← Quay lại trang sách

Chương XIII Người đánh xe của Ilderim

Tộc trưởng Ilderim là người có địa vị quá quan trọng đến nỗi không thể đi đâu mà không có cả bầu đoàn theo cùng. Ông được tiếng là luôn đồng hành cùng với bộ tộc, nhờ thế mà trở thành một ông hoàng và tộc trưởng có nhiều người hộ tống nhất trên khắp sa mạc phía Đông Syria. Đối với những người dân trong thành phố, ông lại nổi tiếng là một trong những người giàu nhất mà không thuộc dòng dõi hoàng gia ở phương Đông. Vì giàu có – không chỉ tiền bạc mà còn có vô số người hầu, lạc đà, ngựa, và đủ thứ gia súc – nên ông cũng có phần ưa thích lối sống hào nhoáng không những giúp ông được thoải mái hơn mà còn khiến người khác phải kính nể. Bạn đọc cũng không nên hiểu lầm khi tôi nhiều lần nhắc tới căn lều của ông ở vườn Cọ. Ông thực sự sở hữu một cơ ngơi đáng nể, trong đó riêng ông có ba căn lều lớn, một dành cho chính ông, một dành cho khách, một dành cho người vợ được ông sủng ái nhất cùng các nữ tì. Sáu đến tám căn lều nhỏ hơn là nơi ở của người hầu và những vệ sĩ của ông – những người cực kì dũng cảm, bắn cung, dùng giáo và cưỡi ngựa thiện nghệ.

Hiển nhiên là lãnh địa của ông ở vườn Cọ không phải đối mặt với bất kì mối nguy nào; thế nhưng theo thói quen của một người thường xuyên đi đến cả những nơi hoang vu lẫn những thành phố sầm uất và cũng vì buông lỏng kỉ luật chẳng bao giờ là một ý hay, bên trong căn lều của ông cũng ngăn chỗ cho bò, lạc đà, dê và những tài sản có thể thu hút bọn trộm cướp hay một con sư tử.

Công bằng mà nói, Ilderim duy trì nghiêm ngặt tất cả các tục lệ của dân tộc mình mà không bỏ qua một nghi lễ nào dù là nhỏ nhất. Kết quả là cuộc sống của ông trong vườn Cọ chỉ là sự tiếp diễn của lối sống ngoài sa mạc; dù không đơn độc như vậy, nhưng nó mang những nét điển hình của chế độ tộc trưởng xưa kia – lối sống du mục đích thực của những người Israel nguyên thủy.

Vào buổi sáng khi đoàn người lần đầu đặt chân đến vườn Cọ, ông nói “Hãy hạ trại ở đây,” rồi dùng ngựa lại, cắm một ngọn giáo xuống làm mốc. “Cửa xoay về phía Nam hướng ra hồ; và những người con của sa mạc hãy ngồi dưới những tán cây kia chờ mặt trời lặn.”

Nói xong ông tiến tới một cụm ba cây cọ mọc chụm vào nhau, vỗ lên thân cây như thể vuốt ve một con ngựa hay gò má của đứa con yêu.

Ngoài vị tộc trưởng thì ai có quyền ra lệnh “Dừng lại!” hay hạ trại ở đâu? Cây giáo được nhổ lên khỏi mặt đất, và từ vết thương nó để lại trên mặt đất, người ta dựng lên cây cột của căn lều đầu tiên, đánh dấu điểm giữa của trước. Sau đó người ta trồng thêm tám cột khác để tạo thành ba hàng, mỗi hàng ba cột. Tiếp theo, những người phụ nữ và lũ trẻ mở những tấm bạt gấp trên lung lạc đà. Ai có thể làm được việc này nếu không phải những người phụ nữ? Chẳng phải chính họ đã gọt lông những con cừu nâu mang theo và xe thành sợi, dệt thành vải, khâu chúng vào nhau thành mái lều hoàn hảo, dù có màu nâu nhưng nhìn xa thì đen thẫm như những căn lều của Kedar? Cuối cùng, họ cùng nhau cười đùa và kéo tấm bạt theo lệnh của vị tộc trưởng từ cột này sang cột kia, buộc lại bằng dây cho chắc. Sau khi những bức tường làm bằng thảm cói đã được đặt vào vị trí – bước cuối cùng để hoàn thành một căn lều theo kiểu đặc trưng của những người con của sa mạc – họ bồn chồn chờ đợi nhận xét của vị tộc trưởng sáng suốt. Ông đi ra đi vào vài lần, nhìn ngắm xem căn nhà đã hài hòa với ánh mặt trời, những rặng cây và cái hồ hay chưa, rồi hồ hởi xoa tay vào nhau và chân thành nói, “Tốt lắm! Hãy dụng nốt những căn lều theo cách mà mọi người đã quen và tối nay chúng ta sẽ dùng bánh mỳ với rượu arrack ngọt ngào, dùng sữa với mật ong. Trước mỗi ngọn lửa sẽ có một đứa trẻ. Cầu xin Chúa đồng hành cùng với các con! Chúng ta sẽ không phải thiếu nước nữa, vì cái hồ chính là miệng giếng của chúng ta; chúng ta cùng đàn gia súc cũng sẽ không còn phải chịu đựng cơn đói, vì nơi đây tràn ngập cỏ non xanh tốt. Chúa đồng hành cùng với tất cả! Hãy đi đi.”

78

Những con người vui vẻ vừa reo hò vừa chạy đi dựng lều cho bản thân mình. Vài người nán lại sắp xếp đồ đạc bên trong căn lều cho vị tộc trưởng. Họ treo một tấm rèm ở hàng cột giữa chia căn lều ra làm đôi; phòng bên phải dành riêng cho Ilderim, phòng bên trái dành cho những con ngựa quý của ông – những viên ngọc của Solomon – mà sau khi đưa vào, họ vuốt ve và ôm hôn chúng, tháo dây để chúng được tự do. Họ dựng giá để vũ khí trên cây cột ở giữa, xếp lên đó những cây thương và giáo, cung tên, và cả khiên nữa, họ treo thanh gươm của chủ nhân vốn được rèn theo hình trăng lưỡi liềm bên cạnh, lưỡi gươm bằng thép sáng lòa không kém gì những viên ngọc nạm trên chuôi kiếm. Họ treo các trang phục dành cho ngựa cũng lộng lẫy không kém gì dành cho người hầu của nhà vua ở một đầu cái giá, còn treo y phục của vị tộc trưởng đáng kính ở đầu bên kia – chiếc những chiếc áo dài bằng bông và bằng vải lanh, áo cộc và quần dài, cùng với những tấm khăn đội đầu đủ màu sắc. Họ làm việc không ngừng tay cho tới khi ông đã hoàn toàn hài lòng. Sau đó chỉ còn việc đổ đầy nước vào những cái bình, và treo những bình da đựng rượu arrack sẵn sàng cho ngày mai. Ngay cả một người Arab cũng không thấy có lí do gì để Ilderim không thể vừa vui vẻ vừa hào phóng – trong căn lều của ông cạnh cái hồ nước ngọt, dưới bóng râm của những cây cọ.

79

Chúng ta đã rời Ben-Hur trước cửa căn lều đó.

Những người hầu đã chờ sẵn lệnh của chủ nhân. Một trong số họ cởi xăng đan cho ông; một người nữa cởi đôi giày La Mã của Ben-Hur; sau đó cả hai đổi y phục bám đầy cát bụi của mình sang những bộ quần áo trắng bằng vải lanh.

“Xin hãy vào đây, nhân danh Chúa, và nghỉ ngơi,” vị tộc trưởng nồng nhiệt nói bằng thứ phương ngữ vốn phổ biến trong các khu chợ ở Jerusalem. Ông dẫn Ben-Hur tới chỗ chiếc pan.

“Tôi sẽ ngồi ở đây,” ông nói và chỉ tay, “còn người này sẽ ngồi ở kia.”

Một người phụ nữ – theo cách gọi thời xưa là một nô tì – vâng lời, khéo léo sắp xếp những chiếc gối dựa và gối dài. Sau đó hai người ngồi lên chiếc pan, trong khi những người hầu mang tới nước mát từ dưới hồ, rửa chân cho họ và lau khô bằng khăn.

“Ở chốn sa mạc chúng tôi có một câu nói rằng…” Ilderim cất lời, những ngón tay nhỏ vuốt bộ râu dài, “...khẩu vị hứa hẹn một cuộc sống dài lâu. Anh có ăn ngon miệng không?”

“Thưa tộc trưởng, theo giới luật đó thì có lẽ tôi phải sống đến một trăm tuổi mất. Tôi giống như một con chó sói đói bụng trước cửa lều của ngài vậy,” Ben-Hur đáp.

“Vậy thì anh sẽ không bị xua đi như một con sói đâu. Tôi sẽ thết đãi anh con dê đẹp nhất trong đàn.”

Ilderim vỗ tay.

80

“Hãy tìm người đang ở trong lều dành cho khách và nói rằng ta, Ilderim, muốn chúc ông ấy sẽ được hưởng phước lành dồi dào như dòng nước chảy.”

Người hầu cận củi mình.

“Hãy nói thêm,” Ilderim nói tiếp, “rằng ta đã trở về với một người nữa để dự tiệc và nếu Balthasar thông thái muốn chia bánh mỳ với ta, bữa tiệc sẽ được dọn cho ba người, trong khi phần ăn của lũ chim sẽ không bớt đi chút nào.”

Người hầu thứ hai ra đi.

“Chúng ta hãy cùng nghỉ ngơi.”

Ilderim ngồi lên chiếc pan, giống như các lái buôn ngày nay vẫn ngồi trên những tấm thảm trong những cửa hiệu ở Damascus; và khi đã thật thoải mái, ông ngừng vuốt râu mà nghiêm trang nói, “Anh đã là khách của tôi, đã uống leben của tôi, và sắp sửa được nếm muối của tôi, vậy thì xin thứ lỗi cho tôi được hỏi: Anh là ai?”

“Thưa tộc trưởng Ilderim,” Ben-Hur nói, bình tĩnh đáp lại ánh nhìn của ông, “Tôi mong ngài đừng cho rằng tôi đang cố ý không trả lời ngài. Nhưng trong cuộc đời ngài hẳn đã có lúc trả lời câu hỏi đó chính là phạm một tội ác với bản thân mình?”

“Thề có Solomon vinh quang, đúng vậy!” Ilderim trả lời, “Phản bội chính mình đôi khi cũng tồi tệ không kém gì phản bội cả bộ tộc.”

“Xin cảm tạ, thưa tộc trưởng cao quý!” Ben-Hur thốt lên.

“Những lời của ngài quả là vô cùng chí lý. Giờ thì tôi biết ngài muốn chắc chắn rằng tôi xứng đáng với sự tin tưởng từ ngài mà tôi đang khẩn cầu đây, và sự chắc chắn ấy với tôi còn đáng quý hơn cả những việc trong cuộc đời khốn khó của mình.”

Vị tộc trưởng cúi mình đáp lại, trong khi Ben-Hur vội vã tiếp tục tận dụng lợi thế của mình.

“Tôi mong rằng ngài sẽ lấy làm hài lòng,” anh nói, “trước tiên, tôi không phải là một người La Mã như cái tên của tôi.”

Ilderim vuốt bộ râu buông dài xuống ngực, nhìn vào người đang nói chuyện với mình với đôi mắt sáng ẩn dưới hàng lông mày rậm.

“Thứ hai,” Ben-Hur nói tiếp, “Tôi là một người Israel thuộc bộ tộc Judah.”

Vị tộc trưởng hơi nhướng mày.

“Không chỉ có vậy, thưa tộc trưởng, tôi là một người Do Thái mang mối thù không đội trời chung với Rome, và mối thù của ngài khi so sánh với của tôi thì nó chỉ giống như trò trẻ con vậy.”

Ông già vội vã vuốt râu với vẻ lo lắng, cái trán nhăn lại đến nỗi không còn nhìn thấy đôi mắt sáng nữa.

“Hơn thế nữa, tôi xin thề với ngài, thưa tộc trưởng Ilderim – tôi xin thề trên giới luật mà Chúa đã đặt ra cùng với tổ tiên của tôi – rằng nếu ngài giúp tôi trả mối thù của mình, số tiền thưởng và vinh quang của cuộc đua sẽ thuộc về ngài.”

Trán Ilderim giãn ra. Ông ngẩng đầu lên, gương mặt trở nên rạng rỡ, và người ta gần như có thể thấy rõ ông đang vô cùng hài lòng.

“Đủ rồi!” ông nói. “Nếu ở cuống họng anh đang chực chờ một lời nói dối thì đến Solomon sáng suốt cũng không thoát nổi. Tôi tin rằng anh không phải là một người La Mã mà là một người Do Thái đang muốn trả mối thù sâu nặng với Rome; như vậy là đủ. Nhưng còn về tài năng của anh. Anh đã có kinh nghiệm gì trong môn đua xe ngựa chưa? Và những con ngựa – anh có thể khiến chúng tuân phục mình hay không? Khiến chúng thấu hiểu anh? Khiến chúng đi đến mỗi khi anh gọi? Khiến chúng chạy khi anh dồn sức ra lệnh? Và sau đó, liệu trong khoảnh khắc nguy nan nhất, liệu anh có thể khiến chúng nỗ lực tới hết khả năng hay không? Món quà đó không dành cho tất cả mọi người, chàng trai trẻ ạ. Ôi, hỡi Chúa vinh quang! Tôi từng quen một vị vua trị vì hàng triệu người, là chủ nhân thực sự của họ, nhưng vẫn không tài nào khiến một con ngựa nghe lời mình. Hãy nhớ rằng ở đây tôi không nói đến giống ngựa đần độn sinh ra chỉ để làm nô lệ của dân nô lệ – thứ có dòng máu và hình tượng thấp kém, còn trong linh hồn thì trống rỗng; mà tôi đang nói tới những con ngựa của tôi ở đây những vị vua trong giống loài của mình; thuộc dòng giống từ thời Pharaoh đầu tiên. Chúng giống như những người bạn thân thiết của tôi, sống trong cùng lều và thời gian đã khiến chúng trở nên đồng điệu với tôi; những con ngựa mà bản năng đã kết hợp với trí thông minh của chúng ta, những giác quan đã nối liền với linh hồn ta, đến nỗi chúng hiểu hết những tham vọng yêu, ghét, và sự căm thù của ta; trên chiến trường chúng là những người hùng; về sự chung thủy, chúng không thua kém bất kì người phụ nữ nào. Hãy nhìn kìa!”

Một người hầu tiến lên.

“Hãy đưa những con ngựa Arab của ta ra đây!”

Người đó kéo tấm rèm ngăn đôi căn lều để lộ ra bốn con ngựa. Chúng đứng ngập ngừng ở đó như thể để chắc chắn người ta đang mời mình bước sang.

“Đến đây nào!” Ilderim nói với chúng. “Sao các con lại đứng đó? Mọi thứ của ta cũng là của các con. Đến đây nào!”

Chúng từ từ bước vào.

“Hỡi người con của Israel,” người chủ của chúng nói, “Moses của các anh là một con người thần thánh, nhưng – ha, ha, ha! – tôi lấy làm buồn cười khi nghĩ đến chuyện ông ấy đã buộc tổ tiên của các anh chỉ được sử dụng những con bò và loài lừa ngu ngốc chậm chạp mà cấm họ sở hữu ngựa. Ha, ha, ha! Anh thử nghĩ xem liệu ông ấy có làm thế nếu được nhìn thấy con ngựa kia, và cả con này nữa?” Ông vừa nói vừa đặt tay lên mặt của con ngựa đầu tiên tiến tới chỗ ông, vỗ về nó với vẻ tự hào và sự dịu dàng không gì sánh nổi.

“Đó là một sự hiểu lầm, thưa tộc trưởng, một sự hiểu lầm thôi,” Ben-Hur nồng nhiệt nói. “Mose ngoài việc là một nhà lập pháp được Chúa tin tưởng còn là một chiến binh và một khi đã đi theo binh nghiệp – làm sao Người lại không yêu quý những con tuấn mã này – bên cạnh mọi giống vật khác?”

Con ngựa có cái đầu tuyệt đẹp, đôi mắt lớn hiền dịu như mắt hươu ẩn sau túm lông trán dày, đôi tai nhỏ và nhọn hướng về phía trước. Nó tiến tới áp mặt vào ngực anh, lỗ mũi mở rộng, môi trên mấp máy. “Anh là ai?” Câu hỏi của con ngựa cũng rõ ràng không khác gì nói bằng ngôn ngữ của con người. Ben-Hur nhận ra đây chính là một trong bốn con ngựa đua mà anh đã bắt gặp ngoài trường đấu, xòe tay vuốt ve con vật tuyệt đẹp.

“Những kẻ báng bổ sẽ nói với anh khác hẳn! Cầu mong số lượng của chúng giảm bớt và tuổi thọ của chúng ngắn đi!” Vị tộc trưởng nói với vẻ tức tối hệt như để đáp lại một lời sỉ nhục nhắm tới bản thân mình. “Chúng sẽ nói với anh rằng những con ngựa giống tốt nhất đến từ những đồng cỏ Nesaean ở Ba Tư. Chúa đã ban cho người Arab đầu tiên một vùng đất chỉ toàn cát với những trái núi trơ trụi, đây đó mới có một miệng giếng đắng ngắt. Rồi Người nói với anh ta, ‘Đây là đất nước của con!’ Khi người ấy phàn nàn, đấng tối cao thương hại anh và đáp lại, ‘Hãy vui lên! Vì ta sẽ ban phước cho con nhiều gấp đôi những người khác.’ Người Arab nghe lời Chúa, cảm tạ Người, vững tin đi tìm phước lành Chúa ban. Anh đi dọc vùng biên giới nhưng không tìm được gì; sau đó anh tiến thẳng vào sa mạc, cứ đi mãi không dừng chân – để rồi ở anh tìm thấy một ốc đảo xanh tươi nơi hoang vu nhất. Trên hòn đảo đó là một đàn lạc đà và một đàn ngựa! Anh sung sướng nhận lấy chúng và chăm sóc sao cho xứng đáng với vị thế của chúng là món quà quý giá nhất của Chúa. Ốc đảo xanh tươi đó sinh ra loài ngựa trên khắp thế gian; thậm chí chúng đã đi đến tận những đồng cỏ Nesaea; về phía Bắc chúng đã đặt chân tới những thung lũng đáng sợ luôn luôn phải hứng chịu những cơn gió dữ dội từ biển lạnh giá. Xin đừng nghi ngờ câu chuyện này; nếu anh nghi ngờ thì chẳng khác nào mọi bùa phép chẳng còn thiêng liêng gì với một người Arab. Tôi sẽ chứng minh cho anh thấy.”

Ông vỗ tay.

“Hãy mang tới cho ta gia phả của bộ tộc,” ông nói với người hầu.

Vị tộc trưởng chơi đùa với những con ngựa trong khi chờ đợi, ông vuốt ve má chúng, dùng những ngón tay chải những túm lông trên đầu, ôn lại những kỉ niệm với từng con. Một lúc sau sáu người xuất hiện với sáu chiếc hòm bằng gỗ cây tùng được gia cố bằng những dải đồng, các bản lề và chốt cũng bằng đồng.

“Không,” Ilderim nói khi bọn họ đã đặt chúng xuống cạnh chiếc pan, “Ta không cần mang ra toàn bộ gia phả mà chỉ muốn xem các ghi chép về những con ngựa này mà thôi – là cái hòm đó. Hãy mở nó ra và cất những hòm còn lại đi.”

Chiếc hòm được mở ra để lộ những tấm bảng bằng ngà voi xâu với nhau bằng dây bạc; và vì mỗi tấm bảng đều mỏng dính như bánh tráng mỗi cái vòng lại xâu vài tấm bảng một lúc.

“Tôi biết,” Ilderim nói, tay cầm lấy vài chiếc vòng – “Tôi biết những thư kí trong đền thờ ở Thành phố Thiêng liêng vẫn cẩn thận ghi chép tỉ mỉ tên tuổi những đứa trẻ mới sinh, để mỗi người con của đất Israel đều có thể lần ra tới tận cùng nguồn gốc dòng họ mình dù nó còn lâu đời hơn là những vị tộc trưởng đi chăng nữa. Cha tôi – cầu mong cho những kỉ niệm về ông sẽ sống mãi! – không cho rằng vay mượn những phương pháp đó áp dụng cho những thứ phục vụ cho bản thân mình là điều tội lỗi. Hãy cùng xem những tấm bảng này!”

Ben-Hur cầm lấy những chiếc vòng, và khi mở chúng ra anh nhìn thấy những dòng chữ tượng hình tiếng Arab được đốt lên bề mặt bằng một cây dùi nhọn hun nóng.

“Anh có thể đọc được chúng không, hỡi người con của đất Israel?”

“Không. Mong ngài cho tôi biết ý nghĩa của chúng.”

“Vậy thì hãy nhớ rằng mỗi bảng lại ghi tên một con ngựa non thuần chủng từ thời tổ tiên tôi hàng trăm năm trước; ngoài ra trên đó còn có tên của những con đực giống và con cái. Hãy cầm lấy chúng và để ý nhìn bề ngoài chúng cổ xưa như thế nào, khi đó hẳn anh sẽ tin thôi.”

Vài tấm bảng gần như đã mòn hết. Tất cả đều ngả vàng vì thời gian.

“Tôi có thể cam đoan với anh rằng trong chiếc hòm kia tôi có những ghi chép hoàn hảo, một điều hiếm có ngay cả với sử biên niên – trong đó ghi những con ngựa này thuộc dòng giống nào – giống như con ngựa này đang khẩn nài anh chú ý và vuốt ve nó, ông cha của nó từ xa xưa cũng đã đến với tổ tiên của tôi khi ấy cũng sống trong những căn lều này để ăn những hạt lúa mạch trong bàn tay họ, để được trò chuyện cùng giống như những đứa trẻ, và đổi lại chúng trao cho chúng tôi những cái hôn tỏ lòng biết ơn thay cho lời nói. Và giờ thì, hỡi người con của đất Israel, hãy tin tôi khi tôi nói rằng nếu tôi là vua của sa mạc thì đây chính là các quan đại thần của tôi! Nếu có kẻ nhẫn tâm cướp chúng khỏi tôi, tôi sẽ chỉ còn là một kẻ ốm yếu bị đoàn xe bỏ lại để đợi chờ cái chết. Nhờ có chúng, tuổi tác đã không hề làm giảm đi nỗi kinh hoàng mà tôi reo rắc trên những con đường giữa các thành phố; miễn là tôi vẫn còn đủ sức để đồng hành cùng chúng. Ha, ha, ha! Tôi có thể kể cho anh nghe những điều kì diệu mà tổ tiên chúng đã làm được. Tôi sẽ kể vào thời điểm thích hợp; còn bây giờ anh chỉ cần biết rằng chúng chưa bao giờ bị bắt kịp khi cần rút lui và thề có thanh kiếm của Solomon chúng cũng chưa bao giờ thất bại khi truy đuổi! Tuy thế, cần nhớ rằng những chiến công đó được thực hiện trên mặt cát sa mạc, với bộ yên cương trên lưng; nhưng còn lần này thì tôi không dám chắc. Tôi lấy làm sợ hãi, vì đây là lần đầu tiên chúng bị thắng ách lên vai, trong khi cần quá nhiều yếu tố thì mới có thể thành công. Chúng có niềm tự hào, tốc độ và sức bền. Nếu tôi có thể tìm được cho chúng một người điều khiển tài ba, chắc chắn chúng sẽ dành chiến thắng. Hỡi người con của đất Israel! Nếu anh là người đó, tôi thề rằng ngày anh đặt chân tới đây chính là ngày hạnh phúc nhất đời tôi. Xin anh hãy nói lên chủ kiến của mình.”

“Giờ thì tôi đã hiểu,” Ben-Hur nói, “tại sao một người Arab yêu quý những con ngựa chỉ sau các con mình; và tôi cũng đã hiểu tại sao những con ngựa Arab lại là giống tốt nhất trên thế giới. Nhưng thưa tộc trưởng đáng kính, tôi sẽ không để ngài phải quyết định chỉ dựa trên những điều tôi nói; vì như ngài đã biết ai trên đời cũng có thể thất hứa. Hãy cho tôi thử điều khiển chúng ngoài bãi trống, hãy giao cả bốn con ngựa vào tay tôi ngày mai.”

Gương mặt Ilderim rạng rỡ trở lại, dường như sắp sửa cất lời.

“Xin phép ngài tộc trưởng!” Ben-Hur nói. “Hãy để tôi nói thêm vài điều nữa. Từ những bậc thầy ở Rome tôi đã học được rất nhiều điều mà không hề biết trước rằng chúng sẽ phục vụ cho mình trong những tình huống như thế này. Tôi xin nói thẳng với ngài rằng mặc dù những đứa con của chốn sa mạc mỗi đứa đều có tốc độ ngang với đại bàng và sức chịu đựng của loài sư tử, nhưng chúng sẽ thất bại nếu không được huấn luyện để chạy cùng nhau. Ngài hãy nghĩ mà xem, trong bốn con ngựa luôn luôn có một con chậm nhất và một con nhanh nhất; trong khi cuộc đua luôn được định đoạt bởi con chậm nhất, mọi rắc rối lại thường bắt nguồn từ con nhanh nhất. Đó chính là những gì đã diễn ra hôm nay; người lái xe đã không thể kiềm chế con nhanh nhất để phối hợp nhịp nhàng với con chậm nhất. Tôi có thể sẽ không cải thiện nổi tình hình trong buổi chạy thử; nhưng nếu vậy tôi sẵn sàng nói thẳng cho ngài biết. Tôi xin thề. Ngược lại, nếu tôi có thể khiến chúng cùng tuân phục theo hiệu lệnh của tôi, bốn con như một, chắc chắn vinh quang và tiền bạc sẽ thuộc về ngài, còn tôi sẽ được trả mối thù của mình. Ngài thấy sao?”

Ilderim chăm chú lắng nghe, tay không ngừng vuốt bộ râu dài. Cuối cùng ông nói với một tràng cười, “Tôi ngày càng có thiện cảm với anh đấy, người con của Israel ạ. Ở sa mạc chúng tôi có một câu tục ngữ rằng, ‘Nếu nấu ăn bằng lời nói, tôi có thể hứa cả một đại dương bơ.’ Tôi sẽ giao những con ngựa cho anh vào sáng mai.”

Đúng lúc đó ở lối cửa sau lều có tiếng động.

“Bữa tối đây rồi! Và kia là ông bạn Balthasar của tôi, người mà hẳn anh đã biết. Ông ấy có một câu chuyện li kì mà hẳn một người Israel có thể nghe không biết chán.”

Ông nói thêm với những người hầu.

“Hãy mang hòm này đi, và đem cất những viên ngọc quý của ta về chỗ của chúng.”

Họ làm đúng theo lệnh của ông.