← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 12

Baggy có chút dè dặt khi bàn đến chuyện đăng bài về nhà Ruffin. “Cái này đâu phải tin tức,” ông vừa đọc vừa lẩm bẩm. Tôi chắc chắn Hardy đã cảnh báo với ông là tôi tính dành nguyên trang bìa cho câu chuyện về một gia đình da đen. “Mấy chuyện này thường nằm ở trang năm mới phải,” ông tiếp tục.

Nếu không có vụ giết người, thì bài viết trang bìa lý tưởng của Baggy là một vụ tranh chấp ranh giới đất đai trong một phòng xử không có bồi thẩm đoàn, vài luật sư vừa ngồi đó vừa ngủ gật và một thẩm phán 90 tuổi đội mồ sống dậy để phân xử.

Năm 1967, ông Caudle đã thể hiện sự táo bạo khi đăng cáo phó cho người da đen, nhưng trong ba năm qua, tờ Thời báo hiếm khi để tâm đến chuyện gì phía bên kia đường ray. Wiley Meek miễn cưỡng đi với tôi để chụp hình ông bà Callie và Esau ở trước nhà họ. Tôi đã cố thu xếp lên lịch chụp vào đúng trưa thứ Năm với món ngon trong ngày là cá da trơn chiên, bánh bột bắp và xà lách trộn. Wiley ăn đến mệt nghỉ.

Margaret cũng ý kiến này nọ về bài báo, nhưng như thường lệ, bà chiều lòng sếp. Thật ra là cả tòa soạn chẳng ai mặn mà gì với ý tưởng này, nhưng tôi mặc kệ. Tôi đang làm việc mình nghĩ là đúng, hơn nữa, một phiên tòa lớn sắp xảy ra rồi.

Và thế là, vào thứ Tư, ngày 20 tháng 5 năm 1970, trong một tuần hoàn toàn chẳng có tin gì để in về vụ án mạng Kassellaw, tờ Thời báo dành nguyên nửa trang nhất cho nhà Ruffin, với dòng tít báo khổ lớn: NHÀ RUFFIN TỰ HÀO VỀ BẢY GIÁO SƯ ĐẠI HỌC. Phía dưới là tấm ảnh lớn chụp bà Callie và ông Esau đang ngồi trước hiên, mỉm cười tự hào. Dưới nữa là hình chân dung chụp hồi trung học của cả tám người con, từ Al cho đến Sam. Câu chuyện của tôi mở đầu như sau:

Khi Calia Harris buộc phải thôi học ngang lớp 10, bà đã tự hứa với lòng mình rằng con cái bà sẽ không chỉ học hết trung học mà phải học hết đại học nữa. Năm 1926, bà Calia, hay Callie như cách bà tự gọi, mới 18 tuổi, là chị đầu của ba người em. Đã mất bố vì bệnh lao, nên giáo dục trở thành thứ quá xa xỉ trong nhà bà. Callie làm việc cho gia đình DeJarnette từ năm 1929, thời điểm bà cưới Esau Ruffin, một thợ mộc và là giảng sư bán thời gian. Họ thuê một căn hộ hai phòng ở Hạ trấn với giá 15 đô mỗi tháng và bắt đầu dành dụm từng đồng. Họ sẽ có việc cần đến toàn bộ số tiền tiết kiệm này.

Năm 1931, Alberto ra đời.

Giờ đến năm 1970, những người con của bà đã thành đạt cả. Tiến sĩ Alberto Ruffin là giáo sư xã hội học ở Đại học Iowa. Tiến sĩ Leonardo Ruffin là giáo sư sinh học ở Purdue. Tiến sĩ Massimo Ruffin là giáo sư kinh tế học ở Đại học Toledo. Tiến sĩ Roberto Ruffin là giáo sư sử học ở Marquette. Tiến sĩ Gloria Ruffin Sanderford dạy tiếng Ý ở Duke. Tiến sĩ Carlota Ruffin là giáo sư nghiên cứu đô thị ở UCLA. Tiến sĩ Mario Ruffin vừa hoàn tất luận án tiến sĩ về văn học thời trung cổ và là giáo sư dạy ở Đại học Grinnell tại Iowa. Tôi cũng nhắc đến Sam, nhưng không nói gì nhiều.

Qua điện thoại, tôi đã chuyện trò với cả bảy vị giáo sư và trích dẫn nguyên văn lời của họ trong bài báo. Chủ đề rất đơn giản và bình thường, tình yêu, hy sinh, kỷ luật, làm việc chăm chỉ, sự động viên, đức tin nơi Chúa, niềm tin nơi gia đình, tham vọng, kiên trì, không chấp nhận lười biếng hoặc thất bại. Mỗi một trong bảy người đều có câu chuyện thành công đáng để in hết một số báo của chúng tôi. Mỗi một người đều đã làm ít nhất một công việc toàn thời gian trong khi miệt mài trên giảng đường đại học và làm luận án cao học. Hầu hết đều làm một lần hai công việc. Người đi trước giúp đỡ người đi sau. Mario kể cho tôi là anh đã nhận năm hay sáu chi phiếu nho nhỏ mỗi tháng từ anh chị em và bố mẹ.

Năm người con đầu đã rất kiên trì trong việc học đến nỗi hoãn chuyện kết hôn cho đến tận tuổi trên dưới 30. Carlota và Mario vẫn còn độc thân. Và cứ như vậy, thế hệ tiếp theo cũng được vun đắp một cách cẩn thận. Con của Leon là đứa cháu lớn tuổi nhất, năm tuổi. Tổng cộng đến giờ, ông bà Ruffin có năm người cháu. Max và vợ cũng đang chuẩn bị sinh đứa thứ hai.

Có quá nhiều chuyện để viết về gia đình Ruffin, nên số báo hôm đó, tôi chỉ in phần một. Ngày hôm sau, khi tôi đến Hạ trấn ăn trưa, bà Callie gặp tôi mà nước mắt giàn giụa. Ông Esau cũng tiến tới, bắt tay tôi thật chặt, rồi đến cái ôm siết hơi vụng về của đàn ông. Chúng tôi ngồi ăn thịt cừu hầm và trao đổi về phản ứng của dân tình đối với bài báo. Khỏi cần phải nói, ở Hạ trấn ai cũng xôn xao, suốt chiều thứ Tư và sáng thứ Năm, hàng xóm lũ lượt cầm báo kéo đến nhà Ruffin. Tôi cũng đã gửi gần chục tờ đến cho mỗi giáo sư nhà họ.

Khi chúng tôi ngồi lại uống cà phê ăn bánh táo, thì mục sư của họ, Thurston Small, vừa đỗ xe lại và tiến vào. Hai ông bà giới thiệu chúng tôi với nhau, có vẻ mục sư rất vui khi được gặp tôi. Ông nhanh chóng nhận một đĩa bánh và bắt đầu tổng kết về tầm quan trọng của bài báo này đối với cộng đồng da đen ở Clanton. Vụ cáo phó thật tuyệt, khi mà dân da đen ở hầu hết mọi thành thị miền Nam vẫn đang bị lờ đi. Ông Caudle đã đem lại tiến bộ trong chuyện này. Nhưng một bài tiểu sử hoành tráng và đề cao một gia đình da đen ngay trang nhất là một bước tiến khổng lồ của tinh thần bao dung sắc tộc ở chốn này. Tôi thì không thấy thế. Với tôi, đây đơn thuần là một câu chuyện thú vị đầy tính nhân văn về bà Callie Ruffin và gia đình phi thường của bà.

Mục sư có hứng thú với ẩm thực và có tài nói chuyện dông dài nữa. Qua cái bánh thứ hai, là ông bắt đầu vào tiết mục độc thoại khen ngợi bài báo của tôi. Không có vẻ gì ông sẽ ra về sớm, nên tôi đành đứng lên xin phép cáo từ trước.

Ngoài là một lao công không chính thức và phần nào không đáng tin cậy lắm cho các công ty đóng quanh quảng trường, Piston còn kiêm thêm một việc nữa, thông tín viên không cần giấy phép hành nghề. Cứ tầm một tiếng, ông lại xuất hiện trước cửa khách hàng của mình, chủ yếu các văn phòng luật, nhưng cũng đến cả ba ngân hàng, vài chỗ môi giới bất động sản, bảo hiểm, và tòa soạn Thời báo . Ông cứ đứng đó vài phút, chờ đợi người ta giao cho ông món gì đó để chuyển đi. Chỉ cần cô thư ký lắc đầu là ông liền quay đi sang chỗ tiếp theo. Nếu có lá thư hay một gói nhỏ cần được chuyển quanh đây, các cô thư ký sẽ chờ Piston đến. Thứ gì ông cũng nhận, rồi rảo nhanh giao hàng. Nhưng nếu món đồ nặng hơn năm cân thì miễn. Vì ông đi bộ, nên chỉ chuyển phát trong phạm vi quảng trường, hoặc tối đa là đi thêm một hai khối nhà. Trong giờ làm việc, thế nào cũng thấy Piston ở khu trung tâm thành phố, chưa có hàng thì thong thả đi bộ, có hàng thì rảo nhanh chân.

Chủ yếu là ông giao thư tín giữa các văn phòng luật với nhau. Piston giao thư thì nhanh hơn bưu chính, lại còn rẻ hơn nhiều. Miễn phí mà. Ông nói đấy là việc phục vụ cộng đồng, dù cho ông biết thế nào vào dịp Giáng sinh, cũng sẽ được tặng thịt xông khói hay bánh.

Sáng thứ Sáu, ông vào văn phòng tôi với lá thư tay từ Lucien Wilbanks. Tôi sợ chẳng dám mở ra. Đây là đơn kiện đòi một triệu đô mà lão đã hứa sẽ làm sao? Trên thư chỉ có vài dòng:

Anh Traynor thân mến.

Tôi thích thú khi đọc bài của anh về gia đình Ruffin, một gia đình xuất sắc. Tôi cũng đã nghe về thành tựu của họ rồi, nhưng bài báo của anh thật sự đem lại thông tin sâu sát. Tôi ngưỡng mộ sự can đảm của anh.

Mong anh tiếp tục làm thế một cách hăng hái hơn nữa. Chân thành,

Lucien Wilbanks

Tôi căm ghét lão, nhưng ai lại không cảm kích một lời khen chứ? Lão tận hưởng cái tiếng là một người cấp tiến máu lửa đứng lên vì những chính nghĩa ít người ủng hộ. Và như thế, sự ủng hộ của lão cũng có chút gì làm hài lòng tôi, dù tôi biết đây chỉ là tạm thời.

Ngoài vụ đó ra, không có lá thư nào, cũng không có cuộc gọi nặc danh hay lời đe dọa nào cả. Năm học đã kết thúc và dân tình đang sôi sục. Những làn sóng dữ dội và đáng ngại đòi xóa bỏ phân tách chủng tộc trong nhà trường đang dần hình thành. Dân cư trong hạt có nhiều vấn đề quan trọng hơn cần lo lắng.

Sau gần một thập kỷ căng thẳng và xung đột về quyền công dân, nhiều người da trắng ở Mississippi sợ rằng hồi kết đang đến gần. Nếu tòa liên bang có thể ra lệnh xóa bỏ sự phân tách về chủng tộc trong nhà trường, thế thì tiếp theo sẽ đến nhà thờ và nhà ở hay sao?

Ngày tiếp theo, Baggy đến một buổi hội chung ở tầng hầm một nhà thờ. Những người chủ trì đang cố xem thử mọi người có ủng hộ cho một trường tư toàn da trắng ở Clanton không. Số người đến dự rất đông, đều hoảng sợ, giận dữ và quyết tâm bảo vệ con cái mình. Một luật sư tổng kết tình hình của nhiều vụ kiện liên bang và đưa ra ý kiến tuyệt vọng rằng phán quyết cuối cùng sẽ được ban hành ngay trong hè này. Ông dự đoán rằng học sinh da đen độ tuổi cấp ba sẽ được chuyển vào Trường Trung học Clanton và học sinh da trắng độ tuổi cấp hai sẽ phải chuyển sang Trường Phố Burley ở Hạ trấn. Chuyện này khiến mọi người hoảng loạn, đàn ông thì lắc đầu, đàn bà thì khóc. Ý nghĩ học sinh da trắng sẽ phải qua bên kia đường ray để học, đơn giản là không thể chấp nhận được.

Họ đang tính lập một trường mới, và yêu cầu chúng tôi không viết bài về chuyện đó, ít ra là tạm thời. Họ muốn ổn định phần nào cam kết về tài chính đã rồi mới công bố. Chúng tôi cũng chiều theo ý họ. Thời điểm đó, tôi đâu mấy thảnh thơi để dây vào mấy chuyện gây tranh cãi.

Một thẩm phán liên bang ở Memphis đã ra phán quyết về lộ trình xe buýt khiến thành phố chia rẽ gay gắt. Học sinh da đen nội thị sẽ được di chuyển đến vùng ngoại ô da trắng, và học sinh da trắng thì đi theo hướng ngược lại. Thế là tình hình càng căng thẳng hơn nữa, và tôi muốn trốn tránh thành phố này một thời gian.

Đây sẽ là một mùa hè đổ lửa thực sự, như thể giữa thành phố đang có một quả bom sẽ phát nổ bất kỳ lúc nào.

Tôi bỏ một tuần, qua tuần tiếp theo mới đăng phần hai câu chuyện nhà Ruffin. Ở phần dưới trang nhất, tôi đăng hình chụp mới nhất của bảy giáo sư nhà họ. Phần bài hôm nay nói về công việc và cuộc sống hiện thời của họ. Cả bảy người, ai cũng mang nặng tâm tư hướng về Clanton và Mississippi, dù không một ai dự định chuyển hẳn về đây. Họ từ chối phán xét về một nơi đã bắt họ học ở những trường thứ cấp, bắt họ ở yên bên phần này đường ray, không cho họ bầu cử và ăn uống ở hầu hết quán trong thành phố, thậm chí không được uống nước ở đài phun nước sân trước tòa án. Họ không muốn đắm chìm trong chuyện tiêu cực. Thay vào đó, họ tạ ơn Chúa vì sự tốt lành của Ngài, vì Ngài đã cho họ sức khỏe, gia đình, bố mẹ và những cơ hội họ có trong đời.

Tôi kinh ngạc trước sự khiêm nhường và tử tế của họ. Cả bảy người đã hứa sẽ gặp tôi vào dịp nghỉ lễ Giáng sinh, ở hiên nhà bà Callie, ăn bánh hồ đào và kể cho nhau những câu chuyện.

Tôi kết thúc bài báo dài của mình với một chi tiết đầy hấp dẫn về gia đình họ. Khi mỗi một người con rời nhà lên đường lập nghiệp, ông Esau đều dặn dò họ phải viết ít nhất một lá thư mỗi tuần gửi cho mẹ mình. Và họ đã làm thế từ đó cho đến giờ. Rồi ông Esau còn bảo họ phải làm sao để bà Callie nhận được một lá thư mỗi ngày. Bảy giáo sư, bảy ngày một tuần. Vậy là Alberto viết thư và gửi đi vào Chúa nhật, Leonardo viết thư và gửi đi vào thứ Hai, cứ như thế. Có ngày bà Callie nhận hai hay ba lá thư, có hôm thì không. Nhưng những bước đến chỗ hộp thư luôn luôn đầy thú vị.

Và mọi lá thư nhận được, bà đều giữ lại. Bà lấy một hộp các-tông trong tủ ở phòng ngủ chính ra cho tôi xem, bên trong là hàng trăm lá thư của các con bà.

“Rồi sẽ có lúc tôi đưa anh đọc chúng,” bà nói, nhưng tôi thấy không chắc lắm. Mà tôi cũng đâu muốn đọc những chuyện quá riêng tư đến thế.