CHƯƠNG 10
Khẩu súng quá to không để gọn trong túi quần tôi được. Tôi đã cố để nó trong túi đi lui đi tới vài tiếng, nhưng cứ nơm nớp lo nó sẽ cướp cò thẳng vào hai hòn bi. Vậy nên tôi quyết định dùng bao súng da cũ kỹ mà bố đã cho. Ba ngày đầu, cái bao súng theo tôi đi khắp nơi, kể cả lúc ăn trưa, rồi tôi dần thấy chán. Sau một tuần, khẩu súng chuyển sang nằm dưới băng ghế xe, và thêm vài tuần nữa, nó hoàn toàn biến mất khỏi bộ nhớ của tôi. Tôi chẳng còn đến nhà gỗ đó để tập bắn, dù vẫn tham gia thêm vài tiệc thịt dê, nhưng cố gắng tránh món lòng heo, rượu lậu, và Carleen vốn ngày càng tỏ ra vồ vập.
Tình hình ở hạt đang khá yên ắng, khoảng lặng trước cơn bão là phiên tòa. Tờ Thời báo không nói gì về vụ việc, vì cũng đâu có chuyện gì xảy ra. Nhà Padgitt vẫn không chịu đem hết bất động sản để bảo lãnh cho Danny, nên hắn vẫn là thượng khách của cảnh sát trưởng Coley, xem tivi, chơi bài, nghỉ ngơi ăn nhậu trong buồng giam VIP.
Tuần đầu tiên của tháng 5, thẩm phán Loopus trở lại Clanton, tôi mới sực nhớ ra khẩu Smith & Wesson của mình.
Lucien Wilbanks đã đệ đơn yêu cầu đổi địa điểm xử, và thẩm phán đã chỉ định phiên điều trần vào 9:00 sáng thứ Hai.
Có vẻ phân nửa hạt tề tựu ở đó, hầu hết dân làm việc quanh khu vực quảng trường đều đến dự. Tôi và Baggy vào phòng xử sớm, kiếm được chỗ ngồi tốt.
Phiên điều trần không cần sự hiện diện của bị cáo, nhưng rõ ràng cảnh sát trưởng Coley muốn trưng hắn ra một chút. Họ đưa hắn tới với hai tay bị còng và bộ đồ màu cam mới tinh. Ai cũng hướng mắt về phía tôi. Sức mạnh của báo chí đã tạo được thay đổi.
“Dàn cảnh thôi,” Baggy thì thầm.
“Gì cơ?”
“Họ đang dụ ta đăng tấm ảnh Danny trong bộ áo tù dễ thương đấy. Rồi Wilbanks có thể một lần nữa chạy đi kiếm thẩm phán mà bảo là bồi thẩm đoàn đã bị tiêm nhiễm thông tin sai lệch. Đừng mắc câu họ.”
Lại một lần nữa, tôi hoảng hốt nhận ra mình ngây thơ đến thế nào. Wiley đã chực sẵn bên ngoài nhà tù để kiếm tấm hình Danny khi họ đưa hắn lên xe đến tòa. Tôi có thể hình dung tấm ảnh bự chảng ngay trang bìa với bộ đồ cam của hắn.
Lucien Wilbanks vào phòng xử theo lối riêng từ phòng thẩm phán. Và như thường lệ, lão có vẻ vừa giận dữ vừa hoang mang, như mới bị thẩm phán chặn họng vậy. Lão bước về bàn bị cáo, vứt tập giấy xuống và đảo mắt liếc quanh khán phòng. Rồi đôi mắt lão dán vào tôi, nheo lại, nhìn bộ hàm có vẻ lão đang nghiến răng như thể chực nhảy lên đây đánh tôi ngay. Thân chủ của lão cũng quay lại nhìn. Vài người bắt đầu chỉ trỏ và Danny Padgitt trừng mắt nhìn tôi chằm chằm như thể tôi sẽ là nạn nhân tiếp theo của hắn. Tim tôi như ngừng đập, nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh. Baggy lại nhích ra xa tôi.
Hàng ghế đầu ngay sau bàn bị cáo là vài người nhà Padgitt, ai cũng lớn tuổi hơn Danny. Họ cũng đồng loạt ném ánh mắt trừng trừng về phía tôi, khiến tôi thấy mình đang lâm nguy tột độ. Đấy là những kẻ bạo lực, cả đời chuyên phạm tội, đe dọa, đánh người đến tàn phế, giết chóc, và tôi đang đứng cùng phòng với họ lúc họ đang thèm khát được cắt họng tôi ngay lập tức.
Một chấp hành tòa cất tiếng gọi mọi người đứng dậy chào thẩm phán đang bước vào. “Mời mọi người ngồi, thẩm phán Loopus bảo, rồi lướt qua đống hồ sơ trong lúc chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Sau một lúc, ông chỉnh lại gọng kính, “Đây là kiến nghị đổi địa điểm xử, do bên bị cáo đệ lên. Ông Wilbanks, ông có bao nhiêu nhân chứng?”
“Gần chục người, khoảng đó. Để xem sẽ thế nào.”
“Còn bên công tố?”
Một ông béo lùn, hói cả đầu, mặc bộ đồ đen đứng lên, “Cũng tầm đó.” Ông là Ernie Gaddis, công tố viên bán thời gian lâu năm, cư trú ở Hạt Tyler.
“Tôi chẳng muốn phải ở đây cả ngày đâu,” thẩm phán Loopus nói, như kiểu ông có hẹn đánh golf chiều nay vậy. “Mời nhân chứng đầu tiên của ông đi, Wilbanks.”
“Mời ông Walter Pickard.”
Tôi chẳng biết đó là ai, chuyện thường, nhưng lạ là ngay cả Baggy cũng không biết. Qua mấy câu hỏi mào đầu, mới biết được ông ta sống ở Karaway hơn 20 năm rồi, luôn đi lễ Chúa nhật và dự Hội Rotary mỗi thứ năm, làm chủ một nhà máy nội thất nhỏ.
“Hắn là dân mua gỗ của nhà Padgitt,” Baggy rỉ tai tôi.
Vợ ông là giáo viên. Bản thân ông cũng huấn luyện cho đội bóng chuyền nhi đồng và tham gia Hướng đạo. Lucien đã rất nỗ lực và thể hiện quá rõ ngụ ý rằng ông Pickard này hiểu rõ về cộng đồng của mình.
Karaway là một thị trấn nhỏ hơn, cách Clanton gần 30 cây số. Ông Bớt chẳng hề để tâm đến nơi đó và chúng tôi cũng bán rất ít báo ở đó, tiền thu quảng cáo còn ít hơn nữa. Với sự hăng hái tuổi trẻ, tôi đã ngẫm nghĩ cách mở rộng đế chế của mình, có khi một tờ tuần báo nhỏ ở Karaway sẽ bán được 1000 bản cũng nên.
Trước bục nhân chứng, Wilbanks bắt đầu vào việc chính. “Lần đầu tiên ông nghe tin về vụ sát hại cô Kassellaw là khi nào?”
“Vài ngày sau vụ việc. Thỉnh thoảng Karaway nhận tin tức chậm lắm.”
“Ai kể cho ông biết?”
“Một nhân viên của tôi. Cô ấy có người anh sống quanh Beech Hill, nơi xảy ra vụ việc.”
“Ông có nghe chuyện cảnh sát đã bắt nghi phạm của vụ này không?” Lucien hỏi. Lão rảo bộ đi quanh, rất điềm nhiên, nhưng đôi mắt không bỏ lỡ chuyện gì.
“Có, tin đồn là một cậu nhà Padgitt đã bị bắt.”
“Sau đó, ông có xác minh chuyện đó không?”
“Có.”
“Bằng cách nào?”
“Tôi đã xem bài báo trên tờ Thời báo Hạt Ford. Có tấm ảnh chụp Danny Padgitt trên trang nhất, ngay cạnh ảnh của Rhoda Kassellaw."
“Ông có đọc các bài của tờ Thời báo không?”
“Có.”
“Và ông đã nghĩ là anh Padgitt có tội hay vô tội?”
“Tôi thấy cậu ấy có vẻ có tội. Trên ảnh, cậu ấy có dính máu nơi áo. Mặt cậu ấy nằm cạnh bên mặt của nạn nhân, song song luôn. Tít báo thì viết chữ to, DANNY PADGITT BỊ BẮT VÌ TỘI GIẾT NGƯỜI.”
“Vậy ông cho là anh ấy có tội?”
“Làm sao mà không kết luận như vậy được chứ.”
“Dân cư ở Karaway phản ứng thế nào với vụ giết người này?”
“Sốc và phẫn nộ. Hạt của chúng ta vốn yên bình. Hiếm khi có tội ác gì.”
“Theo ông, dân tình ở đó tin rằng Danny Padgitt đã cưỡng hiếp và sát hại Rhoda Kassellaw?”
“Phải, nhất là sau khi đọc báo.”
Tôi có thể cảm thấy mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía mình, nhưng vẫn cố tự khẳng định với lòng là chúng tôi không làm gì sai cả. Người ta tình nghi Danny Padgitt vì tên khốn nạn đó đã phạm nhiều tội mà.
“Theo ông, liệu anh Padgitt có thể được xét xử công bằng ở Hạt Ford không?”
“Không.”
“Ông có căn cứ gì để nói như thế?”
“Cậu ấy đã bị tờ báo đem ra xử và định tội rồi.”
“Ông có nghĩ nhiều bạn bè và hàng xóm của ông ở Karaway cũng có suy nghĩ như thế không?”
“Có.”
“Cảm ơn ông.”
Đến lượt công tố viên Ernie Gaddis đứng lên, tay cầm tập giấy như vũ khí xung trận. “Vậy ông làm ngành đồ nội thất, phải không, ông Pickard?”
“Đúng vậy.”
“Ông mua gỗ tại địa phương?”
“Phải.”
"Từ ai?"
Pickard khựng lại đánh giá tình hình và suy ngẫm câu hỏi. “Anh em nhà Gates, Henderson, Tiffee, nhà Voyle, có lẽ còn vài người nữa.”
Baggy lại thì thầm, “Padgitt nắm nhà Voyle.”
“Ông có mua gỗ từ nhà Padgitt không?” Gaddis hỏi.
“Không.”
“Dù là hiện tại hay trước đây?”
“Không.”
“Mấy xưởng gỗ đó có cái nào do nhà Padgitt sở hữu không?”
“Tôi không rõ.”
Sự thật là chẳng ai rõ nhà Padgitt nắm những gì. Hàng chục năm nay, họ đã nhúng tay vào quá nhiều ngành, cả hợp pháp lẫn phi pháp. Có lẽ không mấy người ở Clanton biết về ông Pickard này, nhưng ngay lúc đó, nhiều người đã nghi ông ta có dính dáng đến nhà Padgitt rồi. Tại sao ông ta lại tình nguyện đứng ra làm chứng có lợi cho Danny chứ?
Gaddis liền ép thêm. “Ông nói rằng tấm ảnh có máu đó ảnh hưởng nhiều đến việc ông cho rằng anh ta có tội, phải vậy không?”
“Nó khiến cậu ấy có vẻ khả nghi.”
“Ông đã đọc hết bài báo chưa?”
“Tôi tin là rồi.”
“Ông có đọc đoạn nói rằng Danny Padgitt từng dính líu đến một tai nạn giao thông khiến anh ta bị thương và bị kết tội say xỉn lái xe?”
“Tôi tin là đã đọc đoạn đó rồi.”
“Ông muốn tôi cho ông xem đoạn đó không?”
“Không, tôi nhớ mà.”
“Tốt, vậy tại sao ông lại nhanh chóng cho rằng máu trong tấm ảnh là máu của nạn nhân chứ không phải của anh Padgitt?”
Pickard lại trở người, trông có vẻ nản lắm rồi. “Tôi chỉ nói là tấm ảnh và bài báo kết hợp với nhau khiến cậu ấy có vẻ có tội.”
“Ông từng tham gia bồi thẩm đoàn nào chưa, ông Pickard?”
“Chưa.”
“Ông có hiểu giả định vô tội là gì không?”
“Có.”
“Ông hiểu là công tố Bang Mississippi phải chứng minh rằng anh Padgitt có tội một cách chắc chắn chứ không phải là theo nghi vấn hợp lý chứ?”
“Có.”
“Ông tin rằng bất kỳ ai bị cáo buộc phạm tội đều có quyền có phiên tòa công bằng chứ?”
“Có, tất nhiên.”
“Tốt. Cứ cho là ông được triệu tập tham gia bồi thẩm đoàn cho vụ này. Ông đã đọc các bài báo, nghe đủ mọi chuyện bàn tán đồn đại đủ thứ, rồi ông đến chính phòng xử án này để tham gia vào tiến trình xét xử. Ông đã làm chứng rằng ông tin anh Padgitt có tội. Cứ cho là ông được chọn làm bồi thẩm đi. Cứ cho là ông Wilbanks, một luật sư đầy kinh nghiệm và tài năng, công kích lập luận của công tố và đặt nghi vấn đối với bằng chứng của chúng tôi. Cứ cho là ông sẽ thấy hoài nghi đi, ông Pickard. Lúc đó ông có thể bỏ phiếu là vô tội được không?”
Ông ta gật đầu, rồi nói, “Có, nếu trong hoàn cảnh như thế.”
“Vậy là dù hiện giờ ông cảm thấy bị cáo có tội hay vô tội, nhưng ông sẵn sàng lắng nghe các lời chứng và cân nhắc một cách công bằng trước khi ra quyết định của mình, phải không?”
Câu trả lời quá rõ ràng, nên Pickard không còn cách nào ngoài đáp “Có.”
“Hẳn rồi,” Gaddis tiếp lời. “Còn về vợ ông. Ông đã nhắc đến bà ấy. Bà ấy là giáo viên, phải chứ? Và bà ấy cũng có tâm thức cởi mở như ông, phải không?”
“Tôi nghĩ vậy. Phải.”
“Còn về các hội viên Rotary ở Karaway. Họ cũng công tâm như ông?”
“Tôi cho là thế.”
“Còn các nhân viên của ông, ông Pickard. Chắc chắn ông thuê những người trung thực, vô tư. Hẳn họ có thể lờ đi những gì đã đọc, biết lắng nghe và tham gia tiến trình xét xử anh Padgitt một cách công bằng, phải vậy không?”
“Tôi cho là thế.”
“Tôi không hỏi gì thêm, thưa Tòa.”
Ông Pickard vội vã rời bục nhân chứng rồi đi thẳng ra khỏi phòng xử luôn. Lucien Wilbanks đứng dậy, nói khá lớn giọng, “Thưa Tòa, bên bị xin mời anh Willie Traynor.”
Mấy lời đó khiến anh Willie Traynor, là tôi đây, sây sẩm mặt mày hơn cả bị đánh. Tôi đứng cả tim, còn Baggy kế bên buột miệng hơi lớn, “Ôi trời.”
Harry Rex đang ngồi ở ghế bồi thẩm đoàn với vài luật sư khác tận hưởng cuộc “vui” này. Khi lảo đảo đứng lên, tôi nhìn qua ông khẩn thiết tìm sự hỗ trợ. Ông cũng đứng dậy ngay tắp lự.
“Thưa Tòa, tôi là luật sư của anh Traynor, và anh ấy chưa được báo trước là sẽ ra làm chứng.” Cố lên, Harry Rex! Làm gì đó đi!
Thẩm phán nhún vai, “Thì sao? Anh ấy ở đây rồi mà. Có vấn đề gì chứ?” Giọng ông đều đều không hề có chút quan ngại gì, và thế là tôi biết mình hết đường thoát rồi.
“Chuẩn bị là vấn đề quan trọng. Nhân chứng có quyền được chuẩn bị trước.”
“Tôi tin anh ấy là chủ biên của tờ báo, phải không?”
“Phải.”
Lucien Wilbanks sải bước đến hàng ghế bồi thẩm như thể chuẩn bị vung tay với Harry Rex. “Thưa Tòa, anh ta không phải là nguyên đơn, và sẽ không ra làm nhân chứng trước phiên xử chính thức. Anh ta là người viết những bài báo đó. Cứ nghe anh ta nói đi.”
“Thế này là chơi bẩn, thưa Tòa,” Harry Rex phản đối. “Mời ông Vonner ngồi xuống.” thẩm phán hạ lệnh. Phần tôi cũng đã ngồi xuống ghế nhân chứng rồi. Tôi nhìn Harry Rex một cái nhắn nhủ, “Làm tốt lắm, ông luật sư.”
Một chấp hành tòa tiến tới trước mặt tôi, hỏi “Anh có vũ khí không?"
“Gì cơ?” Tôi đang quá lo lắng nên chẳng tỉnh táo cho lắm.
“Súng ấy. Anh có súng không?”
“Có.”
“Mời anh đưa cho tôi, được chứ?”
“À, nó nằm trong xe.” Với hầu hết người đang dự khán phiên tòa, chuyện này thật tức cười. Rõ ràng, ở Mississippi thì không được mang vũ khí khi lên làm chứng. Lại một luật ngớ ngẩn nữa. Nhưng chỉ mấy phút sau, tôi mới thấy cái luật này hợp lý kinh khủng. Nếu có súng trong tay, chắc tôi đã lôi ra nã thẳng vào Lucien Wilbanks rồi.
Chấp hành tòa cho tôi tuyên thệ, rồi Wilbanks rảo bước tiến tới. Mọi ánh mắt đều hướng về phía tôi. Lão bắt đầu nhẹ nhàng với vài câu mào đầu, hỏi lý do tôi mua lại tờ báo. Tôi trả lời chuẩn cả, dù câu nào câu nấy cũng khiến tôi phải dè chừng. Gã đang dẫn dắt tôi cho lập luận nào đó, mà tôi không rõ là gì.
Dân chúng có vẻ thích thú màn này. Chuyện tôi đột nhiên nắm tòa soạn Thời báo vẫn là chuyện gợi nhiều hiếu kỳ và suy đoán, và giờ tôi lại đứng ra trước mặt mọi người, thuật lại chuyện đó dưới sức nặng của lời tuyên thệ trước tòa.
Sau vài phút Wilbanks hỏi lung tung, ông Gaddis, người tôi cho là về phe mình vì rõ ràng Wilbanks thì không, đã đứng lên, “Thưa Tòa, chuyện này chẳng đi đến đâu cả. Chính xác thì hỏi chuyện anh ấy để làm gì?”
“Hỏi hay lắm. Ông Wilbanks?”
“Xin tòa chờ cho giây lát.”
Lucien liền đưa ra mấy tờ Thời báo , đưa cho tôi, công tố viên và thẩm phán. Lão nhìn tôi, “Anh Traynor, hiện giờ tờ Thời báo có bao nhiêu người đăng ký mua dài hạn?”
“Khoảng 2200,” tôi trả lời với chút tự hào. Vào thời điểm phá sản, con số này của ông Bớt chỉ tầm 1200.
“Và bao nhiêu tờ báo để bán ở các sạp?”
“Khoảng một ngàn tờ.”
Mười hai tháng trước, tôi còn sống ở tầng ba ký túc xá ở Syracuse, New York, lâu lâu ghé lớp, hăng hái góp phần vào cuộc cách mang tình dục, nốc rượu vô độ, hút cần, hễ thích là cứ ngủ đến trưa, và tập thể dục bằng cách nhảy vào bất kỳ cuộc tuần hành phản chiến nào để hò hét vào mặt cảnh sát. Tôi đã tưởng mình là đứa không ra gì. Giờ đột nhiên tôi mới nhận ra trong thời gian qua tôi đã đi được một hành trình phi thường đến thế nào.
Nhưng mà, thời khắc trọng đại này cũng là lúc hàng trăm cư dân thành phố cũng như người đăng ký mua báo của tôi đang dồn hết ánh mắt chằm chằm về phía tôi. Giờ không phải là lúc để tỏ ra yếu đuối.
“Bao nhiêu phần trăm số báo phát hành của anh được bán ở Hạt Ford, anh Traynor?” lão hỏi, như một câu bâng quơ khi ngồi uống cà phê tám chuyện.
“Hầu như toàn bộ. Tôi không nắm con số chính xác.”
“Anh có sạp báo nào nằm ngoài Hạt Ford không?”
“Không.”
Ông Gaddis lại cố giải cứu tôi, “Thưa Tòa, chuyện này để làm gì chứ?”
Đột nhiên, Wilbanks đưa ngón tay chỉ lên trời, đổi giọng hùng hồn hẳn. “Thưa Tòa, tôi cho là các bồi thẩm tương lai ở hạt này đã bị tiêm nhiễm thứ báo chí giật gân của tờ Thời báo . Nói một cách công tâm, tờ báo này chẳng được ai ở ngoài hạt này đọc cả. Đổi địa điểm xét xử không chỉ là chuyện hợp lý, mà còn là chuyện bắt buộc.”
Cái từ “tiêm nhiễm” đã lật ngược giọng điệu hoàn toàn. Nó khiến tôi giật mình hoang mang, và một lần nữa, tôi lại băn khoăn không biết việc mình làm có đúng hay không. Tôi hướng mắt tìm Baggy, nhưng ông đã thu người ẩn sau một bà ngồi trước mặt.
“Tôi sẽ quyết định điều gì là hợp lý và bắt buộc, ông Wilbanks, mời tiếp tục,” thẩm phán Loopus nói dứt khoát.
Wilbanks cầm tờ giấy lên, chỉ vào trang nhất. “Tôi muốn nói đến tấm hình của thân chủ tôi. Ai đã chụp tấm này?”
“Ông Wiley Meek, thợ ảnh của tòa soạn.”
“Và ai quyết định cho nó lên trang nhất?”
“Tôi.”
“Còn về kích cỡ, ai quyết định chuyện đó?”
“Tôi.”
“Anh có nghĩ rằng làm như thế sẽ bị xem là tạo giật gân không?”
Đúng quá chứ còn gì nữa. Tôi muốn giật gân mà. “Không.” tôi đáp tỉnh bơ. “Tình cờ đó là tấm ảnh duy nhất của Danny Padgitt mà chúng tôi có vào thời điểm đó. Anh ta tình cờ là người duy nhất bị bắt giữ vì tội ác đó. Nên chúng tôi đăng tấm đó. Nếu làm lại, tôi cũng sẽ làm thế thôi.”
Trời, ngay cả tôi cũng không ngờ mình lại lỳ đòn đến thế. Tôi liếc mắt về phía Harry Rex và thấy ông đang nở điệu cười nham hiểm. Ông gật đầu về phía tôi như lời thúc giục tiến quân. “Vậy theo anh, đăng tấm ảnh đó là hợp lý?”
“Tôi không nghĩ có gì bất hợp lý.”
“Trả lời câu hỏi của tôi đi. Theo anh, làm thế là hợp lý?”
“Phải, hợp lý và đúng đắn.”
Dường như Wilbanks đang ghi nhớ câu này để dùng về sau. “Bài báo của anh mô tả khá chi tiết về bài trí bên trong nhà của Rhoda Kassellaw. Anh đã xem nhà lúc nào?”
“Tôi chưa xem.”
“Anh đã vào nhà lúc nào?”
“Tôi chưa vào đó.”
“Anh chưa hề thấy bài trí trong nhà đó?”
“Đúng thế.”
Lão lật mở tờ báo, lướt qua rồi ngẩng đầu lên, “Bài báo của anh nói rằng phòng ngủ của hai đứa con chỉ cách phòng cô Kassellaw chưa đến năm mét, và anh ước tính, từ giường của chúng đến giường cô ấy chỉ khoảng gần chục mét. Làm sao anh biết được chuyện này?”
“Tôi có nguồn tin.”
“Nguồn tin. Vậy nguồn tin của anh có đang ở đây không?”
“Có.”
“Nguồn tin của anh là một cảnh sát thành phố hay cảnh sát hạt?”
“Anh ấy muốn giữ kín về danh tính.”
“Anh đã dùng bao nhiêu nguồn tin cho những bài báo này?”
“Một vài.”
Theo ký ức mơ hồ từ những gì tôi học được ở trường báo chí, tôi nhớ lại một vụ mà một phóng viên cũng gặp tình huống tương tự và từ chối tiết lộ danh tính các nguồn tin. Chuyện này đã khiến thẩm phán vụ đó bực mình, ra lệnh phóng viên phải nói ra mới được. Và khi phóng viên tiếp tục từ chối làm thế, thẩm phán đã phán anh tội khinh thường tòa rồi giam anh vài tuần vì giấu danh tính nguồn tin. Tôi không nhớ rõ kết cục ra sao, nhưng cuối cùng, phóng viên đó đã được thả và tự do báo chí được bảo đảm.
Trong đầu tôi, bỗng lóe lên hình ảnh tôi bị cảnh sát trưởng Coley còng tay lôi đi, la hét cầu cứu Harry Rex, nhưng vẫn bị tống vào tù, bị lột trần rồi tròng vào bộ đồ cam.
Chắc chắn như thế sẽ là vận đỏ cho tờ Thời báo . Trời, còn gì bằng mấy bài báo kể chuyện trong tù.
Wilbanks lại tiếp tục, “Anh viết rằng bọn trẻ đã bị sốc. Làm sao anh biết được chuyện này?”
“Tôi đã nói chuyện với ông Deece, hàng xóm nhà kế bên.”
“Ông ấy có dùng từ ‘sốc’ không?”
“Có.”
“Anh viết rằng bọn trẻ đã được bác sĩ ở Clanton khám vào cùng đêm xảy ra vụ việc. Làm sao anh biết được chuyện này?”
“Tôi có nguồn tin, và sau đó, tôi đã xác minh với vị bác sĩ đó.”
“Và anh viết là bọn trẻ giờ đang được trị liệu tâm lý ở Missouri. Ai kể cho anh chuyện đó?”
“Tôi đã nói chuyện với dì của bọn trẻ.”
Lão ném tờ báo xuống bàn rồi rảo vài bước về phía tôi. Đôi mắt sòng sọc của lão nheo lại, nhìn trừng trừng vào tôi. Giá mà có khẩu súng trong tay tôi thì hay biết mấy.
“Anh Traynor, sự thật là anh đã cố họa lên hình ảnh quá rõ ràng rằng hai đứa trẻ ngây thơ này đã chứng kiến mẹ mình bị cưỡng hiếp và sát hại ngay trên giường của cô ấy, phải thế không?”
Tôi hít một hơi thật sâu, cân nhắc câu chữ. Cả phòng xử im bặt, chờ đợi. “Tôi đã tường thuật những chuyện thật một cách chính xác hết sức có thể,” tôi nói, mắt nhìn thẳng về phía Baggy, thầm mong dù ông có trốn tránh thì ít ra cũng gật đầu động viên tôi một cái.
“Để bán thật nhiều báo, anh đã dựa vào các nguồn tin không tên, những sự thật nửa vời, những lời đồn đại và ức đoán, hòng tạo nên một câu chuyện giật gân.”
“Tôi đã tường thuật sự thực chính xác hết sức có thể.” tôi lặp lại câu đó, cố giữ bình tĩnh.
Lão khịt mũi, “Có phải thế không?” Lão với tay cầm tờ báo lên lại, “Tôi xin trích đọc đây: 'Bọn trẻ có ra làm chứng trước tòa không?' Anh đã viết câu đó, phải không, anh Traynor?”
Làm sao tôi phủ nhận được. Tôi đã tự hại mình bằng câu đó rồi. Nó là phần mà tôi và Baggy đã tranh cãi xem có nên viết hay không. Chúng tôi đều hơi ngần ngại, và giờ nhìn lại, giá mà lúc đó chúng tôi biết chùn tay theo bản năng.
Giờ có chối cũng không được. “Đúng,” tôi khẳng khái.
“Anh dựa vào sự thực chính xác nào để đặt ra câu hỏi đó?”
“Nó là một câu hỏi mà tôi đã nghe nhiều người đặt ra sau vụ án mạng,” tôi trả lời dứt khoát.
Wilbanks ném thẳng tờ báo lên bàn như một thứ bẩn thỉu. Lão lắc đầu, tỏ vẻ hoang mang kiểu giễu cợt. “Có hai đứa trẻ, phải không, anh Traynor?”
“Phải. Một bé trai và một bé gái.”
“Cậu bé được mấy tuổi?”
“Năm.”
“Còn cô bé được mấy tuổi?”
"Ba."
“Anh thì bao nhiêu tuổi, anh Traynor?”
"Hai mươi ba."
“Và ở tuổi 23, anh đã viết báo về bao nhiêu phiên tòa rồi?”
“Chưa phiên tòa nào.”
“Anh đã dự bao nhiêu phiên tòa rồi?”
“Chưa hề.”
“Vì anh chẳng biết gì về các phiên tòa, anh đã tìm hiểu về pháp lý kiểu gì để viết những bài báo này một cách chính xác đây?”
Đến đây, nếu có súng, chắc tôi dí vào đầu mình mất thôi. “Tìm hiểu về pháp lý à?” Tôi hỏi lại, như thể lão đang nói tiếng nước ngoài vậy.
“Phải, anh Traynor. Anh đã tìm được bao nhiêu vụ án mà trẻ em năm tuổi hoặc nhỏ hơn được phép ra tòa làm chứng trong một vụ án hình sự?”
Tôi lại ngước mắt về phía Baggy, nhưng rõ ràng ông đã chui hẳn xuống ghế luôn rồi. “Không có vụ nào.”
“Trả lời chuẩn lắm, anh Traynor. Không vụ nào. Trong lịch sử bang này, không có trẻ em nào dưới 11 tuổi từng ra làm chứng cho một phiên tòa xử vụ án hình sự. Làm ơn ghi chú lại chuyện đó để lần sau tự nhắc nhở nếu như anh lại muốn dụ dỗ độc giả bằng thứ báo chí giật gân rẻ tiền.”
“Đủ rồi, ông Wilbanks,” thẩm phán Loopus nói, dù có hơi nhẹ giọng so với mức tôi mong muốn. Tôi nghĩ là ông và các luật sư khác, kể cả Harry Rex, đều thích hành hạ đôi chút với những ai lạm dụng chuyện pháp lý rồi làm loạn lên. Kể cả ông Gaddis có vẻ cũng hài lòng khi để tôi nếm mùi đau khổ.
Lucien đủ khôn để dừng tay khi đã gây đủ thương tích. Lão làu bàu, “Tôi đã xong việc với anh ta rồi.” Ông Gaddis không hỏi gì. Chấp hành tòa hướng dẫn tôi rời ghế nhân chứng, và tôi bước nhanh trong tuyệt vọng về ghế của mình, nơi Baggy vẫn đang co rúm như con chó hoang giữa trời giông bão.
Suốt thời gian còn lại của phiên điều trần, tôi cặm cụi ghi chép, nhưng chỉ là nỗ lực để trông có vẻ bận rộn và là người quan trọng. Tôi có thể cảm nhận được vô số ánh mắt đang nhìn mình. Tôi đã bị hạ nhục thảm hại và chắc phải trốn chui trốn lủi trong văn phòng vài ngày.
Trong bài phát biểu kết của mình, Wilbanks kiến nghị chuyển địa điểm xét xử vụ này đi thật xa, thậm chí là đến tận Duyên hải Vịnh, nơi có lẽ dân tình đã nghe về vụ án nhưng chưa ai bị “tiêm nhiễm” những luận điệu của tờ Thời báo . Lão đã kiếm chuyện với tôi và tờ báo của tôi một cách hăng hái nhất. Còn công tố viên, trong bài phát biểu kế, đã nhắc thẩm phán một câu châm ngôn, “Những lời cứng rắn cay độc cho thấy động cơ không mấy chính nghĩa.”
Tôi hí hoáy viết lại câu đó, rồi lao thẳng ra khỏi phòng xử như thể vừa chộp được một tít báo quá hay vậy.