Chương VIII Lập luận của Simonides
Simonides ngẩng lên. Dù sao ông vẫn là chủ tọa của cuộc gặp mặt. “Esther,” ông nói nhỏ, “đêm đã khuya. Hãy cho đem đồ ăn và đồ uống ra để mọi người khỏi mệt mỏi vì những điều chúng ta sắp bàn đến.”
Cô rung chuông. Một người hầu mang rượu vang và bánh mỳ tới, và cô đem đến cho từng người.
“Thưa chủ nhân, tôi thì lại thấy chúng ta vẫn chưa hiểu hết về nhau,” Simonides nói tiếp khi tất cả mọi người đã được phục vụ
Cô rung chuông. Một người hầu mang rượu vang và bánh mỳ tới, và cô đem đến cho từng người.
“Thưa chủ nhân, tôi thì lại thấy chúng ta vẫn chưa hiểu hết về nhau,” Simonides nói tiếp khi tất cả mọi người đã được phục vụ ăn uống, “Từ nay trở đi cuộc đời của chúng ta sẽ hòa nhập cùng nhau như những dòng sông hòa làm một. Tôi cho rằng dòng nước sẽ êm đềm hơn nếu mọi áng mây được quét sạch khỏi bầu trời. Anh đã rời khỏi cửa nhà tôi hôm trước vì bị từ chối những yêu cầu mà tôi vừa mới chấp nhận; nhưng thực tế không phải là như vậy. Esther có thể làm chứng rằng tôi đã nhận ra anh; còn Malluch thì có thể chứng nhận tôi chưa từng bỏ rơi anh.”
“Malluch!” Ben-Hur thốt lên.
“Một người gắn liền với chiếc xe lăn như tôi cần phải có những bàn tay vươn thật xa thì mới có thể điều khiển thế giới dù thân thể tàn tật. Tôi có rất nhiều người như thế, và trong đó Malluch là một trong những người giỏi nhất. Và đôi khi...” ông liếc nhìn vị tộc trưởng với vẻ biết ơn, “... đôi khi tôi nhờ cậy đến những người có trái tim nhân hậu như Ilderim hào phóng đây – một người vừa tốt bụng vừa dũng cảm. Ông ấy có thể nói cho anh biết liệu tôi có chối bỏ hay lãng quên anh không.”
Ben-Hur nhìn người Arab.
“Hỡi Ilderim, đây có phải người đã kể với ngài về tôi?”
Đôi mắt Ilderim long lanh khi ông gật đầu đáp lại.
“Thưa chủ nhân,” Simonides nói, “làm sao chúng ta có thể biết rõ cốt cách của một con người mà không cần có những thử thách? Tôi biết anh tôi có thể nhìn thấy cha anh hiện diện trong anh; nhưng tôi lại chưa hiểu rõ anh là con người như thế nào. Với nhiều người, sự giàu có là một lời nguyền tiềm ẩn. Anh có phải một người như thế hay không? Tôi đã cử Malluch đi để tìm hiểu giúp mình, để làm đôi tai và cặp mắt của tôi. Xin đừng trách anh ấy. Malluch đã báo cáo lại với tôi mọi điều tốt đẹp về anh.”
“Tôi không hề có ý đó,” Ben-Hur thành thật nói. “Sự thông thái đã hiện diện cả trong những nghĩa cử của ông.”
“Tôi rất lấy làm vui được nghe anh nói như vậy,” vị thương gia đáp đầy xúc động, “rất vui là đằng khác. Mối lo lắng của tôi rằng chúng ta sẽ hiểu lầm nhau giờ đã được giải tỏa. Hãy để những dòng sông cùng chảy theo ý Chúa.”
Một lúc sau, ông nói tiếp.
“Tôi cần phải nói ra sự thật. Khi người thợ dệt làm việc và con thoi đang chạy, tấm vải dần hình thành cùng những họa tiết trên đó dù người thợ được thoải mái ngồi mơ màng; khối tài sản trong tay tôi cũng như vậy, và nhiều lần tôi đã tự hỏi lí do vì sao. Tôi có thể nhận thấy số tiền mình đang kiếm được không phải là để dành cho bản thân mình. Những cơn gió cát vùi lấp những thương nhân khác trên sa mạc lại vô hại đối với những gì thuộc về tôi. Những con bão biển hất những xác tàu dạt vào bờ lại chỉ khiến tàu của tôi đến đích nhanh hơn. Lạ nhất là tôi, một người hoàn toàn phải phụ thuộc, suốt ngày ngồi yên một chỗ như đã chết rồi, lại chưa từng bị bất kì ai phản bội. Những thế lực của thiên nhiên đã hạ mình phù trợ cho tôi, còn tất cả những người hâu cận của tôi đều vô cùng trung thành.”
“Điều đó quả thật rất đỗi lạ lùng,” Ben-Hur nhận xét.
“Tôi luôn luôn cảm thấy như vậy. Hỡi chủ nhân, cuối cùng tôi đã đi đến kết luận giống như anh – đó là ý Chúa – và giống như anh, tôi đã hỏi Người có mục đích gì? Một người thông minh không bao giờ làm việc gì vô ích; vậy thì trí tuệ của Chúa đang hành động vì điều gì? Câu hỏi ấy đã đau đáu trong trái tim tôi suốt bao nhiêu năm nay, chờ đợi câu trả lời. Tôi chắc chắn rằng nếu đây là ý Chúa, tới một ngày nào đó, theo cách của riêng mình, Người sẽ chỉ cho tôi thấy mục đích của Người một cách rõ ràng như ngôi nhà trắng trên đỉnh đồi. Và tôi tin rằng Người vừa giúp tôi nhận ra điều đó.”
Ben-Hur lắng nghe vô cùng chăm chú.
“Nhiều năm về trước, cùng với cả gia đình tôi – mẹ anh hồi đó cũng đi cùng với tôi và cả Esther xinh đẹp như bình minh trên đỉnh Olivet – tôi ngồi bên lề đường phía Bắc Jerusalem, gần lăng mộ của các vị vua, nơi ba người đàn ông cưỡi những con lạc đà khổng lồ màu trắng mà chưa ai ở thành phố thiêng liêng từng nhìn thấy đi ngang qua. Họ đều là những người lạ mặt đến từ những vùng đất xa xôi. Người đầu tiên dừng lại hỏi tôi rằng. Người được sinh ra làm vua của người Do Thái đang ở đâu? Như thể để giải đáp nỗi tò mò của tôi, ông nói tiếp, Chúng tôi đã nhìn thấy vì sao của Người ở phương Đông, và đã lên đường tới đây tỏ lòng sùng kính trước Người.” Tôi không hiểu gì cả, nhưng vẫn đi theo họ tới cổng Damascus. Họ hỏi đúng câu ấy với tất cả mọi người bắt gặp trên đường – thậm chí cả người lính canh cổng. Tất cả những người được hỏi đều lấy làm kinh ngạc giống như tôi. Dần dà tôi đã quên bẵng chuyện đó, mặc dù người ta đã bàn tán nhiều về dấu hiệu Đấng cứu thế đã giáng lâm. Than ôi! Than ôi! Chúng tôi mới ngờ nghệch làm sao, ngay cả những người thông thái nhất cũng không phải ngoại lệ! Khi Chúa đi trên thế gian, những bước chân của Người thường cách nhau tới hàng thế kỉ. Anh đã gặp Balthasar phải không?”
“Và đã được nghe ngài ấy kể lại câu chuyện,” Ben-Hur trả lời.
“Một phép màu! Đúng là một phép màu kì diệu!” Simonides thốt lên. “Khi ông ấy kể lại câu chuyện này cho tôi, thưa chủ nhân, tôi tưởng như mình vừa được nghe câu trả lời mà mình đã chờ đợi bấy lâu; ý đồ của Chúa bỗng trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Nhà vua sẽ là một người nghèo khó khi xuất hiện – nghèo khó và cô độc; không có ai phụng sự, không có quân đội, không có thành trì nào; để rồi một vương quốc sẽ được gây dựng và xóa sổ cả thành Rome. Chủ nhân của tôi ơi, anh đã thấy chưa? Lúc này đây trong anh tràn đầy sức mạnh, anh đã thành thạo sử dụng vũ khí lại có khối tài sản khổng lồ. Hãy mở mắt nhìn cơ hội mà Chúa đã trao cho anh! Chẳng phải mục đích của Chúa cũng là mục đích của anh hay sao? Còn vinh quang nào hoàn mỹ hơn thế không?”
Simonides dồn hết mọi cảm xúc vào lời kêu gọi.
“Nhưng vương quốc ấy, vương quốc ấy!” Ben-Hur trả lời nồng nhiệt. “Balthasar đã nói rằng nó là dành cho linh hồn.”
Simonides vốn mang trong mình lòng kiêu hãnh đặc trưng của người Do Thái, vì thế ông hơi cong môi khinh bỉ khi trả lời.
“Balthasar đã được chúng kiến những điều kì diệu, chứng kiến những phép màu, thưa chủ nhân. Khi ông ấy nhắc tới chúng, tôi phải nghiêng mình kính cẩn và tin tưởng hoàn toàn, vì đó là những cảnh tượng và những âm thanh mà đích thân ông đã nhìn, đã nghe thấy. Nhưng ông ta vẫn là một người con của Mizraim, thậm chí còn chưa cải đạo. Thật khó để đòi hỏi ông ấy phải có những hiểu biết đặc biệt khiến chúng ta phải kính nể về ý muốn của Chúa trên đất Israel. Những nhà tiên tri đã đón nhận ánh sáng trực tiếp từ Thiên đàng, cũng giống như ông ấy đã được tận mắt nhìn thấy phép màu. Khi cân nhắc lời của biết bao nhà tiên tri và của một mình Balthasar, tôi buộc phải tin vào những nhà tiên tri. Esther, hãy mang tới cho cha cuốn kinh Torah.”
Ông nói tiếp mà không chờ đợi.
“Liệu ta có thể coi nhẹ lời chứng nhận của cả một dân tộc hay không, thưa chủ nhân? Dù có đi từ Tyre ở phía Bắc theo đường biển tới kinh đô của Edom nằm ở tận cực Nam sa mạc, anh sẽ không thể tìm thấy bất kì ai từng cầu nguyện bằng Shema, bất kì nhà hảo tâm nào trong đền thiêng, hay bất kì ai đã từng ăn thịt con cừu trong lễ Quá hải dám nói với anh rằng vương quốc mà nhà vua sẽ gây dựng nên cho chúng ta, những người gìn giữ lời răn của Chúa, là không có thực trên thế giới này mà sẽ giống như vương quốc của David tổ tiên chúng ta. Tôi xin được hỏi họ đã có được niềm tin ấy từ đâu? Chúng ta sẽ nhìn thấy ngay thôi.”
Esther trở lại, mang theo những cuộn giấy được quấn cẩn thận trong những bao vải lanh màu nâu sẫm thêu chữ vàng.
“Hãy giữ lấy chúng, con gái, và chỉ đưa cho cha những cuộn mà cha yêu cầu,” người cha nói bằng giọng dịu dàng mà ông vẫn luôn dùng mỗi khi trò chuyện với cô, sau đó tiếp tục cuộc tranh luận.
“Quả thực tôi sẽ phải mất rất, rất nhiều thời gian thì mới có thể nhắc lại cho chủ nhân hết tên của những con người thiêng liêng nhờ Chúa phù hộ đã kế tục những nhà tiên tri ấy, dù không được hưởng phước lành như người đi trước – những người đã ghi lại mọi điều mình chứng kiến và những người thầy đã thuyết giảng từ thời Giam giữ; chính những nhà thông thái đã mượn ánh sáng từ cây đèn của Malachi, người cuối cùng trong dòng họ ấy mà những nhân vật lừng danh về sau như Hillel và Shammai không ngừng nhắc tên trên giảng đường. Nếu ta hỏi họ về vương quốc ấy thì sao? Vị Chúa của đàn cừu trong cuốn sách Enoch là ai? Là ai nếu không phải nhà vua mà chúng ta đang nói tới? Ngai vàng đã được dựng nên dành cho Người; nhà vua giáng những đòn mạnh mẽ, và tất cả những vua chúa khác bị lật đổ, những vương quốc trên đất Israel bị ném vào những cột lửa cháy rực trong hố sâu. Những bài thơ của Solomon cũng như vậy, ‘Xin Chúa hãy ban cho Israel một vị vua, một người con của David vào thời điểm mà người lựa chọn để cai trị đất nước Israel, cai quản những đứa con của Người... Vị vua ấy sẽ thắng ách cai trị lên những người không thuộc về tôn giáo này... Và đó sẽ là vị vua chính trực hành động theo đúng lời răn của Chúa,... Vì nhà vua sẽ cai trị cả thế gian bằng mệnh lệnh của mình mãi mãi.’ Và cuối cùng, hãy nghe Ezra, người được coi là một Moses thứ hai, nói về những gì ông đã nhìn thấy trong đêm, và hỏi ông ai là con sư tử nói bằng ngôn ngữ của loài người người với con đại bàng – tức là Rome – ‘Ngươi là kẻ chứa chấp sự dối trá, kẻ hủy diệt những thành phố – nơi sinh sống của những con người cần cù, kẻ phá tan những bức tường thành của họ dù họ chưa hề làm gì phương hại tới ngươi. Vì thế, hãy cút đi để thế gian được thanh tẩy, phục hồi và hi vọng một lần nữa có được sự công bằng và sự sùng kính dành cho vị Chúa đã tạo ra nó.’ Từ đó không ai còn nhìn thấy con đại bàng. Ôi, thưa chủ nhân, những lời ấy có lẽ là đã đủ rồi! Nhưng giờ đường lên đầu nguồn của con suối đã rộng mở. Hãy cùng đi tới đó. – Esther ơi, hãy rót thêm chút rượu vang và đưa cho cha cuốn kinh Torah.”
“Chủ nhân có tin vào những nhà tiên tri không?” ông hỏi sau khi uống hớp rượu. “Tôi biết là có, vì đó chính là đức tin của cả dân tộc. Esther, hãy đưa cho cha cuốn sách có ghi những tiên đoán của Isaiah.”
Ông cầm lấy cuộn giấy mà cô gái đã mở ra cho mình và đọc, “Những người đi trong bóng tối đã nhìn thấy ánh sáng rực rỡ: nó đã soi rọi lên những người sống trong vùng đất tối tăm của cái chết... Một hài nhi sẽ giáng lâm, một bé trai sẽ được Chúa ban xuống cho chúng ta, để rồi người này sẽ gánh trọng trách cai quản cả thế gian... Phạm vi cai trị và hòa bình của Người sẽ không có giới hạn nào, để rồi trên ngai vàng của David và trên vương quốc của mình, Người sẽ xác lập trật tự bằng tài xét đoán và sự công bằng từ nay đến mãi mãi về sau. Chủ nhân của tôi có tin vào những nhà tiên tri không? Giờ thì Esther, hãy mang cho cha lời Chúa nói với Micah.”
Cô đưa cho ông cuộn giấy đó.
“Từ chính Bethlehem Ephrath, một ngôi làng nhỏ nhoi giữa muôn nghìn ngôi làng khác ở Judah, sẽ sinh ra người mà sau này sẽ cai trị cả đất Israel. – Đây chính là hài nhi mà Balthasar đã thấy và kính lễ trong hang. Chủ nhân của tôi có tin vào những nhà tiên tri không? Esther, hãy đưa cho cha những lời tiên đoán của Jeremiah.”
Nhận được cuộn giấy đó, ông đọc nó lên giống những cuộn trước, “‘Chúa nói rằng trong tương lai Người sẽ ban cho David một hậu duệ lừng danh, để rồi nhà vua ấy sẽ cai trị đầy sáng suốt, đem lại công lí cho cả thế gian. Dưới sự cai trị của nhà vua, Judah sẽ được cứu rỗi và Israel sẽ được an toàn.’ Người sẽ cai trị như một vị vua – một vị vua, thưa chủ nhân! Chủ nhân có tin vào những nhà tiên tri không? Giờ thì con gái của cha, hãy đưa cho cha cuộn giấy ghi lại những lời của người con hoàn hảo của xứ Judah.”
Cô đưa cho ông cuốn sách Daniel.
“Xin chủ nhân hãy lắng nghe,” ông nói, “‘Tôi nhìn thấy trong đêm hình bóng của một người trong những đám mây trên thiên đường... Người này sẽ có được một vương quốc đầy vinh quang mà mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ phải phục tùng; vương quốc của Người là vĩnh cửu, không bao giờ mất đi, không bao giờ bị hủy diệt.’ Chủ nhân của tôi có tin vào những nhà tiên tri không?”
“Đủ rồi, tôi tin,” Ben-Hur kêu lên.
“Vậy thì nếu nhà vua xuất hiện trong cảnh nghèo khó, không lẽ chủ nhân lại không dùng hết tài sản của mình để phụng sự Người?” Simonides hỏi.
“Để phụng sự Người? Tôi sẵn sàng dâng hiến tới đồng tiền cuối cùng, hơi thở cuối cùng. Nhưng tại sao ông lại nói rằng nhà vua sẽ xuất thân trong cảnh nghèo khó?”
“Esther, hãy đưa cho cha lời của Chúa nói với Zechariah,” Simonides yêu cầu.
Cô đưa cho ông cuộn giấy.
“Hãy nghe nhà vua sẽ đến Jerusalem như thế nào.” Rồi ông đọc, “Hãy hát mừng, hỡi người con gái của Zion... Hãy tỏ lòng tôn kính khi nhà vua tới mang theo công lý và sự cứu rỗi. Người sẽ xuất hiện đầy giản dị trên lưng một con lừa non.”
Ben-Hur ngoảnh đi.
“Chủ nhân đang nghĩ gì?”
“Rome!” Anh nghiêm nghị đáp, “Rome và những binh đoàn lê dương của nó. Tôi đã từng sống với họ trong những trại lính. Tôi biết rõ về họ.”
“A!” Simonides nói. “Anh sẽ là người lãnh đạo những binh đoàn lê dương của nhà vua, được tuyển lựa trong số hàng triệu người.”
“Hàng triệu!” Ben-Hur kêu lên.
Simonides ngồi ngẫm nghĩ một chốc.
“Anh không cần phải lo lắng về quân số,” cuối cùng ông nói.
Ben-Hur tò mò nhìn ông.
“Anh đang mường tượng ra sự xuất hiện của nhà vua,” Simonides trả lời “Bên tay phải anh là vị vua ấy, còn bên trái anh là những binh đoàn thiện chiến của Caesar, và rồi anh tự hỏi, nhà vua có thể làm gì đây?”
“Đúng là tôi đang nghĩ như vậy.”
“Thưa chủ nhân!” Simonides nói tiếp. “Anh vẫn chưa biết đất nước Israel của chúng ta hùng mạnh đến thế nào. Anh coi nó như một ông già đau khổ khóc than bên những con sông Babylon. Nhưng hãy đến Jerusalem vào dịp lễ Quá hải, đứng ở Xystus hoặc trên phố Barter và ngắm nhìn thành phố ấy. Lời hứa của Chúa với tổ tiên Jacob của chúng ta khi rời khỏi Padan-Aram chính là giới luật mà theo đó dân tộc ta không ngừng sinh sôi nảy nở – thậm chí ngay cả khi chịu cảnh nô lệ; họ vẫn sinh sôi dưới bàn chân chà đạp của người Ai Cập; gọng kìm của người La Mã chỉ khiến họ càng trở nên mạnh mẽ; giờ thì họ thực sự đã trở thành ‘một quốc gia là tổng hòa của mọi quốc gia.’ Không chỉ có vậy, thưa chủ nhân, để hiểu được sức mạnh của Israel – thực chất là để đo đếm được những gì nhà vua có thể làm – đừng chỉ dựa vào quy luật sinh sôi tự nhiên mà hãy nhớ đến một sự sinh sôi nữa – ở đây tôi muốn nói đến sự lan rộng của đức tin giúp mang lời hiệu triệu của anh tới tận từng hang cùng ngõ hẻm trên thế gian. Hơn nữa, tôi biết chúng ta vẫn có thói quen coi Jerusalem là cả đất nước Israel và điều này chẳng khác gì tìm thấy một mảnh vải rách mà coi nó là tấm áo choàng của Caesar. Jerusalem chỉ là một viên đá trong đền thiêng, trái tim của cơ thể. Dù nơi đây có giàu mạnh đến thế nào, hãy nhìn xa hơn để thấy được biết bao người đang trung thành chờ đợi lời kêu gọi thiêng liêng, Tới lều của mình, hỡi những người Israel!’ Hãy đếm những người đang sống ở Ba Tư, con cái của những người đã lựa chọn không trở về; hãy đếm những đồng bào của ta đang sống ở những thành phố giàu có ở Ai Cập và những vùng xa xôi khác của châu Phi; hãy đếm những nhà buôn Hebrew đang trở nên giàu có ở phương Tây – ở Londimum hay những trạm buôn ở Tây Ban Nha; hãy đếm những người mang dòng máu gốc cùng những người đã cải đạo ở Hy Lạp và các hòn đảo ngoài biển khơi, những người đang ở Pontus, Antioch, những người đang trú ngụ trong thành phố bị nguyền rủa dưới bóng những bức tường thành bẩn thỉu của Rome; hãy đếm những người thờ phụng Chúa sống trong những căn lều trên sa mạc ngay gần chúng ta hay những vùng sa mạc bên kai sông Nile: ở những vùng bên kia dãy Caspia, thậm chí ở tận vùng đất cổ xưa của Gog và Magog, hãy tách riêng những người hàng năm vẫn gửi cồng phẩm tới đền thiêng dâng lên Chúa – tách họ ra để tính cả những người này nữa. Và khi đã đếm hết, thưa chủ nhân, ta sẽ biết được có bao nhiêu người sẵn sàng cầm gươm phụng sự Nhà Vua; thấy được một vương quốc đã được định hình sẵn để Người ban phát ‘sự phán xét và công lý trên khắp trái đất’ – ở Rome cũng như ở Zion. Như vậy ta có thể thấy, những gì Israel có thể làm được chính là những gì nhà vua có thể làm được.”
Những hình ảnh ấy được Simonides mô tả với giọng vô cùng sôi nổi.
Với Ilderim, những lời nói này không khác gì tiếng kèn đồng. “Ôi, tôi tưởng như mình vừa trở về tuổi thanh niên!” Ông kêu lên và đứng bật dậy.
Ben-Hur thì vẫn ngồi yên. Anh coi những lời vừa rồi là để thuyết phục anh cống hiến cả cuộc đời và gia sản cho con người bí ẩn vốn là hi vọng của cả Simonides lẫn ông già Ai Cập thông thái. Như chúng ta đã thấy, ý niệm này không mới mà đã được nhắc đến trước mặt anh hết lần này đến lần khác; một lần khi anh lắng nghe Malluch trong vườn cây Daphne; sau đó anh được nghe Balthasar giảng giải suy nghĩ của mình về vương quốc sắp được gây dựng nên; để rồi sau đó trong chuyến đi dạo trong vườn cọ, nó đã trở thành gần như một quyết tâm trong anh. Ở những thời điểm đó, với anh đây chỉ là một ý nghĩ thoắt ẩn thoắt hiện gắn liền với những cảm xúc tức thời. Nhưng bây giờ thì không. Vị chủ nhân đã lãnh lấy nhiệm vụ lớn lao ấy, đang chuẩn bị để biến những hứa hẹn thành sự thật; và anh coi đây là một lí tưởng với vô số những triển vọng thiêng liêng. Dường như một cánh cổng bí mật vừa mới mở toang trước mặt Ben-Hur khiến anh chìm trong ánh sáng, dẫn lối anh thực hiện một nhiệm vụ mà từ lâu đã là ước mơ hoàn hảo của anh – một nhiệm vụ lâu dài, với những phần thưởng xứng đáng dành cho những thành tựu đạt được, cùng những món quà để xoa dịu tham vọng trong anh. Chỉ còn thiếu một điều nữa.
“Hãy cùng công nhận tất cả những gì ông nói là đúng, hỡi Simonides,” Ben-Hur nói – “rằng nhà vua sẽ xuất hiện và vương quốc của Người cũng sẽ giống như vương quốc của Solomon. Cứ coi như tôi đã sẵn sàng để cống hiến hết sức lực và tài sản cho vị vua ấy; hơn thế nữa, hãy coi như tôi sẵn sàng đi theo con đường mà Chúa đã vạch ra với những biến cố trong cuộc đời tôi và khối tài sản lớn lao tôi có được; nhưng sau đó thì sao? Không lẽ chúng ta sẽ tiến hành như những người thợ xây mù lòa? Liệu chúng ta có nên chờ đợi tới khi nhà vua xuất hiện? Hay đợi tới khi Người cho triệu tập tôi tới? Ông có tuổi tác và kinh nghiệm. Xin hãy trả lời cho tôi biết.”
Simonides đáp lại ngay.
“Chúng ta không có bất cứ lựa chọn nào. Lá thư này...” ông đưa ra lá thư của Messala, “lá thư này chính là dấu hiệu cho thấy đã tới lúc hành động. Chúng ta không đủ mạnh để chống lại liên minh giữa Messala và Gratus. Chúng ta không có tầm ảnh hưởng ở Rome hay quân đội ở đây. Chúng sẽ giết ta trước nếu ta chờ đợi. Về lòng vị tha của chúng, các vị chỉ cần nhìn thân thể tôi đây.”
Ông rùng mình khi nhớ lại những đòn tra tấn mình đã phải chịu.
“Ôi, chủ nhân của tôi,” ông nói tiếp sau khi đã bình tĩnh trở lại; “lòng quyết tâm của anh mạnh mẽ đến thế nào?”
Ben-Hur không hiểu câu hỏi của ông.
“Tôi vẫn còn nhớ khi mình còn trẻ, thế giới là một chốn sung sướng như thế nào,” Simonides nói tiếp.
“Thế nhưng,” Ben-Hur nói, “ông vẫn có thể thực hiện những sự hi sinh lớn lao.”
“Phải, vì tình yêu.”
“Trong cuộc đời không còn động cơ nào mạnh mẽ hơn thế hay sao?”
Simonides lắc đầu.
“Có sự tham vọng.”
“Tham vọng là điều cấm kỵ đối với một người con của đất Israel.”
“Vậy thì sự trả thù?”
Một tia lửa như vừa làm bùng lên những cảm xúc trong ông. Mắt ông sáng rực lên, tay run run. Ông trả lời vội vã, “Trả thù là quyền của người Do Thái; nó được quy định trong giới luật.”
“Một con lạc đà, hay thậm chí đến một con chó cũng nhớ được những điều bất công xảy đến với mình,” Ilderim thốt lên.
Simonides tiếp tục dòng suy nghĩ bị đứt quãng.
“Có một việc cần phải được thực hiện trước khi nhà vua xuất hiện. Chúng ta có thể biết chắc Israel sẽ là cánh tay phải của Người; nhưng than ôi, lúc này đó là cánh tay của hòa bình, không quen việc chiến chinh. Trong hàng triệu người Israel không có lấy một đội quân được huấn luyện bài bản, không có lấy một vị tướng đủ tài lãnh đạo. Tôi không tính đến những binh đoàn lính đánh thuê của vương triều Herod, vì chúng vốn chỉ được dùng để đàn áp chúng ta mà thôi. Đây chính là điều mà bọn La Mã mong muốn để càng củng cố thêm địa vị của mình; nhưng giờ thời khắc đổi thay đã điểm, khi những người chăn cừu mặc lên mình chiếc áo giáp, cầm lấy gươm giáo, và những đàn gia súc hiền hòa bỗng biến thành những con sư tử. Chắn chắn cần có một người đóng vai trò là cánh tay phải của nhà vua. Vậy thì còn ai phù hợp với vị trí đó nếu không phải một người luôn làm tròn nghĩa vụ của mình?”
Gương mặt Ben-Hur ửng đỏ khi nghe những lời đó, mặc dù anh nói, “Tôi hiểu. Nhưng nói thẳng ra, có một lí tưởng cao đẹp là một nhẽ, nhưng biết cách thực hiện nó lại là chuyện khác.”
Simonides uống rượu vang mà Esther đã mang cho ông rồi đáp.
“Ngài tộc trưởng và chủ nhân sẽ là những nhân vật quan trọng nhất, mỗi người mang một vai trò riêng. Còn tôi sẽ vẫn ở lại đây coi xét công việc giống như bây giờ để đảm bảo tất cả được chu cấp đầy đủ. Anh hãy đi tới Jerusalem và từ đó tới những vùng xa xôi hơn để bắt đầu hiệu triệu những chiến binh của đất Israel, tổ chức họ thành những binh đoàn, sau đó lựa chọn những người đội trưởng và huấn luyện cho họ, bí mật tích trữ những vũ khí mà tôi cung cấp. Qua Perea, anh sẽ tới Galilee, nơi chỉ cách Jerusalem có một bước chân. Ở Perea, sa mạc sẽ nằm sau lưng anh và Ilderim thì ngay trong tầm tay. Ông ấy sẽ chịu trách nhiệm canh giữ các con đường để không thứ gì lọt qua mà anh không biết. Ngoài ra ông ấy sẽ còn giúp anh nhiều việc khác nữa. Cho tới thời điểm thích hợp, sẽ không ai biết những gì chúng ta đã bàn bạc hôm nay. Vai trò của tôi chỉ là một người hầu cận mà thôi. Tôi đã bàn bạc kĩ với Ilderim. Còn chủ nhân thì thấy sao?”
Ben-Hur nhìn sang vị tộc trưởng.
“Những gì Simonides nói đều là sự thật, hỡi người con của Hur,” người Arab đáp. “Tôi đã thề với ông ấy, và ông ấy hoàn toàn tin tưởng tôi. Tôi cũng xin thề với anh sẽ cống hiến toàn bộ nhân lực và bất cứ thứ gì mình có thể cung cấp.”
Simonides, Ilderim và Esther nhìn Ben-Hur chăm chú.
“Tất cả mọi người,” anh trả lời, ban đầu với giọng buồn bã, “đều có một chiếc cốc hạnh phúc được rót sẵn cho mình, và khi nhận được người ấy sẽ tận hường từng giọt của nó – tất cả mọi người trừ tôi. Hỡi Simonides và ngài tộc trưởng hào phóng, tôi có thể thấy rõ những điều các ngài đang đề xuất sẽ dẫn đến đâu. Nếu tôi chấp nhận, sẽ không còn có hòa bình cùng những hi vọng gắn liền với nó. Những cánh cửa mà tôi có thể lựa chọn và cả cánh cổng dẫn tới một cuộc sống bình yên sẽ đóng lại mãi mãi sau lưng tôi, vì tất cả đều dẫn tới Rome. Tôi sẽ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, bị người ta săn đuổi. Những hầm mộ gần thành phố và những cái hang tồi tàn trên những ngọn núi hẻo lánh nhất từ giờ sẽ là nơi tôi ăn miếng bánh và nằm xuống nghỉ ngơi.”
Một tiếng nấc vang lên ngắt lời anh. Tất cả quay lại nhìn Esther khi ấy úp mặt lên vai cha mình mà khóc.
“Cha đã quên không nghĩ đến con, Esther ạ,” Simonides nói thật nhẹ nhàng, vì chính ông cũng đang xúc động.
“Với tôi như vậy là đủ, Simonides ạ,” Ben-Hur nói. “Một người đàn ông có thể chịu đựng mọi nỗi thống khổ khi biết rằng vẫn có người thương hại mình. Xin để tôi được nói tiếp.”
Tất cả lại chăm chú lắng nghe anh.
“Tôi định nói rằng mình không còn lựa chọn nào ngoài chấp nhận vai trò mà các ngài đã phân cho tôi. Và vì nán lại đây chỉ dẫn tới cái chết vô ích, tôi sẽ bắt tay vào việc ngay.”
“Chúng ta có cần ghi lại cam kết này không?” Simonides hỏi, đúng theo thói quen của một thương gia.
“Với tôi thì lời nói của các ngài là đủ,” Ben-Hur nói.
“Tôi cũng vậy,” Ilderim trả lời.
Thỏa thuận lớn lao mà rồi ra sẽ làm thay đổi hẳn cuộc đời của Ben-Hur đã được thống nhất theo cách như vậy. Ilderim gần như ngay lập tức nói thêm.
“Như vậy là đã xong.”
“Cầu mong Chúa của Abraham phù trợ chúng ta!” Simonides thốt lên.
“Tôi chỉ muốn nói thêm một điều nữa,” Ben-Hur vui vẻ nói. “Nếu các ngài nhất trí, tôi xin được thực hiện những điều này sau khi cuộc đua kết thúc. Ít khả năng Messala có thể làm gì để ám hại tôi trước khi nhận được thư phúc đáp của viên tỉnh trưởng – chắc chắn là không dưới bảy ngày kể từ khi bức thư này được chuyển đi. Được chạm trán với hắn trên đường đua là một thú vui mà tôi muốn tận hưởng bằng mọi giá.”
Ilderim vui vẻ đồng ý ngay, còn Simonides vẫn không quên những công việc mình cần thực hiện và nói, “Như vậy cũng tốt, vì như chủ nhân có thể thấy, sự trì hoãn này sẽ cho tôi có thêm thời gian để hỗ trợ anh. Tôi nhớ rằng anh đã nói mình được nhận tài sản thừa kế của Arrius. Nó có phải dưới dạng nhà đất không?”
“Một dinh thự ở Misenum, và vài căn nhà nữa ở Rome.”
“Vậy thì tôi khuyên anh hãy bán chúng đi và cất giữ số tiền sao cho thật an toàn. Hãy thống kê lại các tài sản đó cho tôi, tôi sẽ xin giấy phép và cử một người thân tín làm mọi thứ giúp anh. Chúng ta sẽ chặn tay bọn kẻ cướp La Mã lần này.”
“Tôi sẽ gửi cho ông bản thống kê vào ngày mai.”
“Vậy thì nếu không còn vấn đề gì cần bàn bạc nữa, công việc của chúng ta đêm nay thế là xong,” Simonides nói.
Ilderim hài lòng vuốt bộ râu bạc và nói, “Và lại còn hoàn thành thật êm đẹp.”
“Esther, hãy mang rượu và bánh mỳ ra một lần nữa. Thật là vinh hạnh cho chúng ta khi tộc trưởng Ilderim đây sẽ ở lại cho tới sáng mai, hay đúng hơn là ở lại bao lâu tùy thích; còn anh, chủ nhân của tôi...”
“Xin hãy mang ngựa tới đây, Ben-Hur đáp. “Tôi sẽ trở về vườn cọ. Kẻ thù sẽ không thể phát hiện ra tôi nếu tôi đi ngay lúc này, và...” anh nhìn sang Ilderim, “cả bốn con ngựa hẳn sẽ rất vui khi được gặp lại tôi.”
Khi bình minh ló rạng, anh và Malluch xuống ngựa trước cửa căn lều.