Chương 18
Bác tôi đang ngồi trong một xà lim và ngay khi tôi trông thấy ông, tôi biết ông như vậy là đã hết rồi. Tôi có thể nói ông sẽ không còn tiếp tục sống và ông thực sự không còn sống nữa. Sự bùng phát của cơn cuồng nộ đã xâm chiếm lấy ông, xui khiến ông đi xuống cầu thang cùng với con dao trên tay để giết chết con ác thú - con ác thú sống ngay dưới mái nhà của ông và đã đặt bàn tay của nó lên da thịt của người bà con họ hàng máu mủ ruột rà của ông. Khối căm hờn, giận dữ điên rồ vô lý này đã đánh bại không chỉ cơ thể của Claude mà còn chiến thắng cả chính thể xác của riêng ông: ba cơn đột quỵ trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Ở đâu đó trong bệnh viện, Claude đang được băng bó vết thương. Gia đình anh ta từ Sheemess đã đến: mẹ anh ta, bố anh ta và một cô gái trẻ cỡ tuổi anh ta, người bồng theo một đứa bé mới sinh nhỏ xíu mà cô ta ẵm lên gần Claude và anh ta hôn lên má thằng bé. Cô ta ngồi, cầm lấy tay của Claude và hỏi anh ta nếu anh ta về nhà bây giờ thì họ sẽ sắp xếp được có phải không?
Đừng bỏ đi, cô ta nói với Claude, đừng bỏ đi nữa. Thằng bé là con trai của chúng ta. Chúng ta sẽ tìm ra cách để kiếm được tiền lương. Em biết anh đang sợ chết khiếp nhưng mọi chuyện rồi cũng sẽ ổn cả thôi. Nhìn thằng bé đi, con trai của chúng ta đấy. Nó muốn anh quay lại. Nó cần có bố.
Tôi chỉ nhìn Claude có vài phút. Cô gái kia đứng ở bên ngoài, hút thuốc và nhìn trừng trừng vào tôi. Cô ta rất xinh đẹp.
– Tôi không biết mình đã làm gì, - Claude kể lại. - Tôi chỉ đi lên để đưa giấy thông báo thôi không thuê nhà nữa. Tôi đã uống một đống thuốc sau khi cô đi và tôi đã chán ngấy với câu chuyện số phận của nhà cô. Mẹ kiếp! Tôi muốn dọn tới Nam London hay đâu đó, tìm một công việc ở một trạm khác. Giữa lão bác cô và tôi không có một lời qua tiếng lại khó chịu nào.
– Tôi cũng không biết chuyện gì đã xảy ra - tôi nói. - Tôi chỉ nói với ông là anh và tôi đã cãi nhau. Bấy nhiêu đó không đủ để ông cố tìm cách giết anh.
– Anh Claude không muốn trông thấy cô thêm một chút nào nữa - cô gái kia nói khi vừa quay trở vào phòng. - Anh ấy sẽ trở về nhà với tôi, phải không, anh yêu?
– Anh không biết - Claude đáp. - Anh phải suy nghĩ đã. Nhưng cô ta lại bồng đứa bé lên.
– Nhìn thằng bé này, - cô ta nói. - Nhìn xem anh đã bỏ lỡ những gì. Anh có thấy cái răng bé xíu của con không?
Từ dưới gối, Claude chằm chằm nhìn lên tôi một cách cầu cứu nhưng tôi biết tôi không thể cứu anh ta cũng như chẳng thể cứu được bác mình. Anh ta sẽ không bao giờ có được những hình xăm trên thân thể mình. Nó sẽ tiếp tục nằm trong các trang của cuốn vở nháp mà chẳng ai biết đến. Một ngày nào đó, cô gái kia sẽ tìm thấy nó, chờ đến khi anh ta ra ngoài đi làm là lặng lẽ vứt đi cùng với những thứ rác rưởi. Claude sẽ nhớ tới nó suốt nhiều năm sau đó, nhớ cho đến khi nó phai mờ dần trong ký ức của anh ta. Tôi nghĩ những gì bị xáo trộn trong anh ta sẽ nhường chỗ cho thói rượu chè hay bê tha bệ rạc, điều không bị cấm ngặt ở Isle of Sheppey.
Hôm sau, khi tôi quay lại thì tất cả họ đã đi. Tôi chưa bao giờ gặp lại Claude, có chăng chỉ thấy anh ta trong những giấc mơ của mình. Anh ta chạy dọc theo con tàu, đầu đội chiếc mũ lưỡi trai, mình khoác cái áo của nhân viên gác tàu, đóng và mở các cánh cửa, băng lên băng xuống xuyên thành phố London, đi phía dưới dòng sông trong con tàu điện ngầm bằng kim loại dài, phủ muội than đen nhẻm. Còn không thì tôi lại mơ thấy cái đêm hôm đó, trên chiếc thuyền máy nạo vét chạy lừ đừ dọc theo sông Thames trong khi những cái xác chết được vớt lên từ dưới nước và đôi bàn tay của anh ta đặt lên hai bầu ngực tôi.
– Anh sẽ ủ ấm cho em, - anh ta đã nói như vậy.
* * *
Bố tôi là người bà con họ hàng duy nhất của bác Sándor, trừ tôi. Vì vậy, ông phải có trách nhiệm. Bố mẹ tôi đến căn nhà của bác tôi và ngó quanh căn hộ của ông, nhìn bức tranh tường, chiếc ngai mây đuôi công và đồ đạc, bàn ghế bằng liễu gai. “Vậy ra đây là cách mà ông ấy sống đây,” - mẹ tôi nhận xét còn bố tôi thì chẳng nói gì. Một lúc sau, Mickey Elf xuất hiện với một mái tóc giả rối bù và đôi mắt có vành đỏ.
– Nghe này, - anh ta nói. - Tôi chẳng có quan hệ ruột rà máu mủ gì. Đây không phải là chuyện của tôi nhưng nếu ông bà muốn nhờ tôi…
– Ai đã hỏi nhờ tới anh nào? - bố tôi nói.
Nhưng Mickey không ngại bố tôi. Anh ta nhấn mạnh với vẻ khăng khăng, đưa một tay lên để chỉnh lại ngay ngắn mái tóc:
– Tôi biết ông ấy muốn gì. Tôi biết chính xác những gì ông ấy mong muốn. Tin tôi đi. Tôi biết mà.
– Được - bố tôi đáp. - Chúng tôi không thể bực bội với một người vì những ước nguyện cuối cùng của anh ta. - Nhưng thực ra lý do chỉ vì bố tôi không có một ý kiến nào hay hơn.
Ông đã giữ một thái độ hết sức im lặng khi tôi thông báo với ông cái tin về bác tôi. Bố tôi quay đầu đi. Vài phút sau, tôi thấy ông lấy một đầu cà vạt đã sờn rách của mình lau lau cặp mắt kính. “Vậy là anh ta đã chết,” - ông nói. “Thế nào mọi sự cũng sẽ kết thúc như thế này, một kẻ giết người trong dòng họ.”
Đám tang bác tôi là một cái đám lớn. Mickey và đám bạn bè giao du với anh ta lo liệu tất cả mọi thứ đến tận chi tiết cuối cùng. Họ đã lo cho bác tôi được chôn ở khu nghĩa địa của người Do Thái tại Bushey. Trước đây, tôi chỉ dự duy nhất một đám tang, đám tang của Alexander. Lễ tang kiểu Anh diễn ra ở đúng nhà thờ nhỏ nơi chúng tôi đã cưới nhau. Chiếc hòm gỗ gụ đẹp có những móc quai bằng đồng được sáu người của nhà thờ khiêng và đặt lên bệ thờ trong khi chúng tôi hát thánh ca. Bố của Alexander đọc bài điếu văn đầy những lời cầu nguyện, những câu trích dẫn từ cuộc đời và những lời răn dạy của Chúa. Ở Bushey, tất cả chúng tôi tụ tập tại một tòa nhà nhỏ được thiết kế dành riêng cho mục đích tổ chức tang lễ. Chẳng có một nhà nguyện nào. Cũng chẳng có bất cứ một thứ nào khác mà tôi có thể hiểu được. Bố tôi được phát một cuốn kinh để nói những lời cầu nguyện cụ thể mà người chủ lễ cầu cho người chết. Tuy vậy, bố tôi không biết cách nào đọc nó.
Chiếc quan tài bằng gỗ thông có móc quai bằng dây thừng được hạ xuống huyệt. Có nhiều thành phần xã hội đen có mặt ở đó và dĩ nhiên có cả báo giới. Họ đến và viết những mẩu tin ngắn xuất hiện trên các báo ngày hôm sau, in lại bức ảnh cũ của bác tôi, bức ảnh gương mặt của quỷ dữ.
Eunice cô độc trong bộ đồ đen, đội một chiếc mũ đen và đeo một cái mạng che mặt đen. Lần đầu tiên trông người đàn bà ấy mỏng manh yếu ớt.
– Người đàn ông tốt đẹp đó, - bà ấy nói - người đàn ông đáng yêu đó đã yên nghỉ dưới mồ cùng với tất cả những gì mà anh ấy đã trải qua.
Người nào đang được chôn ở đó thế? Những người đi đưa tang ở các đám khác hỏi. Một tên chủ nhà trọ ổ chuột, một kẻ dắt mối - một phóng viên cười khẩy trả lời.
Eunice liền dùng chiếc ô của mình bất ngờ quật vào chân anh ta. “Không ai biết người đàn ông này bằng tôi,” - bà ấy cất giọng từ sau tấm mạng che mặt.
– Tôi biết ông ấy lâu hơn bất cứ người nào ở đây, trừ bố cô - Mickey Elf nói với tôi. - Tôi biết ông ấy từ khi ông ấy vừa mới xuống tàu từ đất nước cũ của ông ấy. Tôi biết ông ấy qua suốt những thăng trầm lên voi xuống chó, qua những gì trước sau không thay đổi.
– Tôi đã kỳ cọ những vết sẹo trên lưng ông ấy - Eunice nói. - Tôi đã thấy những gì người ta gây ra cho con người đáng thương tội nghiệp này, đã chứng kiến những điều khủng khiếp tồi tệ mà ông ấy phải chịu đựng. Tôi đã nghe thấy những gì ông ấy la hét thật to trong giấc ngủ của mình. Tôi đã nhìn thấy người đàn ông này, một người đàn ông to lớn mạnh mẽ, đầm đìa nước mắt, khóc như thể một đứa trẻ con nằm trong xe đẩy.
– Tôi biết ông ấy khi ông ấy là một ông vua, Vua Kovacs; khi ông ấy có nhà trên đại lộ Bishops và tất cả giới thượng lưu đến dự những buổi tiệc của ông ấy. Ông ấy có một hồ bơi và một phòng khiêu vũ. Tất cả những người thuộc tầng lớp quý tộc giàu sang - các ngôi sao điện ảnh và những người quý phái có tiền - đều đổ đến đó. Ông ấy có cả đống những người khách như vậy.
– Còn anh thì chẳng biết gì về con người ta, - Eunice nói, trỏ ngón tay sơn màu nâu vào gã phóng viên. - Mãi cho đến khi ông ấy sa cơ lỡ vận, gặp khó khăn rắc rối thì anh mới biết ông ấy.
Mọi người lần lượt cầm xẻng xúc một nhúm đất ném xuống cỗ quan tài. Mickey lấy một thứ gì đó trong túi của mình ra và ném vào huyệt. Mọi người xầm xì: “Anh ta ném cái gì xuống dưới chỗ ông ấy vậy?”. Tôi thấy một thứ gì đó màu nâu bay vèo qua tôi. Một số dân anh chị đã tụ lại với nhau và mua một chiếc vòng hoa lớn nhất mà họ có thể tìm mua được nhưng Mickey yêu cầu họ để lại ở cổng. “Đám tang Do Thái là không có hoa nào hết,” - anh ta nói với họ. “Đó không phải là cách mà chúng ta tổ chức đám tang cho ông ấy”. Sau đó, họ quay lại và đặt nó lên cái gò đất, nơi nó nằm ở đó, khô héo và thối đi dưới ánh mặt trời và những cơn mưa đầu mùa thu cho đến vài tháng sau đó, khi chúng tôi quay lại đặt bia đá và thấy nó chỉ còn trơ lại chiếc khung kim loại.
Nhiều năm sau, tôi trở lại Bushey. Mộ của bác tôi vẫn còn ở đó, hiện lên rõ ràng với những viên cuội trắng và một bó diên vĩ héo khô được đặt theo đúng phong tục. Chẳng có nơi nào để đi sau đó nên mỗi người chúng tôi ai đi đường nấy. Tôi trở về Benson Court cùng bố mẹ mình. Chúng tôi đi lên thang máy và một lần nữa, tôi lại bước vào căn hộ với những mùi quen thuộc, với giấy dán tường dơ bẩn xám xịt và đồ đạc bếp núc cổ lỗ lôi thôi có từ trước chiến tranh. Nhưng trong thời gian tôi không sống ở đây, mẹ tôi đã miệt mài cố gắng với công việc dính tới hộp sơn xanh lá. Bà phủ sơn lên tất cả mọi thứ mà bà thấy sơn có thể ăn được. Màu xanh lá đập vào mắt bất cứ chỗ nào ta nhìn thấy.
Tôi mở cửa vào phòng ngủ của mình. Ở đó, chiếc hộp sơn đã không dám thâm nhập vào.
– Con thấy chưa, mẹ đã để tất cả mọi thứ y nguyên như cũ, mẹ tôi nói. - Mẹ muốn nếu con quay về, con sẽ thấy là không có thứ gì bị thay đổi.
– Đó mới chính là vấn đề đấy mẹ ạ, - tôi đáp.
– Con nói gì cơ?
– Vấn đề chính là ở chỗ chẳng có gì thay đổi cả.
– Lạy Chúa, nên thay đổi cái gì cơ chứ?
– Tất cả mọi thứ. Cuộc sống cần phải thay đổi, luôn luôn thay đổi, mẹ ạ.
– Sao con lại nghĩ như vậy?
– Mẹ hãy nhìn lại cả bố lẫn mẹ mà xem. Bố mẹ đã sống ở đây, trong cái bảo tàng này, sống như một sự hiến tế.
– Hiến tế à? Cái từ đó là gì vậy? Mẹ không biết nó. Bố con và mẹ đã đến đây như những người dân tị nạn. Bố mẹ đã tự mình xây dựng một cuộc sống tươm tất. Con còn đòi hỏi gì ở bố mẹ nữa nào?
– Sao mà bố mẹ lại có thể không muốn sống cho ra sống chứ?
– Sống ư? Sống như ông ta, con người khốn khổ đang nằm dưới mồ đó à?
– Con muốn được sống, - tôi la lên, ứa những giọt nước mắt thất vọng.
– Con sẽ sống, dĩ nhiên là con sẽ sống. Con đang nghĩ gì vậy? Con nghĩ rằng chuyện này sẽ kéo dài mãi mãi sao? Rằng giai đoạn này, thời gian này với tất cả những cái chết liên tiếp xảy ra sẽ ám ảnh vĩnh viễn sao? Đó chỉ là một thời khắc tạm thời mà thôi, con có hiểu không? Rồi nó sẽ qua đi và con sẽ sống. Hãy tin mẹ. Con sẽ sống. - Mẹ tôi dựa người vào tường một lát rồi đặt cái gậy xuống bên cạnh mình, tựa vào vai tôi làm nạng để giữ cho thân mình đứng vững trong lúc hôn lên mặt tôi và đưa một tay vuốt ve mái tóc đã cắt ngắn của tôi.
Rồi tối hôm đó, tôi đòi bà kể cho tôi tất cả những gì bà có thể nhớ về bác Sándor vào những ngày mà bà biết ông trước khi họ rời khỏi Budapest. Mẹ tôi gật đầu.
– Ông ấy là một người đàn ông nguy hiểm nhưng quyến rũ, - bà vừa kể vừa nhấm nháp một tách cà phê - một người đàn ông làm cho các cô gái cười, người biết lắng nghe họ với một nỗi cảm thông, người thâm nhập được vào tất cả những điều thầm kín bí mật của họ để lợi dụng họ. Một người chẳng hiểu chút gì về những tình cảm sâu sắc. Mẹ nghĩ mãi cho đến sau chiến tranh, ông ấy mới hiểu được một chút. Có lẽ là về sau trong cuộc đời, ông ấy đã học được nhiều hơn. Có lẽ những suy nghĩ đó mới đến với ông ấy gần đây và ông ấy không biết cách nào đối xử với chúng. Mẹ hết sức ngạc nhiên khi thấy người phụ nữ xinh đẹp tử tế đó tại bữa tiệc sinh nhật của con. Hoàn toàn không phải là hạng đàn bà mà ông ấy thường cặp kè trước đây. Ông ấy lúc nào cũng thích những loại gái hư hỏng, đĩ thõa hơn là các cô con nhà lành.
Bố tôi không bao giờ nói một từ nào về người anh hai của ông. Ông lặng thinh về chủ đề này cho đến tận ngày ông chết. Nhưng mẹ tôi đã kể với tôi về những lần ông tới nhà tù thăm bác tôi qua suốt nhiều năm, để cho bác tôi thấy những tấm hình chụp tôi lúc rời nhà đi học ở Đại học York, lúc tốt nghiệp và lúc đính hôn với Alexander. Ông đã khoe khoang kiêu hãnh về tất cả những thành công đạt được của tôi, muốn cho bác tôi thấy rằng ông - một con người biết phục tùng, làm việc cần cù, kín đáo, nhỏ bé thấp hèn - lại tạo nên được điều này. Ông đã nhìn anh mình - người anh thích ăn diện phô trương hào nhoáng - đang ngồi ở một cái bàn trong căn phòng thăm tù. Dù vậy, mẹ tôi vẫn bóng gió cho tôi biết bố tôi luôn luôn về nhà với tâm trạng bất mãn, như thể bác Sándor bằng cách này hay cách khác đã cố gắng xoay xở được một cuộc sống tốt hơn ông, theo những cách mà bố tôi không thể nào lý giải được.
Tôi quay trở lại căn nhà ở Camden Town và tôi quyết định chọn căn hộ của bác tôi và sống ở đó hai tháng, cho đến khi ngôi nhà trở nên quá bẩn thỉu, không thể ở thêm được nữa.
Sau khi tới ở một vài ngày, tôi tìm thấy những chiếc chìa khóa vào phòng của Claude. Ai đó đã vào trước và lấy đi hầu hết các thứ của anh ta. Những thứ còn lại là chiếc bể cá vỡ nát vương vãi đầy mảnh kính khắp sàn nhà. Xác những con cá nhỏ xíu đã biến mất. Chỉ còn những bộ đồ treo trong tủ quần áo. Bộ đồng phục và chiếc mũ lưỡi trai gác tàu của anh ta, chiếc quần jeans, những cái áo phông và cái áo khoác. Mùi của cái áo khoác da này là một phần của anh ta, là một phần cơ thể trẻ trung của anh ta. Tôi lộn nó ra để ngắm nhìn nó. Những cái khóa kéo, cái cổ áo, những cái túi. Nó đung đưa qua lại trên chiếc móc. Và rồi tôi thấy những gì anh ta đã làm. Anh ta đã tìm ra một cách để chống lại tôi kịch liệt như thế nào. Anh ta đã đi đến Chợ Camen, vào một trong những cửa hàng làm những thứ như thế này rồi yêu cầu người ta gắn một mẫu vẽ lên lưng áo khoác của mình, mẫu vẽ do chính anh ta thiết kế riêng cho mình vì tôi nhận ra nó: bốn cánh tay được vẽ quặp giống như những cái đinh tán kim loại, mẫu thiết kế chữ thập ngoặc của riêng anh ta.
Sách Do Thái cổ nói có 930 kiểu chết được Thượng đế tạo ra trên thế giới. Kiểu chết đau đớn khó khăn nhất là chết vì bệnh bạch hầu và kiểu chết dễ dàng nhất là chết vì một nụ hôn - nụ hôn được gọi mise binishike, cách mà ta giết 6 nhà tiên tri - những người mà Thần chết không có quyền lực chi phối, những người chết bởi nụ hôn của Chúa[64]. Cách chết thứ 931 đã được tạo ra để dành cho bác tôi. Ông chết vì chính con mắt của mình.
Câu chuyện về bác tôi, được kể bằng chính từ ngữ của ông.$b Con người có nên bị săn đuổi hay không? Liệu con người có bị xếp dưới con chó hay không? Ta đánh một con chó, có thể nó sẽ quay lại cắn ta, đây là cảnh báo của tôi.
Phải, tôi là Sándor Kovacs. Chính là tôi đấy. Chính là người mà quý vị đang đọc truyện về anh ta đấy. Chính là con người kinh khủng ấy đây.
Tội ác của tôi là gì? Hãy đưa cho tôi xem bản cáo trạng.
Hành động theo bản năng nhưng với đầu óc xảo quyệt láu cá? Đúng. Tuyên có tội.
Đặt sự sống của cá nhân mình lên trên sự sống của những người khác? Dĩ nhiên rồi.
Và vì điều này mà tôi bị ghét bỏ, bị săn đuổi, bị hiểu sai, bị biến thành một biểu tượng của ác quỷ?
Trở lại những ngày đó, vào năm 1964, ngay trước khi tôi đi tù thiên hạ đã kháo rất nhiều câu chuyện về tôi trên các mặt báo thậm chí ngay ở ngoài đường. Một số câu chuyện làm tôi phải phá lên cười nhiều đến nỗi tôi thường phải ngồi xuống để ngực dịu bớt, vì kể từ khi hai lá phổi bị lao của tôi không còn tốt như trước và chẳng còn hữu ích gì cho tôi vào cái thời đó tôi lại bị thiên hạ bảo rằng tôi ưa xuất hiện với một điếu xì gà trên môi.
Ban đầu bọn chúng nói tôi bắt đầu khởi nghiệp kinh doanh là một tay võ sĩ quyền anh chuyên đi đấu lấy giải ở Chicago. Hay có lẽ tôi là một công nhân bốc vác ở Ba Lan hoặc là một lực sĩ chuyên biểu diễn cho một đoàn xiếc ở Bắc Kinh. Rồi sau đó, bọn chúng thật sự trở nên điên rồ và tôi nghe chúng nó kháo rằng tôi là đứa con sản phẩm tình yêu của Joe Louis và Sophie Tucker[65]. Và giờ thì chuyện đó biến thành một trò chơi, kết thúc với những sự kết hợp nực cười nhất - Benito Mussolini và Fay Wray[66], Joe Stalin và Wallis Simpson[67], Công nương Margaret và Lobby Ludd[68].
Sau đó, tất cả bọn chúng lại tìm cách lách ra khỏi chuyện đó, không muốn bị chê cười, bị xem là một lũ ngốc. Bọn chúng đổ vấy rằng tất cả những chuyện đó là những trò tiếu lâm mà tôi đã tự thêu dệt ra cho mình rồi được bọn đàn em tay chân của tôi đi kể lại, truyền bá khắp nơi. Nhưng bọn chúng đã biết tất cả mọi điều về tôi như thế nào? Bọn chúng nói tôi chưa bao giờ trả lời một cuộc phỏng vấn nào cho báo chí. Quý vị biết tại sao không? Chẳng có một kẻ nào từng phỏng vấn tôi để đăng báo cả. Đấy, lý do là như vậy đấy. Những người khác cũng không nói gì với báo chí là những người mà bọn chúng gọi là các nạn nhân của tôi. Một số nạn nhân! Chỉ có một kẻ duy nhất là nói với bọn nhà báo và ngay cả hắn ta cũng chưa từng gặp tôi bao giờ. Cái tên chính trị gia đó, tên nghị sĩ quốc hội vô cùng kiêu ngạo đó, tên người xứ Wales đó, chính là cái tên Clive Parry-Jones, quân chữ thập trơ trọi đó, phải, thiên hạ đã nói rất hay, rất tốt về hắn nhưng thực ra hắn chỉ là một thằng đê tiện lạnh lùng có cái giọng “Ồm Ồm” hay mở miệng rao giảng về Đức Chúa thánh thiện. Tất cả những gì tôi đọc trên báo viết về tài sản của tôi đều toàn những lời dối trá.
Chính thằng khốn đó, thằng Parry-Jones nói tôi đã nhét 13 gia đình người Tây Ấn vào một phòng, không có bếp cũng chẳng có phòng tắm. Hắn kể chuột bọ rồi gián bò khắp lên mặt những đứa trẻ khi chúng ngủ. Hắn nói một con chuột đã bò lên họng một đứa bé 3 tuổi rồi cắn rách toang họng đứa bé. Hắn nói tôi đã trả tiền cho gia đình đứa bé này để bịt miệng họ, sắp xếp tổ chức một đám tang có quan tài bằng gỗ gụ tuyệt đẹp kích cỡ dành cho trẻ con và một dàn nhạc công tin vào thuyết ba ngôi nhất thể mặc áo đuôi tôm trắng, đội mũ trắng chơi những nhạc cụ bằng thép, diễu trước cỗ xe tang đi qua khu Kensal tới nghĩa trang.
Không có một thứ nào giống như chuyện này từng xảy ra.
Tôi đến đây vào tháng 12 năm 1956, từ Hungary. Tôi ở trong tình cảnh còn tồi tệ hơn cả những người da đen. Tôi là một người tị nạn và cánh cửa sắt đã đóng sầm lại ngay sau lưng tôi. Chẳng có nơi nào để đi ngoài việc tiến về phía trước, chẳng có quá khứ dành cho tôi, chỉ có tương lai. Tôi nhớ tất cả mọi thứ về cái ngày đó, tất cả mọi thứ, thằng em trai tôi đã đến gặp tôi ở sân ga và đã nói những lời xúc phạm tôi như thế nào. Tôi bước ra đường mà không hề nghe thấy ai nói thứ tiếng của tôi. Tôi đã đi lang thang suốt sáu tiếng đồng hồ, hết lên rồi lại xuống. Tôi tới bờ sông, tới những cây cầu. Chẳng ai chặn tôi lại. Chẳng ai nói với tôi một lời nào, chẳng có một lời tốt đẹp cũng chẳng có một lời cay nghiệt nào. Tôi cảm thấy cô đơn trong tâm hồn. Tôi chán nản, mệt mỏi với chuyện cuốc bộ. Tôi muốn đầu hàng. Tôi có một chiếc áo chống thấm nước mackintosh, một cái khăn quàng cổ và một cái cặp da. Tất cả chỉ có thế. Tôi trông thấy đàn ông đội mũ quả dưa còn phụ nữ thì mặc áo khoác lông thú, trông thấy một cửa hàng bán tẩu, thuốc lá sợi và xì gà, trông thấy những rạp hát. Tất cả mọi thứ đều lạnh lùng, xa lạ và mới mẻ còn tôi thì đang đói.
Cuối cùng tôi cũng nghe được thứ tiếng của mình. Người ta đưa tôi tới một nơi, một khu nhà dành cho dân tị nạn. Họ cho tôi cà phê, súp, thịt, rau và một cái giường. Vậy đó, tôi đã đến đây. London, nhà của tôi. Tôi chẳng có một ngôi nhà nào khác.
Một người nhập cư bị đối xử rất khác với một người bản xứ. Chẳng có gì hàm ơn ta, ta chẳng có chút kỳ vọng, trông đợi nào từ ai. Ta phải chộp những gì ta có thể lấy, ngay khi ta trông thấy nó. Ta không thể lượn lờ chờ đợi cơ hội. Ở tuổi tôi, dĩ nhiên là không thể làm như vậy được. Lúc đặt chân tới London, tôi đã 40 tuổi nhưng đôi mắt tôi vẫn còn rất tinh anh, nhạy bén. Tôi có thể nhận ra một cơ hội kinh doanh. Cuộc sống ở khu Eastern Bloc không thể vắt kiệt được những bản năng đó khỏi tôi. Chẳng có một trại cải tạo nào của cộng sản có thể giáo dục, làm cho tôi, Sándor Kovacs, thấm nhuần được tình yêu giai cấp vô sản và đồng bào tôi. Tôi đến đây tay trắng nhưng chỉ trong vòng vài tuần, tôi đã bắt đầu khởi nghiệp kinh doanh. Người ta ví tôi với anh em sinh đôi nhà Kray[69], những tên sát nhân, những kẻ ngu si đần độn. Bọn chúng chỉ là phường thô lỗ, cục súc thích gây đau đớn cho người khác. Hạng người đó không phải là tôi. Tôi không chấp nhận chuyện gây đau khổ cho người khác. Nó đi ngược lại những nguyên tắc của tôi. Bọn nhà Kray có tất cả mọi thứ. Chúng có gia đình. Chúng có cái mà chúng gọi là trang viên, điền sản, có hàng xóm láng giềng, nơi chúng lớn lên. Tôi chưa bao giờ có được thứ đó.
Tôi còn nhớ cái ngày khi người ta phát lệnh bắt tôi, tôi đang đi xuống phố Strand để mua vài điếu xì gà. Đó là một ngày mùa xuân đẹp trời đầy nắng, giống như bây giờ. Mặt trời tỏa nắng ấm áp lên mặt ta. Cây cối xanh tươi và bắt đầu vươn lên tràn trề nhựa sống. Tôi nhớ những ngày như thế này cách đây nhiều năm, khi ta căm ghét mặt trời vì tỏa nắng rực rỡ, căm ghét thực tế rằng nó đem lại niềm vui thích thú cho những người khác nhưng cũng phải thừa nhận là mặt trời đem lại sự vui thích thú vị cả cho ta nữa. Chính vì điều này mà ta càng thêm căm ghét nó hơn.
Tên Kovacs đang lẩn trốn ở đâu? Đây là những gì được thể hiện trên áp phích của tờ Evening Standard. Tôi phì cười. Lẩn trốn ư? Tôi cần phải trốn ở đâu nhỉ? Lũ nhà báo là một bọn dối trá bẩm sinh. Đó là hạng người giàu óc tưởng tượng. Ta còn có thể giải thích những thứ rác rưởi mà bọn chúng đăng về tôi bằng cách nào khác nữa chứ? Chúng nói tôi đang sống trong một ngôi nhà lớn có giá trị ở Buckinghamshire được canh gác bởi những con chó bec-giê Đức mồm chảy dãi nhớt được nuôi bằng những khẩu phần ăn thiếu thốn. Một tờ báo khác thì lại nói không, không phải như vậy. Tôi đang ở trong một căn hộ trên tầng mái tại Chelsea, căn hộ có một cánh cửa trước làm bằng thép. Một tờ thứ ba thì lại đặt câu hỏi “Bạn đã biết gì về tên Kovacs? Hắn ta đang chui nhủi trong hang ổ của mình là một chiếc sà lan sang trọng neo ở giữa sông, đoạn thượng lưu, đâu đó quanh Chiswick hoặc giả là Teddington Lock[70]. Nhưng dù hắn trốn ở đâu đi chăng nữa, tàu cảnh sát đặc biệt cũng đã được điều đi bắt hắn ta.”
Một đêm, trên truyền hình xuất hiện một gã mà tôi chưa từng nghe danh: Kenneth Tynan - tôi nghĩ gã này chắc hẳn là một thứ gì đó trong giới sân khấu kịch nghệ nhưng dù sao, theo lời gã nói thì gã cũng có nhiều bằng của trường đại học Oxford. Gã này cho rằng tôi chẳng sống ở đâu cả; tôi không hề tồn tại. Tôi là sản phẩm của trí tưởng tượng tầm cỡ quốc gia, giống như quái vật hồ Loch Ness.
Đây là điều bịa đặt tồi tệ nhất trong số tất cả những chuyện thêu dệt về tôi. Tôi cảm thấy tâm hồn mình quặn thắt lại khi tôi nghe thấy điều này. Tôi căm ghét gã. Cho tới tận ngày hôm nay, tôi vẫn không hiểu được tại sao một người có thể nói ra một điều dối trá đến mức vậy và đây cũng là một trong những chuyện mà tôi định sẽ nêu lên. Tôi phải tìm hiểu cho rõ ngọn ngành nguồn cơn.
Khi tôi ra khỏi tù cách đây một năm, chẳng còn người nào nhớ về tôi nữa. Một lần tôi nghe thấy trên xe buýt có một người nào đó đang bàn luận về tôi. Có phải cái tên Kovacs đó đã chết trong tù rồi phải không? Không, hắn chưa chết đâu. Hắn đào tẩu khỏi nhà tù, anh biết không, hắn đã trốn thoát giống như những tên cướp trong vụ cướp tàu hỏa lịch sử năm 1963, giống như Ronnie Biggs[71] và hắn hiện đang sống rất phong lưu vương giả ở đâu đó tại Nam Mỹ.
Tôi ước gì điều đó là sự thật.
Bởi vì sao? Vì sự thật chính là thiên hạ quên tôi. Cứ như thể tôi là một thứ đồ chơi đang mốt như lắc vòng hay quay yoyo; là thứ mà người ta gọi là một hệ tư tưởng của thời đại Zeitgeist. Đây là một danh từ tiếng Đức, thứ tiếng mà tôi đã từng biết. Như vậy là có lẽ cái gã Tynan kia cuối cùng cũng đã nói đúng ở một mức độ nào đó.
Trong khi quý vị hiện đang đọc tin tức viết về tôi, thứ mà giờ rất hiếm xuất hiện trên mặt báo, tôi chỉ là một người chủ nhà trọ ổ chuột. Những căn nhà ổ chuột mà tôi sở hữu (thứ bị gọi là ổ chuột ấy, ngày xưa, vào cái thời hoàng kim của chúng, trông rất đẹp) đã bị kéo sập và mọc lên thay thế là những căn nhà mới do chính phủ xây dựng. Hai khối bê tông cao tầng. Sự đổi mới hay ho làm sao! Với tôi, chúng trông như những cái ổ chuột ngay từ khi công nhân xây dựng đang xây chúng. Chúng là những nhà tù. Bất cứ ai đã từng ở tù đều có thể nhận ra điều đó.
Đây mới là thân phận của Vua Kovacs. Người ta nói tôi là đại diện của thứ này thứ nọ nhưng chẳng có một kẻ nào hiểu được tôi, Kovacs, là người như thế nào. Làm sao mà họ biết được chứ? Tại đây, ở cái đất Anh này, bọn họ có thứ được gọi phép tắc luật lệ, không phải là luật rừng, cái mà tôi biết. Ở đây có một chính phủ tin vào tiến bộ xã hội, vào việc cải tạo lại tâm hồn của một con người, xem đó là những thứ đảm bảo chắc chắn rằng anh ta thanh khiết và khỏe mạnh, chứ không phải tin vào việc chữa trị những ốm đau bệnh hoạn bên trong anh ta. Điều này thì chúng ta cũng đã có ở Hungary rồi, vào thời sau chiến tranh, khi phe chủ nghĩa cộng sản đến. Có điều ở đó người ta làm bằng xe tăng còn ở đây, người ta thực hiện qua những rao giảng thuyết giáo.
Bọn chúng nói, ôi, cái tên Kovacs này chẳng hề thích thú gì với chuyện đó. Hắn ta thật là lỗ mãng và cục súc. Hắn ta là một chướng ngại vật. Ta phải dẹp bỏ cái tên Kovacs đó nếu ta muốn xây dựng vùng đất thánh Jerusalem mà người ta nói tới đó, xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng này.
Người Nhật có một cái trò gấp giấy gọi là origami, thứ mà tôi đã từng có lần trông thấy. Ai đó ở trong tù đã đưa cho tôi xem. Ta gấp một tờ giấy thành bất kỳ hình thù nào mà ta thích nếu ta đủ khéo tay: một con chim, một con gấu, một con rồng. Đó là điều mà bọn họ đã cố gắng làm với tôi. Nhưng, tôi không phải là một tờ giấy, tôi là một con người bằng xương bằng thịt và có thể phải có chuyện tôi không chịu để người ta bẻ gấp mình.
Còn bây giờ là lúc nói đến vấn đề tôi là người thế nào trong cuộc sống riêng tư của mình. Tôi phải thừa nhận ngay rằng mình không thể trở thành một thằng con trai tốt hơn của bố mẹ tôi.
* * *
Tôi không có ý định ngồi chết dí cả ngày trên chiếc ghế bành của bố tôi trong căn hộ trống rỗng nghe lại những cuốn băng mà không ăn và hầu như không uống gì. Sau một quãng thời gian nhiều năm như thế, tôi không mong muốn lại nghe thấy cái giọng ùng ục trong yết hầu đó một lần nữa, cái môi dưới trề ra đang cố gắng uốn ra thành từ, tiếng cười thoải mái của bác Sándor, những lời nhạo báng chua cay của ông. Tôi nghe thấy giọng của mình cách đây 30 năm. Do tôi tưởng tượng hay đúng là âm sắc nghe có thay đổi chút ít? Thật sự hồi đó tôi đã nói như vậy sao? Thật sự hồi đó tôi đúng là người như Claude gọi, một cô nàng kẻ cả bề trên ư?
Những cuộn băng chứa đựng bằng chứng của món quà còn mãi mà bác tôi đã để lại cho tôi: quá khứ. Ông đã tặng cho tôi ký ức về ông bà mình, ngôi làng ở Zémplen, những cây mận, những vườn nho, phân ngựa ở trên đường làng, những quán cà phê ở Budapest, hình ảnh mẹ tôi ngồi với một cây gậy trong một quán cà phê ở bờ sông Danube, mái tóc nâu ôm quanh khuôn mặt bà, đôi mắt màu nho khô của bà, chiếc cằm chẻ của bà. Dù chúng đúng hay sai (nhưng thật ra tôi chẳng có lý do nào để nghi ngờ chúng) thì quá khứ này là quá khứ duy nhất mà tôi có.
Chẳng có một quá khứ nào khác.
Tôi đã dọn dẹp xong, đóng gói tất cả mọi thứ, bỏ những cuộn băng và cái máy thu âm vào một thùng giấy bìa cứng rồi rời khỏi căn hộ, khép cửa lại sau lưng. Tôi đứng chờ cánh cửa thang máy cọt kẹt mở ra, đặt cái thùng giấy lên chiếc ghế đẩu bọc da nhỏ trong lúc đợi thang máy đi xuống. Tới tiền sảnh, tôi gỡ chiếc thẻ có tên bố mẹ tôi gắn trên tấm bảng bằng đồng của hộp thư của ông bà đặt tại sảnh. Tôi tự hỏi không biết bao nhiêu lần rồi tôi mất cả cuộc đời mình để tránh né cái tòa nhà này, tòa nhà lớn bằng gạch đỏ này; cố gắng tìm một con đường khác, một hướng đi khác.
Đó là một buổi chiều muộn đầy nắng. Đồng hồ mới chỉ qua 5g30. Những cái bóng đổ dài, những tiếng còi từ đằng xa vọng lại, sự lo âu và phấn khích hiện lên trên mặt của những người qua đường. Người ta đã bắt được một kẻ khủng bố, cô có nghe tin chưa? Thành phố vẫn nóng bức, căng thẳng, hầm hập sốt. Người ta không muốn đi lại nhưng họ chẳng có một sự lựa chọn nào - dù là đi tàu điện ngầm hay đi xe buýt thì cách nào cũng gặp những rủi ro đe dọa của bọn khủng bố. Tôi đi bộ vòng sang phố Seymour, tới cửa hàng quần áo của Eunice, mang theo cái thùng. Những khách hàng cuối cùng đang điên cuồng tập trung sục sạo các giá đồ bán hạ giá. Những bóng đèn chiếu trên trần rọi xuống mái tóc của Eunice, hắt ánh sáng lân quang lên hàng mi giả của bà ấy. Tôi không biết bà ấy phải đeo cái mặt nạ ấy, gương mặt của một phụ nữ bán hàng chuyên nghiệp hết ngày này qua ngày khác như thế nào. Với bà, khách hàng lúc nào cũng đúng, thậm chí ngay cả khi cô ta rõ ràng đã sai lè lè và chiếc váy mà cô ta đang mặc thử là quá chật nhưng ta vẫn khéo léo khen nó rất hợp, rất đẹp rồi nói có lẽ ở đây có một cái khác đẹp hơn.
Tôi khâm phục Eunice vì sự kiên nhẫn, độ lượng của bà, vì cái miệng ăn nói nhẹ nhàng lịch sự, vì khả năng chịu đựng những vị khách quấy rầy làm mất thời gian, những người chỉ đến để mà nhìn ngắm chứ không mua. Nhưng có lần Eunice đã nói với tôi: “Nếu một người trẻ tuổi thử một chiếc váy áo dự tiệc rượu cocktail mà cô ấy không có khả năng mua nổi nó và dù gì đi nữa cũng không bao giờ có được một lời mời đi dự tiệc rượu cocktail thì tôi vẫn sẽ để cho cô ấy thử. Vì cô thấy đấy, ta chẳng bao giờ biết được thứ gì sẽ đến sắp tới trong cuộc đời ta. Biết đâu một ngày nào đó, cô gái lao động nghèo này có thể bước vào với một chiếc nhẫn kim cương trên ngón tay và cô ấy sẽ nhớ tới những nữ nhân viên bán hàng tử tế khi xưa đã cho cô ấy thử những chiếc váy mà cô ấy không có tiền mua nổi. Vì chính điều này mà cô ấy không cảm thấy e ngại, lo sợ trước ý nghĩ về những bữa tiệc rượu cocktail. Đây là lý do vì sao bán hàng là một cái nghề. Nhưng cần phải nói điều này cho lũ trẻ mà người ta thuê bán hàng ở phố Oxford, cái lũ chỉ biết quay đầu đi trước ánh mắt nhìn ngắm thích thú của khách hàng.”
Tôi nhìn Eunice gấp, vuốt phẳng phiu và bọc những món hàng bán được cuối cùng trong ngày. Đôi bàn tay với những móng sơn bạc vẫn còn nhanh nhẹn nhưng khi không có ai nhìn thấy, bà ấy lại xoa bóp hai cùi chỏ của mình. Tôi nhớ mẹ tôi cũng có những cử chỉ tương tự.
– Ồ vậy là cô quay lại à - bà ấy nói khi người khách cuối cùng rời khỏi cửa hàng.
– Vâng, cháu có một thứ cho cô.
– Cái gì thế này, cô có cái gì ở trong thùng thế?
– Cô có nhớ những cuộn băng mà bác Sándor và cháu đã ghi âm không?
– Cô có chúng ư? Giọng của Sándor ư?
– Vâng.
– Sándor còn sống trong những cuộn băng! Ồ, tôi sẵn sàng cho đi thật nhiều để được nghe thấy tiếng của ông ấy lần nữa, người đàn ông yêu quý.
– Tất cả chúng đều có ở đây, cả chiếc máy ghi âm nữa, có cả những gì mà bác Sándor đang viết vào cái ngày cháu gặp bác ấy trong công viên. Bút tích của chính bác ấy.
– Cảm ơn, - Eunice nói. - Thứ này rất có ý nghĩa đối với tôi.
Eunice nhìn vào đồng hồ đeo tay của mình. Gần 6 giờ rồi - bà ấy nói và đi khóa cửa. “Khoan đã, chờ tôi làm xong rồi chúng ta sẽ nói chuyện. Trông cô kìa, mệt rồi đấy, cô gái ạ. Thôi, ngồi xuống đây”. Eunice chỉ vào một chiếc ghế bọc nhung vàng có hai thành sơn mạ vàng.
– Nhưng cô mới là người mệt mỏi chứ, cô nên ngồi đi.
– Tôi sẽ ngồi khi về nhà. Đó là lúc tôi ngồi nghỉ.
– Cô có muốn cháu chỉ cho cô cách mở cái máy ghi âm này không? - tôi hỏi - Ban đầu nó có thể rắc rối đấy.
Eunice đứng cạnh quầy kiểm tra các hóa đơn của mình. “Tôi biết cách mở mà, đừng lo. Tôi biết mấy cái máy nhỏ mà. Tôi làm tất cả mọi hóa đơn tín dụng với cái máy mới. Tôi mất chưa đầy một phút để học cách sử dụng nó.
– Trưa nay, cháu đã nghe lại những cuộn băng đó - tôi nói. - Mọi chuyện kết thúc thật đột ngột. Cháu không bao giờ được nghe bác ấy giải thích cách bác ấy trở thành chủ nhà trọ như thế nào hay những gì bác ấy…
– Những gì lũ chúng nó làm đối với người đàn ông ấy là một tội ác. Cái tên thẩm phán đó, chính hắn mới là kẻ đáng ra phải vào tù.
– Nhưng ông ta…
– Ồ, lại nhưng với nhị. Đừng tin những gì cô đọc trên báo. Tôi không bao giờ thèm ghé mắt tới cái thứ rác rưởi đó. Với tôi, một người mang những vết sẹo hằn lên lưng, một người đã từng là nô lệ giống như nô lệ ở Ai Cập, nơi mà người dân Do Thái xưa kia đã cất bước rời đi, là một vị vua.
– Những người thuê nhà, bác ấy đã…
– Tôi sẽ ra sau pha một bình trà. Lát nữa quay lại, tôi sẽ kể cho cô nghe về những người thuê nhà đó.
– Để cháu giúp cô nhé?
– Không, cứ ngồi đấy. Đừng có sốt ruột. Tôi sẽ ra ngay ấy mà.
Tôi nhìn quanh cửa hàng. Eunice đã tắt các bóng đèn chiếu, khóa cửa và treo bảng đóng cửa nghỉ bán. Chỗ này là một căn phòng quá nhỏ để trải qua phần lớn cuộc đời mình làm việc tại đây. Những bức tường màu xanh lá ngả vàng nhạt đã từng rất hợp mốt khi nó mới mở cửa cách đây 50 năm. Rồi những chiếc ghế bọc nhung nhỏ, những chiếc hộp trưng bày có kính ở mặt trước, chiếc bàn đá hoa cương trên đó đặt duy nhất một bình cúc màu đồng chớm nở (loài hoa mà ngay cả khi đang phát triển cũng đã trông như thể khao khát trông đợi được hái về), những buồng thay đồ có rèm buông cùng với những cái móc để treo áo khoác, một cái giá để bày túi xách, đủ mùi hương nước hoa thời xưa vương trong không khí, sự hòa lẫn của nhiều mùi hương khác nhau tỏa ra từ da thịt của nhiều phụ nữ. Shalimar, Poison, Air du Temps, Magie Noire, Blue Grass, No. 5.
Trong suốt quãng thời gian Eunlce đã làm việc tại cái cửa hàng này với một phong cách không ngừng duyên dáng, có quá nhiều điều xảy ra với tôi, quá nhiều khúc quanh, ngã rẽ và đứt đoạn.
Tôi đã muốn được sống và tôi đã sống. Tôi đã muốn trốn thoát khỏi Benson Court và tôi đã trốn thoát được. Tôi đã ngồi ở Fountain Room của nhà hàng Fortnum and Mason[72] thưởng thức món kem nước quả. Tôi đã ngồi ở đó, tại bàn, một mình. Phía đối diện, người chồng tương lai của tôi đang nhâm nhi một tách trà Earl Grey, ngước nhìn lên khỏi tờ báo đang đọc và trông thấy tôi có một giọt kem dính ở cằm, đang xúc một trái sơ ri ngâm đường màu đỏ bỏ vào miệng và anh đã phá lên cười. Tôi chuyển sự chú ý của mình khỏi ly kem nước quả. Anh ấy đã thấy gì mà cười phá lên như thế nhỉ? Thì ra là anh ấy cười trước hình ảnh tôi chăm chú sốt sắng hết mức trong lúc dán chặt với cái món kem và hình ảnh kem dính thành một bộ ria trắng điểm những sợi lông đen trên môi trên của tôi. Một cô gái mảnh khảnh ngồi một mình trong một quán cà phê ăn ngấu nghiến một cách không ý thức món kem. “Và khi ăn xong, em lấy ra một bao nhỏ thuốc lá sợi và cuốn một điếu thuốc lá bằng hai bàn tay trông quá lớn, lớn đến mức tưởng chừng như hai cổ tay không thể đỡ nổi chúng. Rồi em xóc diêm lạch xạch trong hộp. Anh nghĩ, giờ là lúc bắt đầu câu chuyện đây.”
Bạn biết rồi đấy, cuộc đời tôi trở nên vô vị hơn tôi từng nghĩ, vì như tôi nhận thấy, cuộc sống là nhàm chán bình thường.
Tôi có một hai bài phê bình sách được đăng rồi sau đó tìm được một công việc ở một tạp chí nhỏ, dọn tới ở cùng Vic trong căn hộ của anh tại Clapham, bắt đầu ăn mặc như một phụ nữ tới tuổi 30, có đứa con đầu lòng rồi tiếp thêm một đứa nữa. Ôi những đứa con gái! Một đường cong học tập mới dốc làm sao! Chúng tôi mua một cái nhà lớn ở gần Hạ viện. Rồi sau đó, Vic - vốn làm trong lĩnh vực thiết kế phần mềm trước khi tất cả mọi người hiểu được những từ chỉ nghề này nghĩa là gì - có một công việc ở Mỹ. Chúng tôi ở St Louis 5 năm. Tôi viết vài cuốn sách cho thiếu nhi khá thành công. Sách vẫn đang tiếp tục được in. Vài tháng một lần, tôi vào trang mạng Amazon để kiểm tra xem thứ hạng bán chạy của chúng như thế nào. Vic được trả một khoản lớn khi công ty của anh được Microsoft mua lại và chúng tôi dọn tới Deya, tới ngôi làng lởm chởm núi đá trên đảo Mallorca, để thực hiện giấc mơ của anh là mở một nhà hàng. Vic yêu việc nấu nướng.
Đó là một cuộc sống vui vẻ hạnh phúc dù có gián đoạn bởi hai lần ngoài chồng ngoài vợ, một lần của anh ấy và một lần của tôi. Nhưng rồi ta cũng vượt qua được chuyện đó. Rồi, một bữa trưa Vic bị lên cơn đau tim khi đang lấy một cái khay đựng thịt cừu từ trong lò ra: mỡ từ cái khay kim loại rơi xuống giày của anh. Lúc xe cứu thương từ thành phố đến được tới nơi thì anh đã chết rồi. Vậy là hết.
Tôi bán nhà hàng và quay trở lại London cách đây 8 tháng. Sự thật là tôi đã để cho mình sống tự do thoải mái chẳng ràng buộc gì. Hai đứa con gái của tôi nói về chuyện này luôn. Chúng - những cô gái người Anh, da trắng, múp míp, chẳng có những nỗi lo âu và những điều nghi ngờ không chắc chắn như tôi - đã sống trọn cuộc đời của mình xuyên biên giới mà không gặp khó khăn trở ngại gì. Tôi ngắm chúng ăn mặc, tôi thấy sự chọn lựa của chúng khi chúng đứng ngắm mình trước gương. Chúng đã qua cái thời mới lớn, độ tuổi mà chúng phải ăn mặc giống chính xác những gì lũ bạn đang mặc: quần jeans hở bụng. Chúng lớn lên mỗi lúc một tự tin hơn và bắt đầu khẳng định mình. Lillian và Rose, mỗi đứa theo một hướng hơi khác nhau, mỗi đứa theo đuổi những điều lớn lao không đáng kể của riêng chúng.
Quần áo ta mặc là một phép biến đổi hình dáng. Chúng thay đổi ta từ trong ra ngoài. Tất cả chúng ta ai ai cũng đều bị mắc kẹt trong thân hình với hai bắp chân thô, hai bầu vú chảy xệ đung đưa, bộ ngực cháy nắng hay quai hàm dưới rũ xuống. Hàng triệu thứ không hoàn hảo làm hoen ố hình ảnh chúng ta. Có những tỳ vết, khiếm khuyết rất nặng mà chúng ta chẳng thể tự do làm gì được với chúng ngoại trừ chấp nhận dao kéo phẫu thuật. Vì vậy, điều tốt nhất mà ta có thể làm được là khoác lên một bộ cánh mới, một cái cà vạt khác. Chúng ta đang vĩnh viễn biến thành một con người khác và sẽ không bao giờ quên được rằng ai đó vẫn luôn luôn nhìn ngắm mình.
Eunice quay trở lại cùng với một cái khay, một bình trà bằng sứ, tách và đĩa lót tách, một chén đường và một bình sữa. “Tôi hi vọng là cô không mong có bánh bích quy” - bà ấy nói. - “Tôi chỉ ăn những món ngọt khi tôi đi ăn bên ngoài ở nhà hàng ngon. Sándor trước đây hay dẫn tôi đến một vài nơi thật đáng yêu có xe đẩy phục vụ những món ngọt tới tận bàn để mình chọn thứ mình muốn. Thôi, còn bây giờ thì kể cho tôi nghe xem chuyện gì đã xảy đến với cô nào?”
– Thì cháu đã kể với cô rồi đấy thôi.
– Ồ, tôi biết cái quán cà phê đó ở Tây Ban Nha, nơi tất cả những người giàu có hay lui tới. Tôi đọc thấy điều đó trên báo. Ý tôi muốn hỏi vì sao mà cô lại trốn chạy khỏi đó nhanh đến thế?
– Ý cô là sao cơ?
– Sao cô không ở lại căn nhà đó và thu tiền cho thuê nhà của Sándor giúp ông ấy? Sao cô lại để mọi thứ thành hoang phế, xuống cấp xập xệ như vậy cho đến khi chẳng còn thứ gì sót lại, cho đến khi những căn nhà đó trở lại thành nhà ổ chuột giống như khi ông ấy mua chúng rồi dành tất cả thời gian và tiền bạc để biến chúng thành đẹp đẽ?
– Chuyện đó thì có liên quan gì tới cháu đâu?
– Cô được thừa kế tất cả mọi thứ, có phải không nào? Cô là cháu của ông ấy.
– Không, cháu không thừa kế.
– Thế thì ai?
– Bố cháu.
– Ôi là ông ấy ư! Thế thì tại sao ông ấy không tiếp tục công việc kinh doanh?
Tôi mỉm cười trước ý nghĩ bố tôi đeo một cái cặp da trên vai, gõ cửa tất cả những con người xa lạ ấy, hô tên họ lên nếu họ chậm trả tiền thuê nhà.
– Bố cháu không phải là kiểu người của kinh doanh, ông chẳng bao giờ có đầu óc tính toán tiền bạc và ông chắc chắn cũng chẳng có một kỹ năng xã hội.
– Quả đúng là như vậy, - Eunice đồng tình. - Phải, phải. Tôi cũng nhớ thế.
Bà ấy ném vào tôi một cái nhìn sắc lẹm nhức nhối với đôi mắt già nua. “Nhưng chẳng nhẽ bố cô không muốn có tiền sao?”
– Không ạ. Ông sẽ không đụng tới nó.
– Thật là một chuyện tai quái. Sao ông bố của cô lại không từ chối nhận gia tài thừa kế của anh trai mình?
– Bố cháu nghĩ nó đã bị ô uế nhơ nhớp. Ông không tin vào chuyện vi phạm pháp luật vì bất cứ lý do gì.
– Còn cô thì nghĩ sao?
– Về cái gì ạ?
– Về chuyện vi phạm pháp luật ấy?
– Cháu không quan tâm nhiều đến pháp luật nhưng cháu vẫn còn nghĩ về những người thuê nhà.
– Ồ, phải rồi, nhắc tới mấy người thuê nhà đó tôi mới nói. Chà, cô có biết không, một vài người trong số đó sống một cuộc sống thật kinh khủng tồi tệ hồi còn ở Jamaica quê nhà họ. Họ chẳng bao giờ biết tới có nhà vệ sinh ở trong nhà, bồn rửa bát hay bất cứ thứ gì như thế. Và khi họ đến đây, họ làm những người đáng kính phải thức dậy vào lúc nửa đêm vì những tiếng ồn những tiệc tùng của họ. Một số người trong bọn họ không muốn làm việc; họ chỉ nằm ườn ra và hút bồ đà cả ngày rồi gây sự. Tôi nghĩ thỉnh thoảng hút tí cần sa cũng chẳng có gì là sai trái cả nhưng sau đó thì có nhiều thứ hệ lụy kéo theo. Và những người đàng hoàng tử tế sinh ra ở đó buộc phải giữ con cái họ tránh xa những người thuê nhà vô công rỗi nghề đến từ Jamaica. Những người này đã làm hư hỏng mấy đứa trẻ ngoan.
– Có phải đó là điều đã xảy ra với con trai cô không? - tôi hỏi Eunice.
– Điều gì?
– Con trai cô ấy. Có phải cậu ấy đã bị những người kia làm cho tiêm nhiễm hư hỏng?
– Nó chết rồi, - bà ấy đáp cụt lủn và uống trà như thể đang cố nhấn chìm đứa con trai ở bên trong mình.
– Cháu rất tiếc.
– Vì sao thế? Sao cô phải lấy làm tiếc?
– Thật là kinh khủng khi người mẹ mất đi đứa con của mình.
Eunice nhún vai. “Chết là chết thôi”.
– Thế con trai cô mất khi nào?
– Cách đây cũng không lâu.
– Bố của cậu ấy là ai vậy? - Tôi hỏi Eunice, cảm thấy như mình đang bước vào một nơi trong cuộc đời của bà ấy, một nơi bị che giấu khuất sau bộ đồ, mái tóc cài trâm và hàng lông mi giả, kín bưng đến nỗi nó dường như giống như một màn đêm đen đặc không thể xuyên qua được.
– Cô muốn biết điều đó ư? - Eunice nói - Muốn biết nhất trong số tất cả bao nhiêu điều muốn hỏi! - Bà ấy bật cười. Tôi nghĩ trước đây mình chưa nghe thấy Eunice cười thành những âm thanh kiểu như thế này bao giờ, tiếng cười rúc rích khùng khục trong cổ họng.
Tôi đợi một lúc để xem bà ấy kể cho mình nghe nhưng rõ ràng là cuối cùng tôi đã khiến Eunice trở nên câm lặng vì tất cả những gì bà ấy làm là uống cạn tách trà của mình rồi nhìn ra ngoài cửa sổ, ngó những người khách qua đường, một dòng người đang đổ về hướng nam tới ga điện ngầm, trông ai nấy đều bất lực và yếu ớt trong nhũng chiếc váy và đầm mùa hè - những bộ đồ vải mỏng, trong những đôi xăng-đan bám lỏng lẻo vào chân, trong dáng điệu lướt qua êm nhẹ, gần như thể là đang trôi bồng bềnh và bốc hơi khi đi vào đám hơi ẩm của buổi đầu hôm.
Eunice tiếp tục uống trà trong câm lặng, - giữa đôi mắt bà ấy hiện lên một đường lằn và đầu gục xuống trong khi chiếc tách đã trống trơn hết nhẵn. Đó cũng chính là cử chỉ mà tôi đã thấy ở bà ấy vào buổi sáng, qua lớp kính của cửa hàng. Eunice ngồi đó, chống một tay dưới cằm để cố nâng nó lên.
– Là Jerome, - Eunice đột ngột cất lời. - Đã lâu lắm rồi tôi không nghĩ tới anh ta.
Tôi chờ đợi bà ấy thổ lộ thêm.
– Ừ thì, cô biết không, chuyện đó xảy ra thời chiến tranh. Lúc đó, tôi là một cô gái trẻ sống ở Cardiff và dĩ nhiên là có rất nhiều người Mỹ. Binh lính Mỹ ấy. Vậy là một tối, tôi gặp Jerome tại sàn nhảy. Tôi nhớ lúc ấy mình mặc một chiếc áo đầm màu thiên thanh với chân váy ren mà tôi đã tự mình may lấy bằng những mẩu vải mà tôi đã góp nhặt chỗ này chỗ kia vì thời chiến thì làm gì mà có thể kiếm được nhiều. Và Jerome đã dạy tôi cách nhảy điệu mới nhất đến từ Mỹ, điệu vũ mà họ gọi là Lindy Hop. Ông ấy đến ngay chỗ tôi và chọn tôi làm bạn nhảy vì tôi đang mặc một chiếc áo váy quá sức là xinh đẹp so với tất cả các cô gái khác có trong phòng, những người trông thật là buồn tẻ. Ông ấy đi ra nước ngoài nhưng ơn Chúa là ông ấy không bị chết trận và ông ấy trở lại. Và thế là chúng tôi cưới nhau và tôi dọn đến sống cùng ông ấy ở Mississippi. Nhưng mọi thứ hoàn toàn không như những gì mà tôi trông đợi. Cuộc sống đó không phải là thứ mà tôi quen thuộc.
– Không quen như thế nào ạ? - tôi hỏi. Vậy là Eunice đã từng ở Mỹ. Thế mà tôi cứ nghĩ bà ấy chưa một lần nào rời khỏi những bờ biển này.
– Tôi không biết ở đó có những ngôi nhà không có nhà vệ sinh ở trong; còn lợn và chó thì ở khắp mọi nơi. Và tôi cũng không biết về người da trắng - những người hay nhìn ta như thể ta không phải là con người mà có họ hàng với lũ lợn và chó kia. Trước khi tôi đến Mỹ, chưa có người nào đánh tôi. Đánh bằng chổi bằng xích mà người ta dùng để xích chó. Tôi phải chạy trốn cùng với đứa con còn đỏ hỏn của mình. Mọi thứ với tôi lúc đó thật là khắc nghiệt. Tôi phải một mình một nách tự xoay xở, cố gắng xây dựng một cuộc sống đàng hoàng với một đứa con trai không có cha và từ bỏ tất cả mọi cám dỗ. Tôi không biết vì sao chuyện đó lại xảy ra. Thằng bé là một đứa trẻ mũm mĩm đáng yêu nhưng nó đã trở thành một thanh niên trẻ gầy còm có đôi mắt ở trên đầu thấy tất cả mọi thứ nhưng chẳng hiểu được chuyện gì. Chuyện tôi đã gặp gỡ Sándor như thế nào cũng là từ đó. Tôi đã gặp ông ấy khi tôi đi thăm nuôi thằng con trai và tôi đã đứng xếp hàng cùng với Mickey Elf. Tội nghiệp Sándor, ông ấy chẳng có ai tới thăm ngoại trừ cái anh chàng Mickey Elf. Và thế là chúng tôi làm quen và cuối cùng thì chính ông ấy mới là người mà tôi đến thăm chứ không phải thằng con trai của tôi vì nó không còn muốn biết gì thêm về tôi.
“Phải mất nhiều năm làm việc sau quầy tính tiền tôi mới có được công việc này trong cái cửa hàng đáng yêu này. Và tôi nhớ, trong khi tôi đang đóng cửa hàng vào đêm hôm đó, cái ngày mà Sándor ra khỏi tù, ông ấy đã đợi tôi ở bên ngoài, trên vỉa hè. Ông ấy ngồi ở quán cà phê đối diện, ngồi chỉ để đợi mà thôi. Và rồi, ông ấy bước đến cùng với một bó hoa hồng và cúi chào. Ông ấy đã cúi người trước tôi. Cúi người để đối xử với một người như tôi giống như với một nữ hoàng trong lúc cô ta bị đánh đập và bị thiên hạ ngoài đường nhìn như thể cô ta không phải là người! Cô có hiểu không? Đây là phẩm giá, đây là sự tôn trọng.
– Vâng, cháu hiểu.
– Hiểu ư? Tôi chưa bao giờ nghĩ là cô hiểu được điều đó.
– Cháu không phải là kẻ thù của cô, Eunice. Cháu lúc đó chỉ là một cô gái trẻ chưa chín chắn, bị mất mát, cô đơn và không thể tìm thấy lối đi cho cuộc đời mình.
– Ái chà, nhưng với tôi, cô dường như là biết chính xác điều mình muốn là gì với tất cả những âm mưu kế hoạch.
Tôi đứng dậy và bưng chiếc khay đựng những chiếc tách trà đã uống hết lên. “Để cháu giúp cô thu dọn” - tôi nói.
Eunice gật đầu vội vàng. Đằng sau bức màn có một căn phòng nhỏ để một ấm nước, một bồn rửa bát, các hóa đơn và hàng tồn kho. Một bó nhỏ hoa păng-xê có cuống ngắn đuợc cắm trong một cái bình nhỏ đặt trên một cái khăn lót ren.
– Cái gì thế này? - tôi vừa nói vừa cầm một tấm ảnh được lồng khung.
Eunice trông hoảng sợ.
– Đừng nói với ai về thứ đó, - bà ấy nói. - Tôi có thể phải đi tù đấy.
– Nó được cắt ra từ trong một cuốn sách, có phải không ạ?
– Cuốn sách đó ở thư viện. Tôi đem nó về nhà và tôi thấy bức hình này. Tôi lấy một cái kéo và nghĩ sẽ không có ai chú ý phát hiện ra. Làm hư hỏng một cuốn sách mượn từ thư viện là một tội nghiêm trọng có phải không?
Tôi nhìn bức hình. Hiện lên trong đó là một hàng dài những người đàn ông đội mũ, mặc áo veston cài chéo và quần gấu lơ vê, mang xách va li, túi du lịch, cặp táp và túi đeo vai bằng da. Một hai người trong số họ đeo mắt kính màu giữa lúc trời chắc hẳn là nắng chói chang vì bóng của họ đổ dài xuống đường. Bác tôi đã bước về phía người thợ chụp ảnh và đang mỉm cười. Cá