← Quay lại trang sách

Chương XVI Trong dinh thự Idernee

Lên đường vào ngày hôm sau để tới nơi cho kịp giờ cuộc hẹn với Iras, Ben-Hur rẽ từ tượng đài Omphalus nằm giữa thành phố vào hàng cột Herod, và chẳng bao lâu đã tới dinh thự Idernee.

.

Từ ngoài phố anh bước vào tiền sảnh. Phía trong góc là những cầu thang bí mật dẫn tới một cái cổng có mái. Cạnh cầu thang có tượng những con sư tử có cánh, giữa phòng là một con đang khổng lồ phun nước khắp sàn. Những con sư tử, con dang, các bức tường và sàn nhà đều mang đậm phong cách Ai Cập: tất cả mọi thứ, thậm chí đến lan can cầu thang cũng làm bằng những phiến đá xám khổng lồ.

Bên trên tiền sảnh, kéo dài tới tận chỗ đầu cầu thang là cái cổng thật lớn, rất thanh nhã và nhẹ nhàng, được xây dựng với tỉ lệ cân đối đến nỗi ở thời đại đó khó có dân tộc nào tạo ra được ngoài những người Hy Lạp. Làm bằng những tấm đá cẩm thạch trắng như tuyết, nhìn nó hệt như một bông hoa ly được thả trên tảng đá lớn trơ trọi.

Ben-Hur đứng lại trong bóng râm của cái cổng để nhìn ngắm những nét chạm trổ của nó cùng sự thanh khiết của đá cẩm thạch; sau đó anh đi tiếp vào bên trong dinh thự. Một cánh cửa xếp lớn mở ra để đón tiếp anh. Anh bước vào một hành lang có trần cao nhưng hẹp. Sàn của nó được lát đá màu đỏ, in bóng lên những bức tường. Thế nhưng sự giản dị này chỉ báo hiệu những tuyệt tác mà anh sắp được nhìn thấy.

Anh bước chậm rãi, mơ màng. Chẳng bao lâu nữa anh sẽ được gặp lại Iras; nàng đang chờ anh với những bài hát và những câu chuyện, những câu nói đùa tinh tế, khéo léo, đầy ngẫu hứng – với nụ cười khiến cái liếc mắt của nàng càng đẹp hút hồn, trong khi ánh mắt giúp những lời thì thầm của nàng càng thêm khêu gợi. Nàng đã mời gọi anh trong cái đêm hai người đi thuyền trên mặt hồ ở vườn cọ. Hôm nay, một lần nữa nàng mời gọi anh; và anh thì đang đi tới chỗ nàng trong dinh thự tuyệt đẹp này.

Hành lang dẫn anh tới một cánh cửa đóng kín, và anh dừng lại. Đúng lúc ấy, cánh cửa lớn bỗng tự mở ra, không hề kêu cọt kẹt hay phát ra tiếng khóa chốt, không thấy tiếng người. Thế nhưng điều kì lạ ấy bị lấn át hoàn toàn bởi cảnh tượng bày ra trước mắt anh.

Đứng trong bóng tối của hành lang nhìn qua ngưỡng cửa, anh được nhìn thấy sảnh lớn của một dinh thự La Mã, rộng rãi và tráng lệ không sao kể xiết.

Anh không thể biết đích xác căn phòng rộng bao nhiêu, vì những tỉ lệ chính xác của nó khiến đôi mắt phải bối rối. Anh cảm giác căn phòng sâu hút, điều mà anh chưa từng thấy ở bất kì đâu. Khi dùng lại và ngắm nhìn mặt sàn, anh nhận thấy mình đang đứng trên ngực của Leda(*) đang mơn trớn một con thiên nga. Nhìn xa hơn, anh nhận thất cả mặt sàn được lát những hình các sinh vật thần thoại. Trong phòng còn có những chiếc ghế đẩu và ghế dựa được thiết kế không cái nào giống cái nào. Đây đó lại có những chiếc ghế dài với quyến rũ khó có thể cưỡng lại. Các món đồ đạc đặt sát tường in bóng xuống sàn hệt như xuống mặt nước; thậm chí các tấm ván lát tường, những hình vẽ trên đó, các phù điêu, và cả bức bích họa trên trần cũng phản chiếu xuống sàn nhà. Trần nhà cong hướng về trung tâm, nơi trổ một lỗ hở để ánh sáng mặt trời ùa vào, còn bầu trời xanh ngắt tưởng như nằm trong tầm tay. Bể chứa nước nằm bên dưới lỗ hở có lan can bằng đồng bao quanh. Những cây cột mạ vàng chống đỡ mái nhà xung quanh lỗ hở sáng lên như ngọn lửa khi ánh mặt trời chiếu vào, trong khi hình bóng phản chiếu của chúng dường như vươn xa vô tận. Cùng với những cột đèn kì lạ, những bình gốm và những bức tượng, nơi đây hẳn là rất hợp với ngôi nhà trên đồi Palatine mà Cicero(*) đã mua của Crassus(*), hay dinh thự xứ Tuscan của Scaurus vốn còn lừng danh hơn về sự xa hoa.

Vẫn trong trạng thái mơ màng, Ben-Hur đi lang thang, ngắm nghía mọi thứ trong khi chờ đợi. Anh cảm thấy có trì hoãn chút ít cũng chẳng sao; khi Iras sẵn sàng, nàng sẽ xuất hiện hoặc phái một gia nhân tới. Trong mọi ngôi nhà La Mã, gian sảnh chính luôn là nơi dùng để tiếp khách.

Anh đi vòng quanh căn phòng hai, rồi ba lần. Thỉnh thoảng anh dừng lại dưới lỗ hổng trên trần, ngắm nhìn bầu trời xanh thẳm bên trên; sau đó dựa mình vào một cây cột, anh xem xét các mảng sáng tối trong phòng và hiệu ứng chúng tạo nên. Chỗ này anh thấy luồng sáng như một tấm màn che phủ các đồ vật phía sau, chỗ kia thì ánh sáng lại chiếu thẳng rực rỡ. Thế nhưng mãi vẫn không thấy ai tới. Thời gian, hay đúng hơn là sự trôi đi của thời gian, dần dần cũng khiến anh băn khoăn không hiểu sao Iras lại tới muộn thế. Một lần nữa, anh nhìn ngắm những bức tranh trên nền nhà, nhưng không lấy làm thích thú như trước. Thỉnh thoảng anh dừng lại, sự sốt ruột như phả hơi nóng vào linh hồn anh, càng ngày càng nóng hơn, để rồi cuối cùng anh bỗng nhận ra rằng cả dinh thự từ đầu tới giờ vẫn im ắng như tờ, và điều này khiến anh cảm thấy nghi ngờ. Thế nhưng anh vẫn cố xua đi cảm giác đó với một nụ cười và tự nhủ. “Ồ, hẳn nàng đang trang điểm nốt hàng mi, hoặc giả nàng đang chuẩn bị một vòng nguyệt quế cho ta cũng nên; nàng sắp sửa xuất hiện rồi, và quãng chờ đợi này giúp nàng có đủ thời gian để khiến mình càng lộng lẫy hơn!” Anh ngồi xuống ngắm một cái chân đèn bằng đồng có bánh xe với những đường nét chạm trổ cầu kì; cây cột ở một đầu còn đầu kia là tượng một người phụ nữ quỳ trước bàn thờ; những ngọn đèn treo trên những sợi xích mảnh ở đầu cành cọ; và về tổng thể thì cái chân đèn này quả là một tuyệt tác. Thế nhưng sự im lặng vẫn đè nặng lên anh: anh căng tai lắng nghe thậm chí ngay cả khi đang ngắm nhìn cái chân đèn xinh đẹp – anh lắng nghe, nhưng không thấy tiếng động nào; cả tòa dinh thự cứ như một nấm mồ.

Hẳn là đã có nhầm lẫn gì đây. Nhưng không thể nào! Người đưa tin đã đến gặp anh theo lệnh của chính cô gái Ai Cập, và đây đúng là dinh thự Idernee. Rồi anh chợt nhớ cánh cửa đã tự mở ra êm ái một cách bí ẩn như thế nào. Anh cần phải xem xét nó mới được!

Anh bước tới chỗ cánh cửa. Dù đã rất nhẹ nhàng, tiếng bước chân anh vẫn vang vọng khắp phòng, khiến anh như muốn co rúm người lại. Anh cảm thấy lo lắng. Ổ khóa vững chãi kiểu La Mã không hề lay chuyển lần đầu tiên anh thử kéo nó; và tới lần thử thứ hai – máu trên hai gò má anh lạnh buốt – anh dùng hết sức lực cố bẻ gãy nó. Vô ích! Cảnh cửa vẫn im lìm. Anh hiểu rằng mình đang ở vào tình thế cực kì nguy hiểm và trong chốc lát anh đứng đó, không biết phải làm gì.

Ai ở Antioch này muốn hãm hại anh?

Messala!

Ở Dinh thự Idernee này hay sao? Anh đã được nhìn nét kiến trúc Ai Cập ở tiền sảnh, nét kiến trúc Athens ở cái cổng có mái; nhưng trong gian sảnh chính này tất cả đều đặc trưng La Mã; mọi thứ thuộc về nó đều thể hiện chủ nhân là một người La Mã. Quả thực, dinh thự nằm ở khu phố nhộn nhịp nhất trong thành phố, một nơi rất công khai để bày trò ám hại anh; nhưng cũng có thể chính điều đó thể hiện sự cao tay của kẻ thù của anh. Gian sảnh bỗng như thay đổi hẳn. Dù vô cùng thanh nhã và tráng lệ, nó thực chất là một cái bẫy. Nhận ra được điều này khiến mọi thứ trước mắt anh đều nhuốm màu đen tối.

Ý nghĩ này khiến Ben-Hur giận dữ.

Ở bên trái và bên phải căn phòng có rất nhiều cửa, chắc chắn là dẫn tới các phòng ngủ. Anh cố thử mở nhưng tất cả đều được gài chắc. Nếu anh gõ cửa, ai đó sẽ ra mở chăng? Không muốn kêu than để khiến mình mất mặt, anh trở lại chỗ cái ghế dài, nằm xuống mà suy nghĩ.

Giờ thì rõ ràng anh đã bị nhốt; nhưng vì mục đích gì? Bởi tay ai?

Nếu đây là âm mưu của Messala thì...! Anh ngồi bật dậy, nhìn quanh, mỉm cười thách thức. Mọi vật trên những cái bàn đều có thể được dùng làm vũ khí. Đã từng có những con chim chết đói trong cái lồng bằng vàng; nhưng anh thì sẽ không chịu chết như vậy – những cái ghế dài có thể được dùng để phá cửa, và anh thì lại có thừa sức khỏe, chưa kể cơn thịnh nộ có thể khiến sức mạnh của anh tăng lên gấp bội!

Messala chắc chắn sẽ không thể đích thân đến đây. Hắn không bao giờ còn đi lại được nữa, chỉ còn là một kẻ què quặt như Simonides, thế nhưng hắn vẫn có thể ra lệnh cho những người khác. Và quả thực, ở nơi đâu lại không có người nghe theo lời hắn? Ben-Hur đứng dậy cố lay những cánh cửa một lần nữa. Anh gọi một tiếng, nhưng tiếng vọng lại trong căn phòng khiến anh giật mình. Cố gắng bình tĩnh hết mức, anh dằn lòng chờ đợi thêm một lúc nữa trước khi cố phá cửa thoát ra.

Trong những tình huống như vậy, tâm trí con người luôn có những khoảnh khắc xao động xen lẫn với lo lắng. Cuối cùng – anh cũng chẳng rõ là sau bao lâu – anh đi đến kết luận rằng tất cả chuyện này chỉ là một tai nạn hay nhầm lẫn mà thôi. Tòa dinh thự này chắc chắn phải thuộc về ai đó; nó phải được lau dọn thường xuyên: và người coi sóc căn nhà hẳn sẽ đến đây vào buổi tối. Anh chỉ cần kiên nhẫn thôi!

Anh tiếp tục chờ đợi.

Nửa giờ đồng hồ trôi qua – với Ben-Hur thì quãng thời gian đó còn dài hơn nhiều – bỗng cửa chính lại mở ra và đóng vào im lặng hệt như trước, khiến anh không hề nhận thấy.

Lúc đó anh đang ngồi ở đầu kia căn phòng. Một tiếng bước chân khiến anh giật mình.

“Cuối cùng thì nàng đã đến!” Anh nghĩ thầm, vừa nhẹ nhõm vừa sung sướng, và đứng dậy.

Tiếng bước chân đó nghe nặng trịch, kêu loẹt xoẹt đúng kiểu của một đôi xăng đan thô kệch. Những cây cột mạ vàng chắn tầm nhìn của anh. Anh bước nhanh về phía trước, dựa mình vào một trong số những cây cột đó. Bỗng anh nghe thấy tiếng người – giọng đàn ông – vừa khăn vừa khùng khục trong cổ. Anh không hiểu người ấy nói gì, vì đó chẳng phải ngôn ngữ của vùng Đông hay Nam Âu.

Sau khi xem xét qua căn phòng, những người lạ mặt đi sang phía trái, bước vào tầm quan sát của Ben-Hur. Đó là hai người đàn ông, một người rất cơ bắp, cả hai đều cao, bận áo cộc. Họ không có phong thái giống như chủ nhân của căn nhà hay có địa vị gì. Tất cả mọi thứ trong phòng đều khiến họ kinh ngạc, cúi xuống sờ nắn từng tí. Đó là những người mọi rợ. Gian sảnh dường như bị vấy bẩn bởi sự có mặt của họ. Cùng lúc ấy, dáng điệu khoan thai và tự mãn của họ khi bước vào đây cho thấy họ tới vì công chuyện nào đó. Nhưng là công chuyện với ai?

Họ vừa trò chuyện vừa đi lang thang, dần tiến tới chỗ cây cột mà Ben Hur đang đứng. Ở nơi một tia nắng chiếu xiên xuống những bức tranh trên sàn nhà, một bức tượng khiến họ chú ý. Khi tới chiêm ngưỡng nó, họ tiến ra chỗ anh sáng.

Sự bí ẩn trong dinh thự này như chúng ta đã thấy khiến Ben-Hur lo lắng. Lúc này, anh bỗng nhận ra người lạ mặt cao lớn ấy chính là người đến từ phương Bắc mà anh từng quen ở Rome, vừa giật giải ở đấu trường hôm qua. Anh nhìn thấy gương mặt đầy những vết sẹo của các cuộc giao tranh, mang vẻ thô bạo dã man. Anh nhìn thấy những cẳng chân cẳng tay để trần cơ bắp cuồn cuộn nhờ tập luyện gian khổ mà có, cùng với đôi vai rộng như của Hercules. Tất cả khiến anh cảm thấy rùng mình tận xương tủy. Bản năng mách bảo anh rằng đây đúng là một cơ hội giết người quá hoàn hảo để có thể gọi là ngẫu nhiên, còn đây chính là những người myrmidon(*) tới đây để ám hại anh. Anh lo lắng nhìn sang người đi cùng với người phương Bắc – đó là một thanh niên trẻ, tóc đen, mắt đen, bề ngoài trông không khác gì một người Do Thái. Anh cũng nhận thấy rằng cả hai người mặc đúng thứ trang phục thi đấu của mình trên đấu trường. Xâu chuỗi những quan sát này, Ben-Hur không còn nghi ngờ gì nữa: anh đã bị lừa đến dinh thự này. Không thể kêu gọi ai tới cứu giúp, anh sẽ chết ở nơi tráng lệ mà bí mật này!

Không biết phải làm gì, anh nhìn từ người này sang người kia. Trong tâm trí anh diễn ra cái điều kì diệu khiến cuộc sống như lướt qua trước mắt anh, khiến anh nhìn thấy mình cứ như thể một người khác; để rồi từ đáy sâu bí mật, một bàn tay vô hình cho anh thấy mình đã bước vào một kiếp sống mới, khác hẳn với kiếp trước khi anh là nạn nhân thì lần này anh chính là kẻ thủ ác. Chỉ mới ngày hôm qua thôi anh vừa mới tìm thấy nạn nhân đầu tiên của mình! Với một người theo Thiên Chúa, điều này hẳn sẽ đem tới sự yếu đuối hay hối hận. Nhưng với Ben-Hur thì không; linh hồn anh mang theo những cảm xúc đến từ những lời răn dạy của người đầu tiên đặt ra giới luật cho con người chứ không phải của người cuối cùng và cũng là vĩ đại nhất. Anh đã trừng phạt Messala một cách đích đáng. Nhờ Chúa phù hộ, anh đã thành công; và cũng từ đó anh rèn giũa đức tin của mình – đức tin vốn là nguồn gốc sức mạnh lí trí, đặc biệt là trong cảnh ngàn cân treo sợi tóc.

Không chỉ có vậy, cuộc sống mới này xuất hiện trước mắt anh như thể một nhiệm vụ vừa mới bắt đầu, cũng thiêng liêng như chính vị vua sắp xuất hiện, cũng chắc chắn như sự giáng lâm của Người – trong đó bạo lực trở nên hợp thức chỉ vì nó là thứ không thể tránh khỏi. Vậy nên đúng lúc anh đang sắp sửa dấn thân vào nhiệm vụ đó, liệu tỏ ra e sợ có phải điều đúng đắn?

Anh cởi cái khăn quấn quanh hông, để đầu trần, vứt bỏ bộ áo choàng trắng kiểu Do Thái, chỉ bận bộ áo cộc không khác gì hai người kia, chuẩn bị sẵn sàng cả tinh thần và sức mạnh. Khoanh tay lại, anh dựa lưng vào cột, bình tĩnh chờ đợi.

Hai người kia không nhìn ngắm bức tượng lâu. Người phương Bắc ngoái lại nói câu gì đó bằng thứ tiếng lạ tại kia; rồi cả hai nhìn thẳng vào Ben-Hur. Họ trao đổi với nhau vài lời nữa rồi tiến tới chỗ anh.

“Các ngươi là ai?” Anh hỏi bằng tiếng Latin.

Người phương Bắc mỉm cười – nụ cười không khiến vẻ tàn bạo trên gương mặt anh ta giảm đi chút nào – và trả lời.

“Người mọi.”

“Đây là dinh thự Idernee. Các ngươi muốn tìm gặp ai? Hãy đứng lại mà trả lời.”

Anh nói những lời này đầy kiên quyết. Hai kẻ lạ mặt dừng lại, và người phương Bắc hỏi, “Ngươi là ai?”

“Một người La Mã.”

Gã khổng lồ ngửa đầu ra sau mà cười.

“Ha, ha, ha! Ta từng được nghe chuyện con bò liếm viên đá muối để sinh ra một vị thần như thế nào; nhưng thậm chí ngay cả một vị thần cũng chẳng thể biến một tên Do Thái thành một người La Mã được.”

Tràng cười kết thúc, anh ta lại nói gì đó với người đi cùng, và cả hai tiến lại gần hơn.

“Dừng lại!” Ben-Hur nói, rời khỏi chỗ cây cột. “Ta chỉ muốn nói một điều thôi.”

Họ đứng lại.

“Chỉ một lời!” Người Saxon đáp, khoanh hai cánh tay lực lưỡng trước ngực, gương mặt khủng khiếp hơi giãn ra. “Nói đi!”

“Anh là Thord người phương Bắc.”

Gã khổng lồ mở to đôi mắt xanh.

“Anh từng là một đấu sĩ ở Rome.”

Thord gật đầu.

“Tôi từng là học trò của anh.”

“Không,” Thord nói và lắc đầu. “Thề có bộ râu của Irmin, tôi chưa từng làm thầy của một người Do Thái.”

“Nhưng tôi sẽ chứng tỏ cho anh thấy.”

“Bằng cách nào?”

“Anh đến đây để giết tôi?”

“Đúng thế.”

“Vậy thì hãy để người kia đấu tay đôi với tôi, và tôi sẽ lấy mạng hắn để chứng tỏ cho anh thấy.”

Một thoáng bỡn cợt lướt qua gương mặt người phương Bắc. Anh ta trò chuyện với người đi cùng, rồi nói với vẻ ngây thơ như trẻ con.

“Chờ tới khi tôi nói bắt đầu.”

Anh ta dùng chân đẩy một cái ghế dài ra giữa phòng, sau đó thoải mái duỗi thân hình to lớn nằm lên đó. Khi đã xong xuôi, anh ta chỉ nói, “Bắt đầu.”

Không chần chừ, Ben-Hur tiến thẳng tới chỗ địch thủ.

“Thủ thế đi,” anh nói.

Người kia không sợ hãi co tay lên.

Khi hai người đối mặt nhau, giữa họ không có điểm khác biệt nào lớn, ngược lại, họ giống nhau cứ như hai anh em. Đối đầu với nụ cười ngạo nghễ của người kia là vẻ kiên định của Ben-Hur – điều mà nếu người kia biết trước thì hẳn đã coi đó là dấu hiệu nguy hiểm. Cả hai đều biết đây là trận đấu sinh tử.

Ben-Hur ra đòn gió bằng tay phải. Người kia đỡ, hơi đưa tay trái ra. Trước khi anh ta kịp thủ thế trở lại, Ben-Hur nắm chặt lấy cổ tay anh ta như gọng kìm với sức mạnh của bao năm tôi luyện trên chiến thuyền. Đối thủ của anh bị bất ngờ hoàn toàn, không kịp phản ứng. Ném địch thủ về phía trước, choàng cánh tay vào cổ anh ta qua vai phải, xoay về bên trái và phía trước, dùng tay trái nện một cú quyết định vào phần cổ để trần ngay dưới tai – tất cả đều chỉ như những chi tiết của một động tác duy nhất. Không cần phải ra đòn lần thứ hai nữa. Người myrmidon ngã vật xuống không kêu lên nổi tiếng nào, nằm bất động.

Ben-Hur xoay về phía Thord.

“Ha! Thật khó tin, thề có bộ râu của Irmin!” Người phương Bắc kêu lên kinh ngạc, ngồi nhổm dậy. Rồi anh ta bật cười.

“Ha, ha, ha! Chính tôi cũng chẳng thể làm gọn gàng hơn được.”

Anh ta bình thản nhìn Ben-Hur từ đầu đến chân, sau đó đứng dậy, tỏ vẻ ngưỡng mộ ra mặt.

“Đó đúng là mánh của tôi – mánh mà tôi đã luyện suốt mười năm trong những trường võ ở Rome. Anh không phải một người Do Thái. Anh là ai?”

“Anh biết nhị pháp quan Arrius chứ?”

“Quintus Arrius? Có chứ, ông ấy là người bảo trợ cho tôi.”

“Ông ấy có một người con trai.”

“Phải,” Thord nói, gương mặt thô bạo hơi sáng lên, “Tôi biết người ấy; nếu theo nghiệp thì anh ta hẳn sẽ trở thành vua của các đấu sĩ. Chính Caesar đã tỏ ý muốn bảo trợ cho anh. Tôi đã dạy cho anh ta chính đòn đánh mà anh vừa thực hiện đây – ngón đòn mà không ai thực hiện được nếu không có sức mạnh bàn tay và cánh tay như tôi. Nó đã giúp tôi giành vô số giải thưởng.”

“Tôi chính là người con của Arrius đây.”

Thord tiến lại gần hơn, nhìn anh thật kĩ; rồi mắt anh ta sáng lên sung sướng. Người phương Bắc bật cười và đưa bàn tay ra.

“Ha, ha, ha! Hắn đã nói với tôi rằng tôi sẽ tìm thấy một người Do Thái ở đây – một người Do Thái – một con chó Do Thái – mà nếu giết được người ấy tức là tôi đã làm được một việc lớn lao phụng sự các vị thần.”

“Ai nói với anh thế?” Ben-Hur hỏi và bắt tay người kia.

“Ha – Messala – ha, ha, ha!”

“Từ bao giờ, Thord?”

“Tối qua.”

“Tôi tưởng hắn bị thương.”

“Hắn sẽ không bao giờ đi được nữa. Hắn nói những điều đó với tôi giữa những tiếng gào thét trên giường bệnh.”

Quả là một bức tranh sống động về lòng căm thù được mô tả qua vài lời đơn giản; và Ben-Hur nhận thấy rằng một khi tay người La Mã ấy còn sống thì hắn vẫn có thể gây nguy hiểm, bám theo anh không rời. Khao khát trả thù vẫn còn đó để khiến cuộc đời tàn phế của hắn bớt đau khổ; và cũng bởi thế mà hắn cố giữ tài sản của mình dù đã thua cược Sanballat. Ben-Hur ngẫm nghĩ, chợt nhận ra vô số cách mà kẻ thù có thể ngăn chặn anh phụng sự nhà vua sắp xuất hiện. Tại sao anh lại không sử dụng chính những phương kế của người La Mã để chống lại chúng? Người được thuê để giết anh cũng có thể được thuê để chống lại chủ. Anh có đủ khả năng ra giá cao hơn. Sự cám dỗ quả là mạnh mẽ; và khi đã gần đầu hàng ý nghĩ ấy, anh nhìn địch thủ ban nãy của mình nằm im trên mặt đất, gương mặt trắng bệch ngửa lên, gần như giống hệt khuôn mặt anh. Một tia sáng chợt lóe lên trong tâm trí anh, và anh hỏi, “Thord, Messala trả cho anh bao nhiêu nếu giết được tôi?”

“Một nghìn sestertii.”

“Anh sẽ nhận được món tiền đó; và nếu làm theo lời tôi anh sẽ được nhận thêm ba nghìn nữa.”

Người khổng lồ nói ra những gì mình đang nghĩ.

“Tôi đã giành được năm nghìn ngày hôm qua; thêm một nghìn từ người La Mã đó. Hãy trả cho tôi bốn nghìn nữa, Arrius cao quý – thêm bốn nghìn nữa – thì chính tôi sẽ ra tay bảo vệ anh, dù Thor(*) – vị thần mà tôi được đặt tên theo – có giáng cây búa xuống đầu tôi đi nữa. Hãy trả tôi thêm bốn nghìn, và tự tay tôi sẽ giết gã quý tộc tàn phế đó nếu anh muốn. Tôi chỉ cần đưa một bàn tay bịt mồm hắn... thế là xong.”

Anh ta minh họa việc ấy bằng cách đặt tay lên miệng mình.

“Tôi hiểu,” Ben-Hur nói; “mười nghìn sestertii quả là một gia tài. Nó sẽ giúp anh có thể trở về Rome, mở một quán rượu gần Đấu Trường, để sống xứng đáng như một đấu sĩ hàng đầu.”

Những vết sẹo trên gương mặt của người khổng lồ như sáng lên vì sung sướng trước viễn cảnh mà Ben-Hur vẽ ra.

“Tôi sẽ trả cho anh bốn nghìn,” Ben-Hur nói tiếp; “và bàn tay anh thậm chí không cần phải vấy máu để nhận được món tiền đó, Thord ạ. Hãy nghĩ cho kĩ đây. Người bạn của anh đây trông có giống tôi không?”

“Tôi thấy không khác gì hai quả táo trên cùng một cây vậy.”

“Vậy thì nếu tôi mặc bộ áo cộc của hắn, sau đó mặc cho hắn quần áo của tôi, sau đó tôi và anh chia tay nhau, để lại hắn ở đây, chẳng phải anh vẫn sẽ được nhận tiền thưởng từ Messala hay sao? Anh chỉ cần thuyết phục hắn tin rằng tôi đã chết mà thôi.”

Thord cười phá lên đến nỗi nước mắt chảy cả xuống miệng.

“Ha, ha, ha! Chưa bao giờ kiếm mười nghìn sestertii lại dễ dàng đến thế. Một quán rượu cạnh đấu trường! Tất cả chỉ cần một lời nói dối mà không cần giết ai! Ha, ha, ha! Hãy đưa tay anh cho tôi, hỡi người con của Arrius. Hãy cùng tiến hành thôi, và – ha, ha, ha! Nếu có khi nào đến Rome, đừng quên tìm đến quán rượu của Thord người phương Bắc. Thề có bộ râu của Irmin, tôi sẽ đãi anh thứ rượu tuyệt hảo nhất, dù có phải mượn của Caesar đi chăng nữa!”

Họ bắt tay lần nữa, và sau đó tiến hành đổi quần áo. Họ thỏa thuận tối nay một người đưa tin sẽ tới nơi ở của Thord mang theo bốn nghìn sestertii. Khi đã xong xuôi, người khổng lồ gõ lên cửa trước; nó mở ra, và khi bước ra ngoài anh ta dẫn theo cả Ben-Hur sang một căn phòng kế bên, nơi Ben-Hur bận lên mình bộ quần áo thô của kẻ ám sát anh. Họ chia tay nhau ở chỗ tượng đài Omphalus.

“Đừng quên nhé, người con của Arrius, đừng quên quán rượu nằm cạnh đấu trường! Ha, ha, ha! Thề có bộ râu của Irmin, chưa bao giờ kiếm được cả một gia tài lại dễ dàng đến thế. Mong các vị thần phù hộ cho anh!”

Khi rời khỏi gian sảnh, Ben-Hur nhìn lại một lần cuối cùng người myrmidon nằm đó trong bộ y phục Do Thái, và cảm thấy hài lòng. Hai người quả là giống nhau đến mức khó mà phân biệt nổi. Nếu Thord giữ lời hứa, cú lừa này sẽ được giữ bí mật vĩnh viễn.

Vào buổi tối, trong căn nhà của Simonides, Ben-Hur kể lại cho ông nghe tất cả những chuyện xảy ra trong dinh thự Idernee; và họ nhất trí rằng sau vài ngày nữa, họ sẽ báo cho chính quyền rằng đã tìm thấy xác người con của Arrius. Sự việc rồi sẽ đến tại Maxentius; và khi đó nếu mọi chuyện vẫn được giữ bí mật, hẳn Messala và Gratus sẽ lấy làm hài lòng thấy kế hoạch đã xong xuôi, trong khi Ben-Hur sẽ được thoải mái đến Jerusalem để tìm lại gia đình mình.

Sau lời chào từ biệt, Simonides ngồi trên chiếc xe lăn trên sân thượng nhìn ra dòng sông để đưa tiễn và chúc phúc hệt như cha của anh vậy. Esther đi cùng với chàng trai trẻ tới đầu cầu thang.

“Nếu anh tìm thấy mẹ, Esther, em hãy đến ở với bà ở Jerusalem và đối xử với Tirzah như chị em của mình.”

Sau khi nói những lời đó, anh hôn cô.

Đó có phải chỉ là một nụ hôn chúc phúc không?

Anh băng qua dòng sông tới nơi mà Ilderim trước đây từng đóng trại, và anh tìm thấy người Arab đã được phái đến dẫn đường cho anh. Những con ngựa được mang ra.

“Đây là ngựa của anh,” người Arab nói.

Ben-Hur nhìn sang, và kìa! Chính là Aldebaran, con ngựa nhanh nhất và thông minh nhất trong số các con của Mira, và ngoài Sirius chính là con được vị tộc trưởng yêu quý nhất. Mối chân tình của ông già Arab dành cho anh được trao gửi hết qua món quà này.

Cái xác trong dinh thự được mang đi chôn cất trong đêm; và theo đúng kế hoạch của Messala, một người đưa thư được phái tới báo cho Gratus yên tâm rằng lần này Ben-Hur chắc chắn là đã chết, không còn gì phải nghi ngờ nữa.

Không lâu sau, một quán rượu được mở gần đấu trường Maximus, với dòng chữ ghi trên cánh cửa:

THORD NGƯỜI PHƯƠNG BẮC.