CHƯƠNG 11
Gần trưa ngày hôm sau, Baggy lao vào văn phòng tôi với tin nóng hổi là Lucien Wilbanks vừa rút lại kiến nghị đổi địa điểm xét xử. Như thường lệ, ông bắt đầu bài phân tích dài hơi.
Ý kiến thứ nhất là nhà Padgitt không muốn phiên tòa dời sang hạt khác. Họ biết thừa Danny có tội và chắc chắn sẽ bị kết tội bởi một bồi thẩm đoàn chuẩn mực ở bất kỳ đâu. Cơ hội duy nhất của họ là kiếm một bồi thẩm đoàn có thể mua chuộc hoặc dọa dẫm. Vì mọi phán quyết có tội đều phải có sự nhất trí của toàn bộ bồi thẩm, nên họ chỉ cần kiếm một phiếu cho Danny là đủ. Chỉ một phiếu chống là bồi thẩm đoàn sẽ vô dụng và thẩm phán sẽ phải tuyên bố là khởi tố sai. Chắc chắn rồi vụ này sẽ bị đưa ra xét xử lại, nhưng kết quả cũng sẽ như thế thôi. Sau ba bốn lần nỗ lực bất thành, bên công tố sẽ bỏ cuộc.
Tôi chắc chắn Baggy đã chực ở tòa án nguyên sáng nay, kể lại cho cái hội nhỏ của ông về phiên điều trần và dỏng tai nghe ý kiến của mấy ông luật sư đó. Baggy giải thích cặn kẽ là phiên điều trần hôm trước chỉ là chiêu trò của Lucien Wilbanks, vì hai lý do rõ ràng. Thứ nhất, Lucien đang dụ tờ Thời báo đăng một tấm ảnh nữa của Danny lên trang nhất, nhưng với bộ đồ cam. Thứ hai, Wilbanks muốn tôi lên bục nhân chứng để hành tôi một chút. “Chắc chắn gã làm được thế rồi.” Baggy nhận xét chốt lại.
“Cảm ơn ông,” tôi gượng gạo đáp lời.
Wilbanks đã chuẩn bị sẵn thế thủ cho phiên tòa mà lão biết thế nào cũng sẽ diễn ra ở Clanton này, và gã muốn tờ Thời báo bớt hung hăng hơn một chút.
Lý do thứ ba hay thứ tư là Lucien chưa hề bỏ lỡ cơ hội để ra oai trước công chúng. Baggy đã thấy kiểu đó nhiều lần rồi và thuật lại cho tôi vài vụ.
Tôi không chắc những lập luận của Baggy là chuẩn, nhưng lúc đó, nghĩ kiểu gì cũng thấy không ổn. Lao vào một phiên điều trần hai tiếng khi biết trước đó chỉ là màn khoe mẽ cho vui thì đúng là phí phạm thời gian. Tôi nghĩ ẩn sau vụ này thế nào cũng có chuyện gì đó nghiêm trọng hơn.
Bữa tiệc thứ ba là thịt nướng nồi, và chúng tôi ngồi ăn ở hiện dưới trời mưa rả rích.
Như thường lệ, tôi thú nhận là chưa hề ăn thịt nướng nồi, nên bà Callie mô tả công thức và quá trình nấu nướng cho tôi nghe. Bà mở nắp một chiếc nồi sắt lớn nằm chính giữa bàn, nhắm mắt lại khi mùi hương ngào ngạt tỏa ra. Tôi vừa mới ra khỏi giường là đến đây liền, nên bụng đói đến nỗi ăn cả khăn bàn luôn cũng được.
Bà bảo tôi, đây là món đơn giản nhất của bà. Lấy một miếng thịt mông bò, không lọc mỡ, đặt vào đáy nồi, rồi xếp khoai tây, hành tây, củ cải, cà rốt và củ cải đường lên trên, thêm ít muối, tiêu và nước, cho vào lò nướng chậm trong năm tiếng là xong ấy mà. Bà cho thịt và rau củ vào đĩa của tôi, rồi rưới thứ nước sốt đậm đặc lên trên. “Dùng củ cải đường nên nó có màu tím nhẹ đấy,” bà giải thích cho tôi biết.
Bà hỏi tôi có muốn là người cầu nguyện tạ ơn không, và tôi xin kiếu. Lâu rồi, tôi có cầu nguyện đâu. Bà Callie giỏi việc này hơn tôi nhiều. Bà cầm lấy hai tay tôi, cả hai cùng nhắm mắt lại.
Chúng tôi ăn uống chuyện trò giữa tiếng mưa lách tách trên mái tôn.
“Ông Esau đâu ạ?” Ăn đến miếng thịt bự thứ ba, tôi bắt đầu mở chuyện.
“Đang đi làm. Thỉnh thoảng ông ấy được về ăn trưa, nhưng thường là không.” Trong đầu bà đang vướng bận một chuyện khác, và cuối cùng bà cũng không kìm được nữa, “Cho tôi hỏi anh một câu hơi riêng tư nhé?”
“Vâng, được mà.”
“Anh là một Cơ Đốc nhân phải không?”
“Chắc chắn rồi. Mẹ thường đưa tôi đi nhà thờ vào lễ Phục Sinh.”
Câu trả lời đó dường như chưa đủ với bà. Bà muốn biết gì đó hơn thế nữa. “Anh đi nhà thờ nào?”
“Giáo hội Giám nhiệm. Nhà thờ St. Luke ở Memphis.”
“Hình như ở Clanton không có nhà thờ của giáo hội đó.”
“Tôi cũng chưa thấy cái nào.” Làm như tôi chịu khó tìm kiếm một nơi để thờ phượng lắm vậy. “Vậy bà theo nhà thờ của phái nào?” tôi hỏi lại.
“Hội thánh Đức Chúa Trời trong Đấng Christ,” bà trả lời nhanh, và mặt bà ửng đỏ lên. “Mục sư của tôi là Thurston Small, một người tốt lành của Chúa. Và là một giảng sư đầy uy lực. Anh nên đến nghe ông giảng đi.”
Tôi đã nghe nhiều về chuyện thờ phượng của người da đen, chuyện họ ở nhà thờ nguyên ngày sabbath, các buổi phụng vụ kéo đến tận tối và chỉ dừng khi tinh thần đã kiệt lực. Tôi còn nhớ mình đã chịu khổ nhiều trong các buổi phụng vụ Phục Sinh ở Giáo hội Giám nhiệm, dù chúng không bao giờ quá 60 phút theo quy định.
“Người da trắng có cùng dự lễ với các bà không?” tôi hỏi.
“Chỉ trong năm nào có bầu cử thôi. Một vài chính trị gia tới săm soi cái này cái kia, hứa hẹn đủ điều.”
“Họ ở lại hết buổi phụng vụ chứ?”
“Làm gì có. Họ quá bận để làm được thế.”
“Vậy là có thể đến rồi về lúc nào cũng được?”
“Với anh thì được. Chúng tôi sẽ tạo ngoại lệ.” Bà bắt đầu kể một câu chuyện dài về nhà thờ của bà, vốn cách nhà bà không xa, đi bộ là tới. Nơi đó từng bị thiêu rụi trong cơn hỏa hoạn cách đây không lâu lắm. Sở cứu hỏa, dĩ nhiên là nằm ở khu dân da trắng, chẳng bao giờ vội vã khi nhận cuộc gọi từ Hạ trấn. Thế là cộng đồng của bà mất nhà thờ, nhưng hóa ra đó lại là phúc lành! Mục sư Small đã quy tụ cộng đoàn lại với nhau. Trong gần ba năm, họ hội họp ở nhà kho mà ông Virgil Mabry, một Cơ Đốc nhân tốt lành, cho mượn. Nhà đó cách Phố chính một khối nhà, và nhiều người da trắng không thích mấy chuyện dân da đen thờ phượng ở phần đất vốn dành riêng cho da trắng. Nhưng ông Mabry vẫn không nao núng. Mục sư Small đã kêu gọi được nhiều ủng hộ trợ giúp, và ba năm sau vụ hỏa hoạn, họ đã khánh thành một nhà thờ mới, rộng gấp đôi cái cũ. Giờ mỗi Chúa nhật ở đó đều chật kín người.
Tôi thích nghe bà kể chuyện, vì như vậy cái miệng tôi được tự do lo ưu tiên hàng đầu là ăn và ăn. Nhưng tôi vẫn luôn thấy bị lôi cuốn bởi cách chọn từ chuẩn xác, nhịp điệu uyển chuyển và vốn từ tầm đại học của bà.
Khi kể xong chuyện nhà thờ mới, bà hỏi tôi, “Anh có thường đọc Kinh Thánh không?”
“Không.” tôi lắc đầu và nhai tiếp một miếng củ cải.
“Chưa hề sao?”
Tôi chẳng bao giờ nghĩ sẽ nói dối bà Callie làm gì. “Chưa hề.”
Câu đó lại khiến bà thêm thất vọng. “Anh thường xuyên cầu nguyện không?”
Tôi dừng lại một giây rồi đáp, “Mỗi tuần một lần, tại đây.”
Bà chầm chậm đặt dao nĩa qua một bên, và nghiêm nét mặt nhìn tôi như thể chuẩn bị nói gì thâm thúy lắm. “Anh Traynor, nếu anh không đi nhà thờ, không đọc Kinh Thánh và không cả cầu nguyện, tôi không chắc anh có phải là một Cơ Đốc nhân không nữa.”
Bản thân tôi cũng không chắc mà. Tôi cứ tiếp tục nhai để khỏi phải nói lời biện hộ gì. Bà Callie tiếp tục bài thông công, “Chúa Jesus đã nói, 'Đừng phán xét để khỏi bị phán xét.' Tôi chẳng có tư cách gì để phán xét linh hồn ai, nhưng tôi phải thú thật là tôi lo cho linh hồn anh lắm.”
Tôi cũng lo, nhưng không đến mức phải bỏ dở bữa trưa ngon thế này.
“Anh có biết những người sống ngoài ý Chúa sẽ thế nào không?” bà hỏi.
Sẽ chẳng tốt gì, tôi biết mà. Nhưng tôi quá đói và quá sợ chẳng dám trả lời. Bà đang giảng đạo chẳng buồn ăn, còn tôi thì chẳng thích hay chẳng được tận hưởng cả hai.
“Phaolô đã viết trong thư Roma, ‘Lương bổng của tội lỗi là cái chết, nhưng ơn của Thiên Chúa là sự sống đời đời qua Chúa Jesus, Chúa chúng ta.' Anh biết câu đó nghĩa là gì không, anh Traynor?"
Tôi với tay lấy một miếng to, gật đầu với bà, còn miệng thì đầy thịt bò. Bà nhớ toàn bộ Kinh Thánh sao? Và tôi chuẩn bị nghe hết cả quyển à?
“Cái chết luôn chỉ là chết phần xác, nhưng cái chết của linh hồn là mãi mãi xa rời Chúa Jesus. Chết nghĩa là đời đời trong địa ngục, anh Traynor à. Anh hiểu không?”
Bà nói quá rõ ý mình rồi mà. “Ta đổi chủ đề được không?” tôi nói.
Bỗng nhiên, bà Callie mỉm cười, “Dĩ nhiên là được. Anh là khách của tôi, và tôi phải làm sao để anh thấy được hoan nghênh chứ.” Bà lại cầm nĩa lên, và chúng tôi cặm cụi ngồi ăn, lắng nghe tiếng mưa rơi.
“Mùa xuân này mưa nhiều quá,” bà bắt chuyện. “Tốt cho mấy cây đậu, nhưng cà chua và dưa của tôi cần ánh nắng.”
Tôi mừng rỡ khi biết bà vẫn đang lên kế hoạch cho những bữa trưa sau này của chúng tôi. Câu chuyện tôi dự định viết về bà Callie và ông Esau cùng những người con xuất sắc của họ đã gần hoàn tất rồi. Tôi chỉ đang kéo dài thời gian tìm hiểu với hy vọng có thêm vài bữa trưa thứ Năm ở hiên nhà bà. Mới đầu, tôi thấy mặc cảm tội lỗi vì bà chuẩn bị quá nhiều đồ ăn cho một thực khách duy nhất là tôi, và chúng tôi thường chỉ ăn hết một phần bàn tiệc đó. Nhưng bà bảo đảm với tôi là không thứ gì bị bỏ phí cả. Bà và Esau, có lẽ thêm vài người bạn nữa, sẽ bảo đảm xử lý số đồ ăn thừa đó một cách gọn gàng. “Hiện giờ, tôi chỉ nấu ăn ba lần mỗi tuần,” bà thú nhận với chút giọng xấu hổ.
Món tráng miệng hôm nay là bánh nhân đào và kem vani. Chúng tôi thống nhất là để chúng chờ một tiếng, hầu có thời gian làm việc cần làm. Bà đem ra hai ly cà phê đen đậm, và chúng tôi chuyển sang chỗ ghế lắc, để tiếp tục bài phỏng vấn. Tôi lấy tập giấy ghi chú ra và bắt đầu đặt câu hỏi. Bà Callie thì thích thú nhìn tôi chăm chú ghi lại lời bà.
Bảy người con đầu của bà đều mang tên Ý, Alberto (AI), Leonardo (Leon), Massimo (Max), Roberto (Bobby), Gloria, Carlota, và Mario. Chỉ có Sam, cậu con út, nghe đồn đang lẩn trốn, là mang cái tên Mỹ. Trong lần thứ hai tôi ghé nhà, bà đã giải thích là bà lớn lên trong một gia đình người Ý ngay tại Hạt Ford này, nhưng đấy là một câu chuyện dài nữa mà bà muốn để dành về sau.
Bảy người con đầu đều là thủ khoa khóa của mình tại Trường Trung học Phố Burley, trường cho người da màu. Ai cũng có bằng tiến sĩ và làm công tác giảng dạy ở đại học. Chi tiết tiểu sử của họ chiếm vài trang giấy, và bà Callie có thể kể về con cái suốt hàng tiếng đồng hồ.
Bà cứ nói, tôi cứ viết, lắc lư nhè nhẹ trên ghế, lắng nghe tiếng mưa rơi, rồi ngủ thiếp đi.