CHƯƠNG 8
Trước vụ phá sản và chuyển nhượng tờ báo, tôi đã nghe được một câu chuyện kỳ thú về một gia đình trong vùng. Ông Bớt chẳng hề viết bài về nó vì cần điều tra đôi chút và phải cất công băng qua phía bên kia đường ray.
Nhưng giờ tờ báo đã vào tay mình, nên tôi quyết định câu chuyện này quá hay không thể bỏ lỡ được.
Ở Hạ trấn, khu của dân da màu, có một cặp vợ chồng kỳ lạ, Calia và Esau Ruffin. Họ đã cưới nhau hơn 40 năm và có tám người con, bảy trong số đó có bằng tiến sĩ và đang làm giáo sư đại học. Người còn lại thì không ai rõ làm gì, dù theo lời Margaret thì cậu ấy tên Sam và đang lẩn trốn pháp luật.
Tôi gọi đến nhà họ và bà Ruffin nghe máy. Tôi giới thiệu bản thân, nói ra ý định của mình, thấy có vẻ bà biết khá rõ về tôi. Bà nói đã đọc tờ Thời báo 50 năm rồi, đọc từ đầu đến cuối, đọc hết, kể cả các mục cáo phó và quảng cáo thông báo, rồi sau một hồi, bà bảo là rất mừng khi giờ tờ báo đang nằm trong tay người giỏi giang hơn. Những bài báo dài hơn, ít lỗi hơn, nhiều tin tức hơn. Bà nói chậm rãi, rõ ràng, với cách chọn từ chuẩn mực mà tôi chưa hề được nghe kể từ khi rời Syracuse.
Khi chuyện trò vui vẻ rồi, tôi cảm ơn bà và nói muốn được gặp gỡ nói chuyện về gia đình phi thường của bà. Bà rất tự hào và nhất quyết mời tôi ghé nhà bà ăn trưa.
Và thế là mở đầu một tình bạn lạ thường đã mở mang tâm mắt cho tôi về rất nhiều thứ, một trong số đó là nền ẩm thực miền Nam.
Mẹ tôi mất năm tôi 13 tuổi. Bà bị chứng biếng ăn đến nỗi lúc khiêng quan tài bà chỉ cần bốn người là đủ. Bà chưa đến 45 cân và trông như thây ma. Chứng biếng ăn không phải là vấn đề duy nhất của bà.
Vì không ăn nên bà chẳng nấu. Tôi chẳng nhớ nổi mẹ từng nấu bữa ăn nóng nào cho tôi. Bữa sáng là một bát ngũ cốc Cheerios, bữa trưa là sandwich lạnh, bữa tối là một đống hổ lốn mấy thứ đông lạnh mà tôi vừa ăn vừa xem phim một mình. Tôi là con một và bố tôi chẳng bao giờ ở nhà, dù cho thế cũng khỏe vì hễ bố tôi về nhà là hai người lại cãi nhau ầm ĩ. Bố thì muốn ăn, mẹ thì không. Họ bất hòa về mọi thứ.
Tôi vẫn có đủ ăn, trong bếp lúc nào chẳng có bơ đậu, ngũ cốc gì đó. Thỉnh thoảng tôi ăn ở nhà bà và luôn tò mò không biết những gia đình thực sự nấu ăn thế nào và ngồi chung với nhau bên bàn ăn trong bao lâu. Trong nhà tôi, chuyện ăn uống chẳng bao giờ là chuyện quan trọng.
Đến tuổi thiếu niên, tôi sống nhờ vào mấy món đông lạnh. Ở Syracuse thì sống bằng bia và pizza. Suốt 23 năm cuộc đời, tôi chỉ ăn vì đói. Và ở Clanton này, tôi đã biết làm thế là sai, sai quá rồi. Ở miền Nam, ăn uống chẳng mấy liên quan đến cái bụng đói.
Nhà Ruffin ở khu đẹp hơn của Hạ trấn, nằm trong dãy nhà ống có sơn quét và được giữ gìn sạch sẽ. Ở đây, địa chỉ nhà được viết trên các hộp thư, và khi vào một khúc cua, tôi bất giác mỉm cười vì thấy dãy hàng rào trắng với những khóm hoa mẫu đơn và diên vĩ. Giờ đang là đầu tháng 4, tôi cho hạ mui chiếc Spitfire xuống và vừa lúc đó bỗng ngửi thấy một mùi thơm ngon lành. Sườn nướng Calia Ruffin đứng đón tôi ở cánh cổng quay mở vào bãi cỏ sân trước chỉn chu của bà. Bà đẫy đà, vai rộng, với cái bắt tay chặt như đàn ông. Mái tóc muối tiêu thể hiện gánh nặng của việc nuôi dạy tám người con, nhưng mỗi khi cười, mà bà cười suốt, bà lại khiến khung cảnh sáng bừng với hai hàm răng trắng bóng hoàn hảo. Tôi chưa hề thấy hàm răng nào như thế.
Vừa dẫn tôi vào, bà vừa nói, “Thật mừng vì anh đến.” Tôi cũng mừng như vậy. Lúc đó mặt trời đã điểm ngọ. Theo thói quen, đến giờ tôi vẫn chưa ăn gì, và mùi hương phảng phất ở hiên trước khiến tôi hơi choáng.
“Nhà đẹp quá,” tôi nói, mắt nhìn chăm chú vào mặt tiền ngôi nhà. Nhà này làm bằng ván ghép và phủ một màu trắng bóng như thể chủ nhân thường xuyên sơn đi sơn lại đều đặn vậy. Hiên trước được che phủ với mái vòm bằng tôn xanh lục.
“Trời, cảm ơn anh. Nhà tôi mua nó được 30 năm rồi.”
Tôi biết là hầu hết nhà cửa ở Hạ trấn đều thuộc sở hữu của các chủ đất da trắng ở bên kia đường ray. Sở hữu một ngôi nhà là thành tựu hiếm có của một người da đen vào những năm 1970.
“Ai làm vườn cho bà vậy?” Tôi hỏi bâng quơ khi dừng lại ngửi một bông hồng vàng. Hoa ở khắp nơi, dọc lối đi, trên mái vòm, hai bên bờ rào. “Hẳn là tôi rồi,” bà nói và nở nụ cười trắng bóng trong ánh mặt trời.
Bước ba bậc cầu thang lên hiên trước là tôi ngỡ ngàng. Một chiếc bàn nhỏ được chuẩn bị sẵn cho hai người ngồi, với khăn trải bàn trắng, khăn ăn trắng, một bình hoa nhỏ, một bình trà đá và ít nhất là bốn chiếc thố được đậy nắp.
“Bà sắp có khách à?” tôi hỏi.
“Ồ, chỉ có anh và tôi thôi. Esau có lẽ lát nữa mới về.”
“Chừng này đồ ăn đủ cho cả đạo quân đấy.” Tôi hít lấy hít để và bụng cồn cào đòi ăn.
“Ăn thôi nào,” bà Calia bảo, “không thì nó nguội mất.”
Tôi cố kiềm chế, bước thong thả đến bàn, kéo ghế cho bà ấy. Bà rất vui khi tôi lịch thiệp đến vậy. Tôi về chỗ của mình, đang chuẩn bị mở nắp và cắm đầu vào đĩa thì bà Calia cầm lấy hai tay tôi và cúi đầu. Rồi bà bắt đầu cầu nguyện, một lời cầu nguyện hơi dài. Bà tạ ơn Chúa vì mọi sự tốt đẹp mình có, kể cả “người bạn mới” là tôi đây. Bà cầu cho những người bị bệnh và cả những người có thể bị bệnh. Bà cầu nguyện xin mưa nắng thuận hòa, sức khỏe, khiêm nhượng và kiên nhẫn, và dù tôi bắt đầu nôn nao sợ đồ ăn nguội mất nhưng vẫn cảm nhận được giọng nói đầy lôi cuốn của bà. Bà nói chậm rãi, từng chữ nói ra đều có cân nhắc. Vốn từ lại hoàn hảo, mọi phụ âm đều rõ ràng, mọi quãng ngắt chấm phết đâu vào đấy. Tôi phải hé mắt nhìn để đảm bảo mình không mơ. Ở miền Nam này, tôi chưa hề nghe người da đen nào nói như vậy, thậm chí người da trắng cũng không.
Tôi lại hé mắt lần nữa. Bà đang thưa chuyện với Chúa, và gương mặt bà thể hiện sự mãn nguyện vô cùng. Trong vài giây, tôi bỗng quên hết đống đồ ăn trước mặt. Bà nắm chặt tay tôi khi thân thưa cùng Đấng Toàn Năng với những lời nói và cung giọng chỉ có thể có được nhờ nhiều năm cầu nguyện. Bà trích cả Kinh Thánh, chắc chắn là bản Vua James, và tôi cũng thấy hơi kỳ khi nghe bà dùng những cổ ngữ vốn đã không còn thông dụng trong xã giao. Nhưng bà hiểu rõ từng lời mình nói. Được nắm chặt trong đôi tay của người phụ nữ thánh thiện này, tôi cảm thấy mình đang gần Chúa hơn bao giờ hết.
Tôi chẳng thể hình dung nổi một màn thờ kính dài đến thế trên bàn ăn với tám người con. Nhưng tôi cũng cảm thấy rằng khi Calia Ruffin cầu nguyện thì mọi người xung quanh đều bình tâm thinh lặng.
Cuối cùng, bà kết lời cầu với một đoạn dài đầy hoa mỹ xin tha thứ cho mọi tội của bà, dù bản thân tôi thấy chắc cũng chẳng có bao nhiêu, bà còn xin Chúa tha thứ cho tội của tôi nữa.
Rồi bà thả tay tôi ra, mở nắp mấy cái thố nhỏ. Cái đầu tiên là sườn nướng với thứ nước sốt nấu bằng nhiều gia vị, dù tôi chỉ nhận biết được có mỗi hành và tiêu. Hơi bốc lên mặt tôi khiến tôi thèm đến nỗi muốn lấy tay bốc mà ăn cho nhanh cho rồi. Thố thứ hai là bắp nấu với ớt chuông xanh, vẫn còn nóng như vừa lấy từ lò ra. Thêm một đĩa đậu bắp luộc, và bà giải thích là khi chuẩn bị bữa này, bà thấy nó thì hay hơn là khoai tây chiên vì bà lo ngại như thế sẽ hấp thụ nhiều dầu mỡ quá. Hồi nhỏ bà được dạy là món gì cũng phải nghiền và chiên, từ cà chua cho đến đồ dầm, nhưng rồi bà nhận ra làm kiểu đó không được lành mạnh cho lắm. Còn có đậu lima, không nghiền cũng không chiên, mà được hầm với giò heo. Và cuối cùng là một đĩa gỗ đựng cà chua chín trộn ớt chuông và dầu ô liu. Bà bắt đầu kể cho tôi biết là ở đây, ngoài bà ra, không mấy người dùng dầu ô liu. Tôi chăm chú nghe từng lời của bà khi bà bắt đầu múc đồ ăn vào đĩa cho tôi.
Một người con trai của bà sống ở Milwaukee gửi dầu ô liu loại tốt cho bà, vì ở Clanton chẳng ai bán thứ đó.
Bà xin lỗi vì số cà chua này là mua ở cửa hàng, cà chua nhà bà vẫn còn xanh, phải đến hè mới chín được. Còn bắp, đậu bắp và đậu lima được trữ lại từ vụ mùa của vườn bà hồi tháng 8 năm ngoái. Thật sự, món rau “tươi” duy nhất là cải búp hái từ vườn nhà.
Ở ngăn lõm chính giữa bàn là một chảo đen nhỏ, và khi bà kéo chiếc khăn ăn che nó ra, thì trong đó có ít nhất hai ký bánh bắp nóng hổi. Bà lấy một miếng to đặt vào đĩa của tôi và nói, “đây, mời anh khai vị.” Tôi chưa hề ngồi trước bàn ăn nào nhiều đồ ăn thế này, và bữa tiệc thịnh soạn nhất đời tôi bắt đầu.
Tôi đã cố ăn chậm rãi, nhưng đành chịu. Tôi mang bụng đói đến đây, và với mùi hương hoa cỏ và chiếc bàn đẹp đẽ, cùng bài tạ ơn khá dài, bài mô tả các món đến từng chi tiết, tôi đã đói đến mức không còn kìm hãm nổi rồi. Tôi cặm cụi ăn còn bà Calia thì sẵn lòng lo hết phần chuyện trò.
Bà kể cho tôi là hầu hết thực phẩm đều lấy từ vườn nhà. Bà và chồng đã trồng bốn loại cà chua, đậu lima, đậu cô ve, đậu trắng, dưa chuột, cà tím, bí ngô, cải búp, cải ngựa, củ cải, hành tây vidalia, hành tây vàng, hành lá, cải bắp, đậu bắp, khoai tây đỏ, khoai tây nâu, cà rốt, củ cải đường, bắp, ớt chuông xanh, dưa vàng, hai loại dưa hấu khác nhau, và vài thứ khác nữa mà tạm thời bà không nhớ hết. Sườn heo lấy từ nhà anh bà, hiện đang sống ở ngôi nhà cũ của gia đình ở miền quê. Mỗi mùa đông, ông mổ hai con heo gửi cho bà để cho vào tủ đông ăn dần. Đổi lại, bà đều đặn gửi rau củ tươi cho ông.
“Chúng tôi không dùng hóa chất,” bà vừa nói vừa nhìn tôi đang ăn lấy ăn để. “Mọi thứ đều tự nhiên.”
Miệng tôi bảo đảm chắc chắn là thế rồi.
“Nhưng đều là đồ trữ lại, từ mùa đông. Nếu vào mùa hè, sẽ có đồ tươi mới hái vài tiếng, ngon hơn nhiều. Lúc đó, anh đến ăn cùng chứ, anh Traynor?”
Tôi gật đầu và nói ấp úng qua cái miệng đầy thức ăn, nhưng cũng đủ để bà hiểu là hễ bà mời tôi sẽ tới ngay.
“Anh muốn xem khu vườn nhà tôi không?” bà hỏi.
Tôi lại gật đầu, cái miệng giờ chứa nhiều thứ quá, không nói được nữa rồi.
“Tốt. Vườn ngay sau nhà thôi. Tôi sẽ hái cho anh một ít xà lách và đậu. Chúng ngon lắm."
“Tuyệt,” cuối cùng tôi cũng cố chừa hơi nói được một chữ. “Tôi cho là một người độc thân như anh cần mọi sự giúp đỡ có thể đấy.”
“Sao bà biết tôi độc thân?” Tôi nhấp một ngụm trà. Có lẽ trà này để tráng miệng, ngọt quá.
“Dân tình bàn tán về anh mãi mà. Ở Clanton chuyện gì người ta cũng biết, dù là bên này hay bên kia đường ray cũng thế.”
“Vậy bà còn nghe chuyện gì nữa?”
“Để xem nào. Anh thuê trọ ở nhà Hocutt. Anh đến từ miền Bắc.”
"Memphis."
“Xa thế à?”
“Cách đây một tiếng thôi mà.”
“Tôi đùa thôi. Một con gái của tôi đã học đại học ở đó.”
Tôi có rất nhiều câu muốn hỏi về các con bà, nhưng lại chưa sẵn sàng cất thìa nĩa để cầm giấy bút. Có lúc tôi gọi bà là cô Calia, thay vì cô Ruffin.
“Gọi là Callie đi,” bà bảo, “Callie là được rồi.” Một trong những thói quen tôi học được ở Clanton là khi nói chuyện với phụ nữ, bất kể tuổi tác, phải kèm từ “cô” vào trước. Nếu mới quen biết vài năm thì dùng họ, gọi là cô Brown, cô Webster. Và dùng tên, cô Martha, cô Sara, nếu là người trẻ tuổi. Gọi như thế chứng tỏ là người hào hiệp và có dạy dỗ, và vì tôi chưa được công nhận có cả hai cái đó, nên phải cố theo lề thói của dân ở đây hết sức có thể.
“Cái tên Calia là gốc ở đâu vậy?” tôi hỏi.
“Tên Ý đấy,” bà nói xong rồi thôi, như thể vậy là đủ, rồi cúi xuống ăn đậu lima. Tôi cũng ăn một miếng sườn, xong lại hỏi tiếp, “Tên Ý à?”
“Phải, đấy là tiếng mẹ đẻ của tôi. Chuyện dài lắm. Họ thật sự muốn đốt tòa soạn à?”
“Đúng thế,” tôi trả lời, nhưng trong lòng thắc mắc sao một bà da đen ở nông thôn Mississippi lại bảo tiếng mẹ đẻ của bà là tiếng Ý nhỉ.
“Và họ còn đánh ông Meek?”
“Phải.”
“Họ là ai?”
“Chúng tôi chưa biết. Cảnh sát trưởng Coley đang điều tra.” Nói xong, tôi hồi hộp chờ xem phản ứng của bà với cảnh sát trưởng như thế nào. Trong lúc chờ đợi, tôi lại xử tiếp một miếng bánh bắp, bơ chảy ra đầy cằm.
“Ông ta làm cảnh sát trưởng cũng hơi lâu rồi nhỉ?”
Bà hỏi thế, nhưng tôi tin chắc là bà biết chính xác Mackey Don Coley lần đầu nhậm chức vào năm nào. “Bà nghĩ sao về ông ta?” tôi hỏi.
Bà nhấp một chút trà rồi ngẫm nghĩ. Bà Callie không hấp tấp trả lời, nhất là khi chuyện nói về người khác. “Ở phía bên này đường ray, cảnh sát trưởng là người giữ cho đám bài bạc, buôn rượu lậu và ma cô dắt gái tránh xa dân lành. Về mặt đó, ông Coley làm tốt.”
“Cho tôi hỏi bà một chuyện được không?”
“Chắc chắn rồi. Anh là phóng viên mà.”
“Bà nói chuyện rất rành mạch và chuẩn xác. Tôi không biết nền học vấn của bà đến đâu nữa?” Đây là một câu hỏi nhạy cảm trong một xã hội mà cả trăm năm qua chẳng đặt nặng vấn đề giáo dục. Đang là năm 1970, và Mississippi vẫn chưa có nhà trẻ công, cũng không có quy chế phổ cập giáo dục.
Nhưng bà Callie bật cười, một lần nữa cho tôi ngắm hàng răng trắng bóng đẹp đẽ. “Tôi đã học hết lớp 9, anh Traynor à.”
“Lớp 9 á?”
“Phải, nhưng chuyện của tôi hơi khác. Tôi có một gia sư tuyệt vời. Đấy lại là một câu chuyện dài khác nữa.”
Tôi bắt đầu nhận ra rằng những “câu chuyện dài” của bà Callie chắc phải vài tháng, hay thậm chí vài năm mới kể hết, và tôi sẽ được thong thả lắng nghe qua những buổi tiệc trưa cuối tuần ngay trên mái hiên này.
“Chuyện đó để sau hẵng kể nhé,” bà nói. “Ông Caudle thế nào rồi?”
“Không khỏe lắm. Ông ấy cứ ru rú trong nhà thôi.”
“Ông ấy là người tử tế. Lúc nào cũng thân thiết với cộng đồng da đen. Một con người can đảm cực kỳ.”
Tôi nghĩ cái “can đảm” của ông Bớt nằm ở chỗ mở rộng phạm vi của mục cáo phó hơn là mong muốn đối xử công bằng cho tất cả mọi người. Nhưng tôi cũng biết được rằng chuyện tang lễ rất quan trọng với người da đen, khi họ thường để quan tài cả tuần kèm một loạt lễ cầu hồn, quan tài mở nắp cho mọi người viếng, tiếng tỉ tê khóc thương không dứt, cũng như cuộc rước linh cữu dài cả cây số và cuối cùng là lễ tiễn biệt bên phần mộ đầy xúc động. Khi ông Bớt trở nên cấp tiến, mở mục cáo phó cho cả người da đen, tự nhiên ông đã thành anh hùng trong lòng dân Hạ trấn.
“Ông ấy là người tốt,” tôi vừa nói vừa với tay lấy miếng sườn thứ ba. Miệng tôi đã bắt đầu mỏi, nhưng trên bàn còn nhiều đồ ăn quá!
“Những bài cáo phó anh đăng đang khiến ông ấy tự hào đấy,” bà nói và mỉm cười nồng hậu với tôi.
“Cảm ơn bà. Tôi vẫn còn phải học hỏi nhiều.”
“Anh cũng có can đảm nữa, anh Traynor à.”
“Bà cứ gọi tôi là Willie được không? Tôi mới 23 tuổi thôi.”
“Tôi thích gọi là anh Traynor hơn.” Và bà muốn thế thì phải thế rồi. Phải mất vài năm, bà mới quen dần và chịu gọi tôi bằng tên thay vì họ.
“Anh chẳng sợ nhà Padgitt,” bà nói thẳng ra luôn. Cái này là chuyện lạ với tôi.
“Việc của nhà báo là thế mà,” tôi đáp.
“Anh có nghĩ chuyện đe dọa sẽ tiếp diễn không?”
“Có lẽ là có. Họ đã quen muốn gì được nấy. Họ bạo lực, nhẫn tâm, nhưng một tờ báo tự do thì phải kiên cường trước đe dọa.” Tôi nói mà chẳng tin nổi lời mình. Thêm một quả bom hay một vụ tấn công nữa, là tôi chuồn về Memphis ngay lập tức.
Bà ngừng nĩa và đưa mắt nhìn bâng quơ ra phía đường. Bà đang trầm ngâm suy nghĩ gì đó. Còn tôi, dĩ nhiên, vẫn cắm cúi ăn.
Cuối cùng, bà mới buột miệng, “Tội cho mấy đứa nhỏ, khi phải thấy mẹ chúng như thế.”
Hình ảnh đó khiến tôi phải dừng nĩa. Tôi chùi miệng, hít một hơi dài, để tiếng gọi đồ ăn thinh lặng trong giây lát. Người dân Clanton không biết rõ cảnh tượng hiện trường tội ác khủng khiếp đến đâu, họ chỉ biết hình dung, đoán mò, và xôn xao bàn tán với nhau. Như thường lệ, những lời đồn rỉ tai lan nhanh như lửa cháy, tam sao thất bản, rồi lại lan tiếp. Tôi tò mò không biết ở Hạ trấn, người ta rỉ tai nhau thế nào. “Bà đã nói là bà đọc tờ Thời báo suốt 50 năm rồi,” tôi nói qua tiếng ợ hơi.
“Đúng thế.”
“Bà có nhớ được có vụ án nào tàn bạo hơn vụ này không?”
Bà ngừng một giây như thể đang lục lọi 50 năm ký ức, rồi chầm chậm lắc đầu. “Không.”
“Bà từng gặp ai nhà Padgitt chưa?”
“Chưa. Họ ở lì trên cồn, lúc nào chẳng thế. Người da đen làm cho họ cũng thế, ở lì trên đó, chế whisky, làm tà thuật, đủ trò ngớ ngẩn.”
“Tà thuật à?”
“Phải, ở bên này đường ray, ai cũng biết chuyện đó. Dân ở đây chẳng ai dám kiếm chuyện với dân da đen của nhà Padgitt, chưa hề.”
“Dân ở bên này đường ray có tin Danny Padgitt đã hiếp giết cô ấy không?”
“Những ai đọc báo của anh chắc chắn sẽ tin vậy.”
Bà Calia không biết câu đó của bà giá trị với tôi đến thế nào đâu. “Chúng tôi chỉ đưa tin chuyện thật thôi mà,” tôi hãnh diện đáp lời. “Anh ta bị bắt, đã bị khởi tố, và đang chờ ra tòa.”
“Có khả năng anh ta vô tội không?”
Tôi bất ngờ lúng túng trước câu hỏi này. “Dĩ nhiên là có.”
“Anh có nghĩ đăng báo với tấm ảnh anh ta bị còng tay, áo dính máu, là công bằng không?” Tôi choáng váng trước ý niệm công bằng của bà. Tại sao mà bà, hay bất kỳ người da đen nào khác ở Hạt Ford, lại quan tâm liệu Danny Padgitt có được đối xử công bằng hay không chứ? Đâu mấy người bận tâm chuyện các bị cáo da đen có được đối xử tử tế trong tay cảnh sát và báo giới.
“Anh ta có vết máu trên áo khi vào trại giam. Chúng tôi đâu thêm thắt gì.” Cả hai chúng tôi đều không vui vẻ gì mấy với câu chuyện này. Tôi nhấp một ngụm trà mà gần như không nuốt xuống nổi. Bụng tôi hết chỗ rồi.
Bà nhìn tôi, mỉm cười, lại còn đánh bạo hỏi thêm, “Tráng miệng nhé? Tôi có bánh pudding chuối đây.”
Tôi có thể từ chối, đằng nào tôi cũng không ăn nổi thêm miếng nào nữa rồi, nhưng thỏa hiệp một chút thì hơn. “Hay ta chờ một lát, cho bụng dạ đằm lại đã.”
“Vậy thì uống chút trà nhé,” bà vừa nói vừa chêm trà vào ly tôi. Bây giờ hít thở còn khó nữa là, nên tôi ngả hết người ra ghế và quyết định bắt đầu vào vai nhà báo một cách nghiêm túc. Bà Callie, vốn ăn ít hơn tôi nhiều, giờ đang ngồi ăn cho xong phần đậu bắp.
Theo Baggy, Sam Ruffin là học sinh da đen đầu tiên đăng ký học ở các trường dành cho người da trắng ở Clanton. Chuyện đó từ hồi năm 1964, khi Sam học lớp 7, 12 tuổi, và đó hẳn là một trải nghiệm khó khăn đối với bất kỳ ai, với Sam lại càng khó khăn hơn nữa. Baggy từng cảnh báo tôi là có lẽ bà Callie sẽ không nói về cậu con út đâu. Hiện cậu đang bị treo thưởng lấy đầu và đã bỏ trốn khỏi vùng. Ban đầu, bà có hơi ngần ngại. Năm 1963, tòa đã tuyên rằng trường công da trắng không được phép từ chối học sinh da đen, dù cho thời đó, quy định trường đa dạng chủng tộc vẫn chưa được áp dụng. Sam là con út, và vợ chồng bà quyết định cho cậu học trường da trắng với hy vọng các gia đình da đen khác cũng sẽ làm như họ. Nhưng lại không như vậy, và suốt hai năm, Sam là học sinh da đen duy nhất ở Trường Trung học Cơ sở Clanton. Cậu đã bị giày vò và đánh đập, nhưng cậu nhanh chóng biết cách dùng nắm đấm của mình và dần dần không còn bị bắt nạt nữa. Cậu đã nài xin bố mẹ cho về học lại ở trường da đen, nhưng họ vẫn không dao động, kể cả khi cậu chuyển lên trường cấp 3. Họ thấy nhẹ nhõm khi cuộc đấu tranh xóa bỏ phân tách chủng tộc trong nhà trường lan mạnh ở miền Nam và người da đen tiếp tục được hứa hẹn rằng thành tựu của vụ Brown kiện Bộ Giáo dục sẽ tiếp tục được phát triển.
Thế nhưng, bà Caila phải buồn rầu kể, “Thật khó để tin rằng đến năm 1970 này mà trường ở đây vẫn phân chia da đen da trắng.” Các vụ kiện liên bang và quyết định từ tòa án được ban ra tới tấp khi người da trắng phản đối khắp miền Nam, nhưng Mississippi này như chiến tuyến cuối cùng của họ. Hầu hết những người tôi quen biết ở Clanton đều tin chắc rằng trường học phải phân rạch ròi theo màu da. Tôi, một dân miền Bắc ở Memphis, có thể nhận ra chuyện gì đang diễn ra ở đây. “Bà có hối tiếc vì đã cho Sam học ở một trường da trắng không?”
“Có và không. Phải có người dám can đảm đi bước đầu tiên chứ. Tôi rất đau lòng khi biết nó buồn, nhưng chúng tôi phải giữ lập trường. Chúng tôi không sẽ không thoái lui.”
“Hiện giờ cậu ấy thế nào?”
“Sam là một chuyện khác hẳn, anh Traynor à, một chuyện để sau rồi tôi kể, mà có khi cũng không. Anh muốn đi xem vườn nhà tôi chứ?”
Câu đó như một mệnh lệnh hơn lời mời. Tôi bèn theo bà ra sau nhà, dọc theo một hành lang hẹp với dãy ảnh đóng khung chụp con cháu của bà. Trong nhà cũng gọn gàng ngăn nắp như bên ngoài. Căn bếp mở ra hiên sau, và vườn địa đàng trải dài từ đó đến tận hàng rào hậu. Không một phân đất nào bị bỏ không.
Khung cảnh trước mắt tôi như hình trong một tấm bưu thiếp, với đủ loại sắc màu, những luống cây trồng gọn gàng đâu vào đấy, những lối đi nhỏ xen kẽ giữa chúng để vợ chồng bà đi chăm gia sản tuyệt vời của mình.
“Bà làm gì với chừng này thực phẩm vậy?” Tôi kinh ngạc hỏi.
“Ăn một phần, bán một ít, chủ yếu là đi cho. Ở đây không ai phải đói.” Nghe đến đó, tôi bỗng thấy chột dạ. Thiếu đói là thứ tôi chưa hề biết bao giờ. Tôi theo bà ra vườn, đi chầm chậm giữa các lối nhỏ, nhìn theo tay bà đang chỉ các loại thảo mộc, dưa, và đủ thứ trái cây, rau củ ngon lành mà vợ chồng bà chăm sóc tận tình. Bà giải thích cho tôi về mọi loại cây, thậm chí cả thứ cỏ dại mà bà bực mình nhổ đi và vứt vào gốc dây leo nào đấy. Có vẻ bà không thể nào đi qua khu vườn này mà không bao quát hết mọi thứ dù là nhỏ nhất. Bà đưa mắt tìm côn trùng, giết một con sâu xanh đang bám vào dây cà chua, tìm cỏ dại, ghi chú về các việc cần nhờ chồng làm.
Chuyến dạo vườn này thật sự giúp tôi mở mang tầm mắt về thực phẩm. Cái đầu ngốc nghếch của tôi giờ mới biết rau củ được trồng như thế này. Biết sao được, tôi là trẻ thành thị mà, cả đời chưa hề đặt chân vào vườn rau nào. Tôi muốn hỏi nhiều lắm, toàn những câu sẽ bị xem là ngớ ngẩn thôi, nên cố kìm lại.
Bà đang xem xét một bụi bắp, và có vẻ không mấy hài lòng. Bà hái một quả đậu cô ve, bẻ ra, xem xét nó như một nhà khoa học, rồi đưa ra ý kiến thận trọng là chúng cần thêm ánh nắng. Bà thấy một đám cỏ dại, và cho tôi biết là sẽ bảo chồng bà nhổ nó đi ngay khi ông về đến nhà. Tội cho ông Esau thật.
Sau ba tiếng ở nhà Ruffin, tôi cáo từ sau khi nhồi thêm mớ bánh pudding chuối vào bụng, cầm trên tay một túi cải búp mà tôi chẳng biết phải làm gì với nó và một vài thông tin quý báu để viết báo. Tôi còn nhận lời mời ghé lại ăn trưa vào thứ Năm tuần sau và một danh sách viết tay các lỗi bà Callie tìm được trên số báo tuần đó. Hầu hết là lỗi in và chính tả, tổng cộng 12 lỗi. Dưới thời ông Bớt, trung bình mỗi số báo phải có đến 20 lỗi, giờ đã bớt đi phân nửa rồi. Bà Calia cho biết đây là thói quen lâu nay của mình. “Có vài người thích chơi đố chữ, tôi thì thích tìm lỗi chính tả.”
Thật khó để bỏ qua chuyện này dù chắc chắn bà không có ý muốn chê trách ai. Do đó, tôi đã quyết tâm phải dò lại bản in một cách chăm chú hơn nữa.
Và thu hoạch cuối cùng cũng như lớn nhất của bữa trưa hôm đó là cảm giác tôi vừa có được một tình bạn mới và vô cùng đáng giá trong đời.