CHƯƠNG 13
Công tố viên của hạt, Ernie Gaddis, đã đệ đơn mở rộng phạm vi tuyển chọn bồi thẩm đoàn. Theo Baggy, chuyên gia tự nhận của chúng tôi, thì với một phiên tòa hình sự điển hình, thư ký tòa địa hạt sẽ triệu tập tầm 40 người để chọn làm bồi thẩm. Khoảng 35 người sẽ chịu đến và ít nhất năm người không đủ tiêu chuẩn vì quá già hoặc quá yếu. Gaddis lập luận trong kiến nghị rằng vì vụ án mạng Kassellaw này ai ai cũng biết nên càng khó tìm được những bồi thẩm vô tư. Ông xin tòa cho triệu tập ít nhất 100 bồi thẩm tiềm năng.
Nhưng ý của ông, vốn không xuất hiện trong bài kiến nghị mà ai cũng biết, là để nhà Padgitt dọa dẫm trăm người thì khó hơn dọa dẫm 40 người. Lucien Wilbanks đã chồm lên phản đối và đòi mở phiên điều trần. Thẩm phán Loopus bảo là không cần điều trần, và ra lệnh mở rộng phạm vi chọn bồi thẩm đoàn. Ông cũng có hành động bất thường là niêm phong danh sách bồi thẩm tiềm năng. Baggy và hội bạn nhậu của ông, cũng như tất cả mọi người khác quanh tòa án, đều sốc trước quyết định này. Đây là chuyện xưa nay chưa hề có. Theo lệ thường, các luật sư và bị cáo, đều có danh sách bồi thẩm đoàn sơ bộ cả hai tuần trước ngày xét xử.
Phán quyết này được xem là một trở ngại lớn cho nhà Padgitt. Nếu không biết ai là bồi thẩm tiềm năng, làm sao mà mua chuộc hay dọa dẫm họ đây?
Gaddis còn kiến nghị tòa gửi giấy triệu tập qua đường bưu điện, chứ không giao cho văn phòng cảnh sát trưởng trực tiếp đi giao. Loopus cũng thích ý tưởng này. Rõ ràng ông biết về mối thân tình giữa nhà Padgitt và cảnh sát trưởng. Cũng không có gì ngạc nhiên khi Lucien Wilbanks chồm lên phản đối tiếp. Trong bài đáp trả điên cuồng, lão nói rằng thẩm phán Loopus đang đối xử khác biệt và bất công đối với thân chủ của lão. Đọc bản kiến nghị, tôi cũng phải nể cách lão hành văn dài mấy trang giấy mà vô cùng rành mạch.
Ai cũng nhận thấy thẩm phán Loopus quyết tâm chủ trì một phiên tòa an toàn và vô tư. Ông từng là công tố viên hồi thập niên 1950 và có tiếng là thường đứng về phía công tố. Chắc chắn ông có chút quan ngại đối với nhà Padgitt và tiếng tăm tội phạm của họ. Hơn nữa, trên giấy tờ, vụ khởi tố Danny Padgitt có vẻ quá chặt chẽ rồi.
Vào ngày thứ Hai, 15 tháng 6, thư ký tòa địa hạt bí mật gửi giấy triệu tập bồi thẩm cho 100 công dân đăng ký bầu cử ở Hạt Ford. Một trong số đó đã đến hòm thư của bà Callie Ruffin, và trưa thứ Năm tuần đó, bà đưa cho tôi xem khi chúng tôi dùng bữa.
Năm 1970, Hạt Ford có 26% dân da đen, 74% dân da trắng, ngoài ra không còn sắc dân nào khác. Sáu năm sau mùa hè náo động 1964 và năm năm sau Đạo luật Quyền Bầu cử năm 1965, vẫn không mấy người da đen đăng ký bầu cử ở Hạt Ford. Trong cuộc bầu cử bang năm 1967, gần 70% dân da trắng có quyền bầu cử đã đi bỏ phiếu, trong khi con số này của người da đen chỉ là 12%. Dân chúng ở Hạ trấn khá lãnh đạm với chuyện này. Một trong những lý do là hạt này dân da trắng chiếm đa số quá lớn, nên chẳng thể nào có hy vọng một người da đen được bầu lên nắm chức gì đó. Thế thì đi bầu làm gì nữa?
Một lý do khác là cái kiểu làm khó khi đăng ký bầu cử. Suốt cả trăm năm qua, dân da trắng đã dùng đủ mọi chiêu trò để dân da đen không thể đăng ký. Hồ sơ thuế, kiểm tra mù chữ, đủ thứ trên đời.
Nhưng thêm một lý do nữa là hầu hết người da đen ngại ngần chuyện này là vì họ sẽ được giới chức da trắng đăng ký. Và đăng ký nghĩa là thêm thuế, thêm giám sát, thêm theo dõi, thêm xâm phạm. Đăng ký nghĩa là có thể phải làm nghĩa vụ bồi thẩm.
Theo Harry Rex, một nguồn tin tòa án đáng tin cậy hơn Baggy, thì ở Hạt Ford, chưa hề có bồi thẩm da đen nào. Vì các bồi thẩm tiềm năng đều được chọn ra từ danh sách đăng ký bỏ phiếu, nên có quá ít người da đen để chọn vào danh sách bồi thẩm đoàn sơ bộ. Những người qua được các vòng sơ khảo cũng đều bị loại khi đến vòng cuối cùng chọn ra 12 người. Đối với các vụ án hình sự, bên công tố thường không muốn chọn người da đen vì tin rằng họ sẽ dễ động lòng trước bị cáo. Còn với các vụ án dân sự, bên bị đơn cũng không muốn có bồi thẩm da đen vì sợ họ quá tùy tiện ra phán quyết về chuyện tiền bạc.
Tuy nhiên, những giả thuyết này vẫn chưa hề được kiểm chứng ở Hạt Ford.
Ông bà Callie và Esau Ruffin đã đăng ký bầu cử từ năm 1951. Họ đã cùng nhau đi đến văn phòng thư ký tòa địa hạt để xin được thêm vào danh sách cử tri. Cô thư ký, như đã được đào tạo, đưa họ một tấm thẻ cũ mèm với dòng chữ “Tuyên ngôn độc lập” ở trên cùng. Tấm thẻ đó viết bằng tiếng Đức.
Viên thư ký vốn cho là ông bà Ruffin cũng mù chữ như hầu hết dân da đen ở Hạt Ford, thờ ơ bảo, “Hai người đọc được cái này không?”
Bà Callie trả lời ngay, “Đây đâu phải tiếng Anh, là tiếng Đức.”
“Cô đọc được không?” viên thư ký hỏi lại, nhận ra mình sẽ phải vất vả với cặp vợ chồng này đây.
“Tôi nghĩ cô cũng như tôi thôi,” bà Callie lịch sự đáp trả. Cô thư ký bèn lấy lại tấm thẻ đó, rồi đưa một tấm khác ra. “Cô đọc cái này được không?”
“Được. Đây là Tuyên ngôn Nhân quyền .”
“Mục số 8 nói gì?”
Callie đọc chậm rãi rồi nói, “Tu chính án thứ tám cấm mức phạt quá đáng và hình phạt tàn khốc.”
Và ngay lúc đó, Esau cúi người tới và nói, “Chúng tôi có sở hữu bất động sản.” Ông đặt chứng từ nhà lên bàn và viên thư ký mở ra kiểm tra. Sở hữu bất động sản không phải là điều kiện tiên quyết để được bầu cử, nhưng nếu là người da đen, thì đó là một yếu tố cực kỳ quan trọng. Không còn biết nói gì nữa, cô thư ký bảo, “Tốt rồi. Thuế cử tri là hai đô mỗi người.” Esau đưa tiền, và từ đó, họ tham gia vào cử tri đoàn cùng 31 người da đen khác, trong số đó không có ai là nữ giới.
Họ chưa hề bỏ lỡ cuộc bầu cử nào. Bà Callie đã luôn lo lắng khi quá ít bạn bè của bà bận tâm đến chuyện đăng ký và đi bầu, nhưng vì quá bận nuôi dạy tám người con, nên bà không còn thời gian lo chuyện đó. Hạt Ford không bị cuốn vào cơn náo động về chủng tộc vốn đã lan khắp hầu hết bang, nên cũng chẳng có động lực thực sự nào để kêu gọi người da đen đi đăng ký bầu cử.
Mới đầu, tôi chẳng biết bà lo lắng hay phấn khích nữa. Và hình như ngay cả bà cũng thế. Nữ cử tri da đen đầu tiên giờ có thể trở thành bồi thẩm da đen đầu tiên. Bà chưa hề thoái lui trước thách thức nào, nhưng phán quyết về người khác lại là một chuyện khiến bà bận tâm về luân lý. “Đừng phán xét để khỏi bị phán xét,” bà trích lại câu của Chúa Jesus hơn một lần.
“Nhưng nếu ai cũng theo câu đó, thì toàn bộ hệ thống tư pháp của chúng ta sẽ sụp đổ, phải chứ?” tôi hỏi.
“Tôi chẳng biết nữa,” bà nói, mắt nhìn xa xăm. Tôi chưa hề thấy bà Callie ưu tư đến như vậy.
Chúng tôi ăn gà chiên kèm khoai tây nghiền và nước sốt thịt. Hôm nay, ông Esau không về nhà ăn được.
“Làm sao tôi có thể phán xét một người tôi quen là có tội đây?” bà lại hỏi tiếp.
“Trước hết, bà lắng nghe các chứng cứ. Bà là người cởi mở mà. Sẽ không có gì khó khăn đâu.”
“Nhưng anh biết là hắn đã giết cô ấy. Anh nói quá rõ như thế trên báo.” Sự thành thật quá độ của bà lại một lần nữa khiến tôi giật thót.
“Chúng tôi chỉ tường thuật sự việc thôi, bà Callie. Nếu nó khiến hắn có vẻ có tội, thì hắn có tội thôi.”
Rồi hai chúng tôi lại im lặng, những khoảng lặng dài và thường xuyên trong bữa trưa hôm ấy. Bà trầm ngâm suy nghĩ và không ăn gì mấy.
“Còn về án tử hình thì sao?” bà hỏi. “Rồi họ sẽ cho anh ta vào phòng hơi ngạt, phải không?”
“Phải. Một vụ chủ ý giết người mà.”
“Ai quyết định chuyện tử hình hay không?”
“Bồi thẩm đoàn.”
“Trời ơi.”
Sau đó, bà không nuốt nổi gì nữa. Bà bảo từ khi nhận giấy triệu tập bồi thẩm đoàn, huyết áp bà đã tăng vọt và phải đi khám bác sĩ rồi. Tôi giúp bà ngồi lên sofa rồi lấy cho bà một cốc nước đá. Bà nhất quyết là tôi phải tiếp tục ăn cho xong bữa, và tôi quá sẵn lòng giúp chuyện đó trong thinh lặng. Lát sau, bà khỏe lên một chút, chúng tôi ngồi trên ghế lắc nơi hiên, nói đủ thứ chuyện miễn không phải là về Danny Padgitt và phiên tòa xử hắn.
Cuối cùng tôi cũng thành công dẫn dắt câu chuyện về chất Ý trong cuộc đời bà. Ngay từ buổi ăn trưa đầu tiên của chúng tôi, bà đã kể là bà học tiếng Ý trước cả tiếng Anh. Bảy người con của bà đều mang tên Ý.
Câu chuyện dài đó trước sau gì bà cũng phải kể cho tôi nghe chứ. Hơn nữa hiện giờ, tôi cũng không có việc gì phải làm gấp.
Vào những năm 1890, giá bông tăng đột biến khi nguồn cầu tăng mạnh khắp toàn thế giới. Những vùng đất màu mỡ của miền Nam gánh sức ép phải gia tăng sản lượng. Các ông chủ đồn điền lớn ở vùng Châu thổ Mississippi thèm khát tăng thu hoạch, nhưng lại phải đối diện vấn đề thiếu hụt nhân công. Nhiều người da đen đủ sức khỏe đã bỏ vùng đất mà tổ tiên họ phải sống đời nô lệ để tìm những công việc tốt hơn và cuộc sống còn tốt hơn nữa ở miền Bắc. Những người còn ở lại thì chẳng mấy hăng hái về công việc hái bông với đồng lương còm cõi.
Các chủ đất bèn cùng nhau lên kế hoạch nhập khẩu lao động từ nguồn di dân Âu châu vốn có sẵn tính công nghiệp và chịu khó để tăng sản lượng. Qua bắt mối với các môi giới lao động người Ý ở New York và New Orleans, những lời hỏi thăm, dối trá, dụ dỗ, hợp đồng được tung ra, và năm 1895, con thuyền đầu tiên chở các gia đình lao động di dân đã đến Châu thổ Mississippi. Họ là dân Bắc Ý, vùng Emilia-Romagna, phụ cận Verona. Hầu hết trong số họ đều ít học và nói được vài chữ tiếng Anh, nhưng cuộc sống trước mắt ngay lập tức nói với họ bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu nhất là họ đã bị lừa. Ở môi trường sống tồi tệ ở một vùng cận nhiệt đới, họ phải chiến đấu với bệnh sốt rét, muỗi và rắn, thiếu thốn nước sạch, mà phải làm cật lực để tăng sản lượng bông với một đồng lương không thể nào sống nổi. Họ buộc phải vay mượn tiền với giá cắt cổ từ các chủ đất. Thực phẩm cũng như nhu yếu phẩm thì mua từ cửa hàng của công ty với giá trên trời.
Vì dân Ý làm việc quá chăm chỉ, nên các chủ đất muốn tìm thêm. Vậy là họ tô son trát phấn lên triển vọng công việc, hứa hẹn đủ điều với các môi giới lao động Ý, và dòng nhân công di dân cứ thế đổ về. Một hệ thống làm công trả nợ bắt đầu hình thành, và dân Ý còn bị đối xử tệ hơn các nông dân da đen.
Qua thời gian, chính phủ đã có những nỗ lực để phân chia lợi nhuận và chuyển đổi quyền sở hữu đất đai, nhưng vì thị trường bông vải đem lại dòng tiền quá khủng khiếp, nên chẳng thỏa thuận nào đi đến đâu cả. Sau 20 năm bị bóc lột sức lao động, cuối cùng dân Ý cũng tan tác đi nơi khác.
Những người còn ở lại vùng châu thổ này thì bị xem là công dân hạng hai suốt nhiều thập kỷ. Con cái họ không được đi học, và vì họ là người Công giáo, nên chẳng được chào đón ở các nhà thờ Tin Lành. Các câu lạc bộ đồng quê cũng không có chỗ cho họ. Họ là những “dago” và bị đẩy xuống tận đáy xã hội. Nhưng nhờ làm việc chăm chỉ và biết dành dụm tiền bạc, họ dần tích lũy được đất đai.
Gia đình Rossetti kiếm được mảnh đất gần Leland, Mississippi, vào năm 1902. Hồi trước, họ sống ở một ngôi làng gần Bologna, vì nghe lời một môi giới lao động lươn lẹo mà lâm phải cảnh này. Ông bà Rossetti đưa cả bốn người con gái theo, cô chị đầu là Nicola, được 12 tuổi khi đặt chân đến Mỹ. Dù trong năm đầu tiên ở đây cả nhà thường thiếu ăn, nhưng vẫn xoay xở được để khỏi chết đói. Đặt chân đến đất khách quê người với túi tiền rỗng không, sau ba năm lao động đã trở thành khoản nợ 6000 đô và họ chẳng có cách nào để trả.
Thế là vào nửa đêm, họ bỏ trốn khỏi vùng Châu thổ, đi nhờ tàu hàng đến Memphis, nương nhờ nhà một người bà con xa.
Ở tuổi 15, Nicola đã phát tiết vẻ đẹp trời phú, với mái tóc dài, đôi mắt nâu, đậm chất Ý. Trông cô già dặn hơn tuổi và ông chủ một cửa hàng áo quần đã nhận cô vào làm ngay khi cô bảo mình đã 18. Ông chủ chỉ mất thêm ba ngày nữa để ngỏ lời cầu hôn cô. Ông bảo nếu Nicola chịu theo ông, thì ông sẵn sàng ly dị người vợ chung sống với mình 20 năm và bỏ rơi đàn con. Cô từ chối thẳng thừng. Thế là ông ta tìm đến ông Rossetti và đề nghị khoản tiền 5000 đô. Ông Rossetti từ chối ngay.
Thời đó, chỗ mua sắm và xã giao cho các gia đình nông trang giàu có ở miền bắc Mississippi là ở Memphis, thực sự là trong vòng phạm vi quanh khách sạn Peabody thôi. Và cũng tại đó, ông Mr. Zachary DeJarnette ở Clanton đã có cơ duyên gặp được Nicola Rossetti. Hai tuần sau, họ cưới nhau.
Ông 31 tuổi, đã góa vợ và không có con, đang nghiêm túc tìm một bà chủ mới để cai quản gia đình. Ông cũng là chủ đất lớn nhất Hạt Ford, nơi đất đai không màu mỡ bằng vùng Châu thổ, nhưng vẫn đem lại lợi nhuận khổng lồ nếu nắm trong tay đủ nhiều đất đai như bốn ngàn mẫu đất mà ông thừa kế từ gia đình. Ông của DeJarnette từng là chủ nô của ông nội Calia Harris Ruffin.
Cuộc hôn nhân đó là một giao kèo cho cả nhà. Nicola khôn ngoan hơn tuổi nhiều, và cô cũng mong mỏi bảo vệ gia đình mình. Cả nhà cô đã chịu quá nhiều đau khổ. Bây giờ, cơ hội vừa đến và cô phải tận dụng nó triệt để. Trước khi đồng ý kết hôn, cô bắt ông DeJarnette phải hứa không chỉ tuyển bố cô làm đốc công nông trại mà còn chu cấp cho gia đình cô một căn nhà tiện nghi. Ông còn đồng ý cho ba em gái cô được ăn học và trả hết tiền nhà họ nợ chủ đất ở vùng Châu thổ. Ông DeJarnette quá say mê Nicola, nên cô ra điều kiện gì, ông cũng chấp nhận hết.
Những người Ý đầu tiên ở Hạt Ford, không đến bằng toa hàng, mà là toa hạng nhất trên chuyến tàu Trung Illinois. Một đoàn người đứng chào mừng, giúp họ dỡ đống hành lý mới toanh xuống, và đưa họ lên hai chiếc Ford Model T 1904. Nhà Rossetti được đối đãi như hoàng tộc khi theo chân ông DeJarnette đi dự hết tiệc này đến tiệc khác ở Clanton. Cả thành phố xôn xao bàn tán về nhan sắc chim sa cá lặn của tân nương nhà DeJarnette. Nghe đồn là sẽ có hôn lễ trang trọng, để chính thức hóa nghi thức hôn phối nhanh gọn ở Memphis, nhưng vì ở Clanton không có nhà thờ Công giáo nào nên chuyện đó sớm bị gạt đi. Tân nương và tân lang vẫn chưa xác định rõ vấn đề tôn giáo này. Dù cho lúc đó, nếu Nicola yêu cầu ông DeJarnette cải sang Ấn giáo chắc ông cũng làm theo ngay tắp tự.
Cuối cùng, họ về đến dinh thự ở rìa thành phố. Khi nhà Rossetti bước vào lối đi dài dẫn đến dinh thự tiền Nội chiến do tay cụ tổ DeJarnette xây lên, ai cũng nước mắt giàn giụa.
Họ sẽ sống ở đây cho đến khi nhà của đốc công được sửa xong. Nicola nhận lấy nhiệm vụ của bà chủ dinh thự và cố hết sức để có thai càng sớm càng tốt. Các cô em gái được có gia sư riêng, và chỉ trong vài tuần đã nói tiếng Anh trôi chảy. Ông Rossetti hằng ngày đi cũng cậu con rể chỉ kém ông ba tuổi để học cách điều hành trang trại.
Còn bà Rossetti thì ghé vào bếp, nơi bà gặp bà India, mẹ của Callie.
“Bà tôi nấu ăn cho nhà DeJarnette, mẹ tôi cũng thế,” bà Callie kể. “Tôi nghĩ mình cũng sẽ thế, nhưng hóa ra lại không như vậy.”
“Ông Zack và bà Nicola có con không?” tôi hỏi. Lúc đó, tôi đã uống đến ly trà thứ ba hay thứ tư gì rồi. Trời thì nóng và đá tan rất nhanh. Bà Callie đã kể chuyện suốt hai tiếng đồng hồ, quên luôn chuyện triệu tập bồi thẩm đoàn và phiên tòa xử vụ án mạng.
“Không. Thật đáng buồn, vì họ mong có con lắm. Khi tôi ra đời năm 1911, bà Nicola đã nuôi tôi thay mẹ tôi. Bà nhất quyết đặt cho tôi cái tên Ý. Bà cho tôi sống trong nhà lớn với bà. Mẹ tôi chẳng phiền gì chuyện đó, bà có nhiều con mà, hơn nữa, bà cũng làm việc trong nhà lớn cả ngày.”
“Còn bố bà thì làm gì?” tôi hỏi.
“Làm việc ở nông trại. Nhà ông DeJarnette là chốn tuyệt vời để ở và làm việc. Nhà tôi thật may mắn vì ông ấy chăm lo cho chúng tôi. Họ là những người tốt. Luôn tốt. Không nhiều người da đen được như thế. Hồi đó, cuộc sống của người da đen nằm trong tay chủ nhà da trắng. Nếu chủ nhà ác độc và ngược đãi, thì cuộc sống khốn khổ. Nhưng nhà DeJarnette là những người tuyệt vời. Bố tôi, ông tôi, cả ông cố tôi, đều làm việc cho họ, và chưa hề bị ngược đãi.”
“Còn bà Nicola?”
Bà Callie cười, nụ cười đầu tiên sau một tiếng đồng hồ. “Tôi thật có phúc. Tôi có đến hai người mẹ. Bà cho tôi mặc những bộ đồ bà mua ở Memphis. Khi tôi mới chập chững, bà dạy tôi nói tiếng Ý song song tiếng Anh. Bà dạy tôi đọc từ năm ba tuổi.”
“Và bà vẫn nói tiếng Ý?”
“Không. Lâu quá rồi.” Bà Nicola thích kể cho tôi chuyện hồi nhỏ của bà ở Ý và hứa đến một ngày bà sẽ đưa tôi tới đó, để ngắm kênh đào Venice, thành Vatican ở Roma và tháp nghiêng Pisa. Bà mê hát và còn dạy tôi hát opera.
“Vậy là bà ấy có học?”
“Mẹ của bà có chút học vấn, ông Rossetti thì không, và mẹ bà đã bảo đảm cho bà và các em biết đọc biết viết. Bà Nicola hứa sẽ cho tôi học đại học ở miền Bắc, hay thậm chí là ở châu Âu, nơi dân tình bao dung hơn. Vào những năm 1920, ý nghĩ một phụ nữ da đen vào đại học đúng là chuyện điên rồ.”
Câu chuyện đang mở ra nhiều hướng. Tôi muốn ghi chép lại vài phần, nhưng hôm nay lại không đem theo sổ. Hình ảnh một cô bé da đen sống trong dinh thự, nói tiếng Ý và nghe nhạc opera ở Mississippi cách đây 50 năm, đúng là chuyện độc nhất vô nhị.
“Bà có làm việc trong nhà đó không?” tôi hỏi.
“Ồ, có chứ, khi tôi lớn hơn. Tôi lo việc dọn dẹp, nhưng chưa hề làm nhiều như những người khác. Bà Nicola muốn giữ tôi bên mình. Chúng tôi ngồi trong phòng khách của bà ấy để luyện nói, ít nhất một tiếng mỗi ngày. Bà nhất quyết bỏ ngữ âm Ý của mình, và cũng nhất quyết là tôi phải phát âm và có ngữ vựng chuẩn. Có một giáo viên về hưu, cô Tucker, tôi không bao giờ quên bà ấy, và bà Nicola cho xe đến đón bà ấy mỗi sáng. Bên tách trà, chúng tôi đọc một bài và bà Tucker sẽ chỉnh những lỗi phát âm dù là nhỏ nhất. Chúng tôi còn học ngữ pháp, học từ vựng. Bà Nicola ép mình cho đến khi nói được thứ tiếng Anh hoàn hảo.”
“Chuyện học đại học thì sao?”
Đột nhiên, bà Callie thấy đuối sức, và câu chuyện coi như tạm dừng ở đó. “À, anh Traynor, đó đúng là chuyện quá đau buồn. Ông DeJarnette mất sạch gia sản vào những năm 1920. Ông dốc rất nhiều vốn đầu tư vào xe lửa, tàu thủy, cổ phiếu, và chuyện phá sản ập đến một cách không ngờ. Ông đã tự sát bằng súng, đấy lại là chuyện khác nữa.”
“Còn bà Nicola?”
“Bà ấy xoay xở giữ được ngôi nhà lớn cho đến thời Thế chiến II, rồi chuyển về Memphis sống với bố mẹ. Chúng tôi gửi thư cho nhau hàng tuần suốt nhiều năm. Tôi vẫn đang giữ những lá thư đó. Bà qua đời bốn năm trước, thọ 76 tuổi. Tôi đã khóc suốt một tháng. Bây giờ, hễ nghĩ đến bà, tôi lại muốn khóc. Tôi thương bà ấy quá.” Giọng bà xuôi dần, và theo kinh nghiệm, tôi biết bà chuẩn bị đi ngủ trưa rồi.
Tối hôm đó, tôi vùi đầu vào kho lưu trữ của tòa soạn. Vào ngày 12 tháng 9 năm 1930, có một bài báo in trên trang nhất về vụ ông Zachary DeJarnette tự sát. Tuyệt vọng vì việc kinh doanh sụp đổ, ông đã để lại một di chúc mới và thư tuyệt mệnh cho người vợ, Nicola, rồi như để khỏi phiền mọi người thêm nữa, ông lái xe đến nhà tang lễ ở Clanton, bước vào cửa chính, cầm theo khẩu shotgun hai nòng, tìm đến phòng liệm xác, kéo ghế ngồi, cởi giày ra, kê súng vào miệng và dùng ngón chân cái bóp cò.