khăn trải giường, khăn lau chén bát, gối, dao, nĩa, một vài lon thức ăn và gói đựng súp sấy khô mới được bà cho phép tôi đóng thùng. Quần áo của mình, Eunice tự tay dọn, gấp chúng bằng những ngón tay nhanh nhẹn rồi đặt chúng vào va li như thể bà ấy đang nâng niu chăm sóc một đứa trẻ mong manh.
Sự lặp lại đều đều trong nhiệm vụ đóng thùng những món lặt vặt của tôi thật là dễ chịu vì nó cho phép tôi thấy thanh thản bình yên với tất cả những suy nghĩ giằng xé đã bùng lên trong đầu tôi kể từ lúc cãi nhau với Claude. Anh ta đã chịu ảnh hưởng tư tưởng nào đó từ người bố gốc Ireland của anh ta, một lão già đạo đức giả, bởi vì Claude là con một cho nên chắc chắn họ đã thách thức nhà thờ, không theo cách này thì cũng theo cách khác. Làm sao mà tôi biết rằng câu chuyện về cái chết của Alexander tại bàn ăn ở khách sạn và việc tôi phá thai sau khi trở về London lại khiến cho Claude trở nên giận dữ đến phát điên như thế cơ chứ? Anh ta trông như sắp hóa rồ ở đó, trong căn phòng ăn tập thể.
Tôi biết mọi sự với Alexander sẽ khác xa như thế nào. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ ngồi xuống lặng lẽ cùng nhau bên bàn ăn, sẽ bàn bạc một cách hợp lý, chừng mực và anh ấy sẽ nói khá nhẹ nhàng rằng: “Được rồi, Vivien. Đó hoàn toàn là quyết định của riêng em, là sự lựa chọn của riêng em. Dĩ nhiên anh cũng có ý kiến nhưng đó là cơ thể của em chứ không phải cơ thể anh”. Những lời trao đổi từ tốn ôn tồn này, sự nhất trí chung về mặt tinh thần này, ngôn ngữ dành cho nhau của những con người có học thức này sẽ là những bánh xe để chúng tôi tiến về phía trước. Nhưng, với tôi, những chuyện đó đã qua lâu lắm rồi.
Khi công việc đóng thùng đồ đạc đã xong xuôi, tôi mệt bã người. Cơn mệt mỏi rã rời đến chỉ ngay sau khi Eunice làm cho tôi một tách trà. “Tôi có một cái bánh dành cho cô đấy, giống như bánh của Sándor,” - Eunice nói. Tôi đáp, “Cháu muốn giữ dáng thon gọn.” Nhưng sau đó Eunice đã đưa ra một lời mời, một lời đề nghị mà ngay từ đầu đã hết sức đáng ngạc nhiên đến nỗi tôi hoàn toàn phải suy nghĩ lại sự từ chối của mình trước người phụ nữ đang ngồi đó trong chiếc quần mềm màu be, đôi dép nhung thêu đi trong nhà và chiếc áo kiểu vải tơ tằm màu cà phê môca, uống trà đựng trong một tách sứ trang trí bằng những nụ hồng.
– Cô có muốn chơi chút cần sa chung với tôi không? - Eunice lấy ra một miếng giấy bạc cùng một nhúm hasit[62] và bắt đầu cuốn một điếu cần sa. - Tôi thích hút vào cuối ngày. Nó thật sảng khoái, sảng khoái hơn là uống một ly rượu. Sándor không thích hút. Ông ấy đã thử một lần rồi. Tôi đưa cho ông ấy hút một vài hơi nhưng nó làm ông ấy buồn nôn. Thể tạng ông không phù hợp với nó.
Bác tôi đã có nhiều lời nhận xét gièm pha, xem thường những người chơi ma túy, những người mà ông gọi là dân nghiện. Ông thích kiểm soát mọi thứ càng nhiều càng tốt. Ngoài chuyện bánh ngọt và phụ nữ, đối với ông, việc nuông chiều, thả lỏng không kiểm soát bản thân là một chuyện nguy hiểm vì cho phép bản thân ăn chơi thoải mái tức là đầu hàng trước thế lực của một người nào đó khác và ông chỉ chuẩn bị chấp nhận trong trường hợp của Eunice mà thôi. Đây là thói xấu duy nhất của người phụ nữ mà ông yêu và vì thế nên ông tha thứ cho Eunice. Bà ấy chỉ uống được vài ngụm rượu và kiểm soát rất kỹ những gì mình ăn. Đó là điếu cần sa cuối cùng của Eunice. Bà ấy đã quyết định sẽ không đem ma túy vào ngôi nhà mới của mình vì cảnh sát lúc nào cũng tìm kiếm một cơ hội bắt nhốt chồng chưa cưới của bà, người đang được tạm tha vì cam kết sẽ cải tạo tốt. Eunice cho rằng họ muốn bắt ông chẳng phải vì bất cứ những gì mà ông đã làm mà đơn giản chỉ vì thù ghét. Bà ấy chẳng ưa gì cảnh sát hơn bác tôi. Chúng tôi cùng hút chung điếu cần sa trong im lặng. Tôi cố hết sức thư giãn và tập trung đầu óc vào những nụ hồng ở mặt ngoài của chiếc tách trà mà tôi vẫn đang cầm trên tay phải. Chúng cứ lớn dần lên và đậm màu hơn cho đến khi bắt đầu trông giống những bông hồng biếm họa với những cái gai khổng lồ và trở nên xuẩn ngốc một cách nhạt nhòa thì tôi không thể nào xua ra khỏi đầu những ý nghĩ về đứa con không bao giờ chào đời của mình; những ý nghĩ xuất hiện giống như một bài tường thuật tại chỗ trên ti vi. Có phải tôi đã thực sự làm một chuyện sai trái hay không? Có phải đứa bé ấy cứ ương bướng không chịu đi, nhất định nán lại quanh quẩn đâu đây dưới dạng một linh hồn giống như một bóng ma hay không? Rồi tiếp đến là hình ảnh đôi mắt nhỏ màu xanh lơ của Alexander đang nhìn tôi từ trên thiên đàng; đôi môi anh dúm dó thành một nụ cười. Những người đã chết tụ tập chật kín: đứa con bé bỏng của tôi, bà nội tôi với một khối u ở ngực, ông nội tôi nằm trong cái hố rắc vôi bột. Họ nói bằng những thứ tiếng xa lạ. Ngay cả Alexander cũng bắt đầu nói tiếng Latinh với tôi còn đứa bé thì bập bẹ vẻ oán giận, cáo buộc.
– Cái thứ này đúng là phê bỏ xừ luôn! - Eunice nhận xét. - Người ta trộn cái quái gì với nó nhỉ, thuốc phiện chăng?
– Cháu chẳng cảm thấy dễ chịu chút nào, - tôi nói.
– Đúng rồi. Trông cô không được khỏe. Thôi ra mà nằm nghỉ đi!
Eunice đưa tôi sang phòng ngủ của bà ấy và đắp một cái chăn lên người tôi.
– Ngủ cho hết phê đi, - bà ấy nói. - Một hai tiếng nữa tôi sẽ đánh thức cô dậy.
Tôi rơi vào một giấc ngủ lơ mơ mệt mỏi kiệt sức đầy những mộng mị đủ màu sắc và bị đánh thức bằng một yêu cầu vào bếp, ăn một quả trứng chần nước sôi đặt bên trên một miếng bánh mì nướng. Cái lòng đỏ trông giống như một con mắt đang giương lên nhìn tôi từ trong cái đĩa nhưng khi tôi ăn xong quả trứng, tôi cảm thấy khỏe hơn, linh lợi và tràn đầy sinh lực. Đã đến lúc phải đi. Eunice muốn đi bộ đưa tôi tới trạm xe điện ngầm nhưng tôi nói với bà ấy là tôi sẽ ổn.
– Cảm ơn vì cô đã tới, - bà ấy nói - tôi biết đó là ý tưởng của Sándor. Ông ấy muốn cô và tôi hiểu lẫn nhau. Chà, tôi thấy cô là một người làm việc chăm chỉ và trái tim của cô đang đặt đúng chỗ mặc dù cô đặt lòng tin vào tờ rơi. Nếu tôi không dọn đi vào ngày mai thì tôi sẽ phải nói rằng cô được chào đón đến nhà tôi bất cứ lúc nào.
– Sau ngày mai thì cô và cháu sẽ trở thành chỗ hàng xóm với nhau, - tôi nói.
– Đúng. Ngày mai chúng ta sẽ trở thành láng giềng của nhau.
– Và cháu muốn xin lỗi một lần nữa về những gì mà bố cháu đã nói về cô. - Nhưng, tôi nhận ra rằng tôi đã nói ra một điều sai lầm vì sự xúc phạm đó bây giờ đã được xếp vào hàng những sự kiện không nên nhắc lại, những thứ mà Eunice ngờ rằng chúng được đề cập tới chỉ nhằm gây bối rối, ngượng nghịu. Bà ấy gật đầu một cách cáu sẵng và mở cửa.
Tôi nói với Eunice là hôm sau tôi sẽ ở nhà, rảnh rang tại Camden để giúp bà ấy dỡ đồ đạc ra nhưng bà ấy bảo không cần vì “Sándor sẽ ở đó. Tôi không cần thêm bất cứ sự giúp đỡ nào nữa”.
Dù vậy, tôi vẫn cố vươn người tới để hôn lên má của bà ấy và bà ấy đứng im, cứng đờ như khúc gỗ, đón nhận cái chạm nhẹ của đôi môi tôi nhưng không hôn trả tạm biệt tôi.
Khi tôi rẽ ở góc đường cuối con phố nhà của Eunice, đối diện với một giao lộ dơ bẩn và ồn ào gần trạm xe điện ngầm thì bất ngờ một băng xuất hiện, bốn tên dàn hàng ngang từ phía bên kia đi lại. Đối với một người không hiểu gì về quần áo thời đó, thời cuối thập niên 70, thì chúng và tôi đều ăn mặc giống nhau nhưng sự thực không hẳn là như vậy vì tôi mặc theo phong cách cục mịch kiểu ngoài giờ làm việc giống như của Claude, khác khá nhiều điểm so với quần áo của bọn đầu trọc. Chẳng hạn như, chúng mang giày da có dây buộc còn chúng tôi mang giày ống bằng vải dù. Chúng mặt quần jeans xắn lên tới đầu gối còn chúng tôi mặc quần jeans ống đứng, bó sát. Chúng mặc quần có dây đeo để kéo quần lên cao còn chúng tôi thì không có dây đeo. Mùa hè đó, chúng tôi để tóc kiểu chải dựng ngược như bờm ngựa, nhuộm màu hồng và xanh da trời trong khi chúng cạo sát đầu thành nham nhở, lởm chởm. Nữ trang của chúng tôi là những cái ghim an toàn còn chúng chẳng đeo món nữ trang nào. Vậy là giữa tôi và chúng có tất cả những điểm khác biệt mà ta có thể nhận ra ngay lập tức. Chúng biết tôi là kẻ thù của chúng và tôi cũng biết chúng là kẻ thù của mình. Trước đây tôi chưa từng trông thấy bọn đầu trọc gần đến như vậy. Tôi có thể ngửi thấy mùi da giày và trông thấy da đầu màu hồng của chúng. Chúng vồ túi xách của tôi, giật mạnh nó khỏi tay tôi và bắt đầu ném các thứ ở bên trong ra ngoài đất. Có lẽ có một thứ gì đó đã được cắt trộn vào trong điếu thuốc phiện ngoài thứ nghi là cần sa, bởi thay vì co tròn người lại như một quả bóng và nằm hấp hối lặng lẽ ở đó, ngay trên góc phố, hoặc chạy ngược về nhà của Eunice thì tôi lại bắt đầu la hét, chửi bới bọn đầu trọc, rủa chúng là lũ hạ đẳng bẩn thỉu, là bọn phát xít. Tôi chộp lại túi xách của mình từ tay chúng và dùng nó đánh vào đầu một trong số những tên đó. Cái móc khóa bằng kim loại của chiếc túi đập trúng mặt hắn, rạch một đường dài và sâu lên má hắn. Tôi đang chảy máu còn hắn thì la to, lấy khăn tay chấm chấm vết máu. Mấy tên còn lại bắt đầu cười tên này, chế giễu hắn là đồ trẻ con hay khóc nhè, mới bị cái túi xách của một đứa con gái làm xây xước có một tí mà đã đau khổ. Chúng quỳ xuống và bắt đầu thắt chặt lại dây giày của mình. Tôi thu nhặt các thứ của mình bị bọn chúng ném vương vãi khắp vỉa hè rồi bỏ lại vào túi xách.
Khi tôi cúi xuống, tôi cảm thấy một chiếc giày ống đạp thẳng vào thắt lưng của mình. Tôi ngã sấp mặt xuống nền bê tông. Mặt đường cào trầy xước hết da hai bàn tay tôi và máu chảy dọc theo vết tôi trượt ngã.
Bọn đầu trọc đứng đó, cười hô hố rồi sau đó nhặt cái túi xách của tôi lên, nhét cái ví vào miệng tôi vì chúng nói tôi là một con chó cái Do Thái dâm đãng tục tĩu chỉ biết yêu tiền. Nhưng dù chúng có gọi tôi là gì đi chăng nữa thì cũng chẳng hề gì vì ngay khi tôi giải phóng được quai hàm mình khỏi cái ví là tôi lại tiếp tục chửi rửa chúng bằng tất cả những ngôn từ xấu xa nhất có trên đời này, rủa cho đến khi chúng thấy chán và bỏ đi. Không buông tha, tôi liền chạy theo sau chúng, không ngừng rủa xả và chúng quay lại, đánh tôi lần nữa. Nhưng trong cơn thịnh nộ điên cuồng, tôi hầu như chẳng có cảm giác gì trước những cú đánh, cú đấm của chúng. Tôi liên tục tuôn ra những lời nguyền rủa, khinh miệt cay nghiệt thậm tệ dành cho chúng để trả thù cho những gì mà cha ông chúng đã làm đối với bác tôi. Tôi càng chửi thì chúng càng đấm đá túi bụi nhưng đôi chân tôi giờ là sắt và chẳng cảm thấy gì. Miệng tôi phun ra toàn những lời bừng bừng phẫn nộ như thể Chúa đang nguyền cho những kẻ thù của mình bị trời tru đất diệt.
* * *
Khi nghe thấy tiếng tôi đã về nhà, bác tôi gõ cửa căn hộ của tôi nhưng tôi không trả lời. Tôi mệt mỏi rã rời, người đau nhức ê ẩm và lặng câm. Tôi trở về nhà một cách nhục nhã xấu hổ, run run lần dọc rào chắn giống như một con vật bị đánh tơi tả. Ông gọi to: “Vivien phải không? Cháu có ở đấy không?”. “Vâng, cháu ở đây”- tôi đáp. Giọng tôi nghe như một miếng sắt tây đang nứt gãy. “Cháu ổn chứ?”. “Vâng, cháu khỏe ạ”. “Chuyện gì xảy ra với cháu thế, kẻ nào làm cháu bị đau à?”. “Không ạ”. “Cháu có chắc không”. “Dạ chắc mà bác”. “Thôi được, thôi được, bác sẽ gặp lại cháu vào sáng mai vậy”. Cánh cửa trước mở ra và đóng vào như tất cả mọi buổi tối. Tôi nghe thấy tiếng Claude về, nghe thấy tiếng sột soạt của chiếc áo khoác da, tiếng ho húng hắng, tiếng bước chân dừng lại khẽ khàng khi đi ngang qua cửa căn hộ của tôi. Tôi nghe thấy tiếng anh ta mở cửa phòng mình rồi đóng lại. Khoảng một hai tiếng sau, cánh cửa lại mở ra và tôi nghe thấy anh ta đi lên cầu thang, gõ cửa căn hộ bác Sándor. Có tiếng nói chuyện nhưng tôi không thể nghe ra họ đã trao đổi với nhau chuyện gì. Rồi sau đó Claude quay trở lại. Chiếc giường võng xuống khi anh ta nằm lên đó. Tôi nghĩ tới hình ảnh anh ta nằm dài ở đó, ngắm nhìn lũ cá của mình, những con vật nhỏ bé sống giản đơn.
Cuối cùng, sau một vài tiếng ngủ chập chờn, tôi nhận ra chiếc quần jeans của mình đã bị rách ở đầu gối còn cái áo khoác da thì bị xé toạc. Tôi ngồi dậy, cởi đồ ra. Hai tay, hai chân phủ những sợi lông đen, ngắn và thô của tôi đang nổi lên những vết bầm tím lớn còn một cái móng tay thì thâm đen. Tôi đi tắm và nước nóng làm cho tôi vô cùng buồn ngủ. Tôi lơ mơ ngủ một lúc lâu; nước nguội dần cho đến khi có một người nào đó đập ầm ầm cửa phòng tôi, hỏi xem có phải tôi đang chết đuối trong đó không. Hối hận, tôi nhổm người bước ra khỏi bồn, quấn một chiếc khăn tắm mỏng nhỏ quanh mình rồi lau khô người. Cơ thể để trần của tôi trông mỏng manh, yếu ớt và bị bầm dập đến nỗi tôi nghĩ nó có thể gấp lại được thanh một cái hộp diêm. Tôi ứa nước mắt. Cuối cùng thì màn đêm cũng buông xuống. Tôi nằm xuống giường và đọc một bài thơ trữ tình ngắn nhưng mới đọc được vài chữ, tôi đã buồn ngủ. Sự ấm nóng của chiếc khăn tắm bọc lấy tôi. Tôi ngủ ngon lành, chìm sâu