CHƯƠNG 15
Sáng thứ Ba, phiên tòa phí phạm gần hai tiếng để các luật sư tranh cãi về kháng nghị gay gắt nào đó trong văn phòng thẩm phán. “Có lẽ là về mấy tấm ảnh,” Baggy liên tục rỉ tai tôi. “Họ luôn tranh cãi về ảnh.” Vì chẳng được hóng nghe họ bàn cãi gì nên chúng tôi đành sốt ruột ngồi yên chờ đợi, giữ ghế tốt kiếm được trong phòng xử. Tôi đã viết hàng trang các ghi chú vô dụng với nét chữ mèo cào. Cứ cắm cúi viết như thế giúp tôi có việc để làm và quên đi những ánh mắt trừng trừng từ đám nhà Padgitt. Khi bồi thẩm đoàn đã ra khỏi phòng xử, họ liền hướng mắt về phía những người dự khán, và tôi là tâm điểm.
Các bồi thẩm được đưa vào một phòng cách biệt, có cảnh sát đứng gác phòng khi có kẻ muốn làm gì họ để kiếm lợi thế trong phiên tòa. Căn phòng đó ở trên tầng hai, có cửa kính lớn nhìn xuống góc đông của khuôn viên tòa. Bên ngoài phòng là cục nóng điều hòa kêu ầm ầm đến nỗi cả quảng trường cũng nghe được. Lúc này, tôi nghĩ đến bà Callie và chứng huyết áp của bà. Tôi biết thế nào bà cũng đang đọc Kinh Thánh, mong cái đó giúp được bà bình tâm. Hồi sáng, tôi đã gọi cho ông Esau. Ông rất buồn khi bà tỏ ra khá thu mình, tránh né.
Esau đang ngồi ở mấy hàng ghế cuối phòng xử, sốt ruột chờ đợi như chúng tôi.
Khi cuối cùng thẩm phán Loopus và các luật sư cũng bước ra, nhìn bộ dạng họ như vừa bước xuống sàn đấu vậy. Thẩm phán ra hiệu với chấp hành tòa cho gọi các bồi thẩm vào, rồi ông chào mừng họ, cảm ơn họ, thăm hỏi về chỗ ăn nghỉ, xin lỗi vì những bất tiện trong thời gian qua, xin lỗi vì chuyện trì hoãn sáng nay, rồi hứa với họ là từ giờ phiên tòa sẽ tiến triển suôn sẻ cả.
Ernie Gaddis tiến lên bục và bắt đầu bài diễn văn mở đầu với bồi thẩm đoàn. Ông cầm tập giấy trên tay, nhưng không nhìn xuống nó lần nào. Gaddis nói hùng hồn về những điểm chính mà bên công tố sẽ chứng minh để buộc tội Danny Padgitt. Khi mọi chứng cứ đã được đưa ra, mọi nhân chứng đã nói xong hết, các luật sư và thẩm phán đã xong việc, thì công lý được giao trọn nơi tay bồi thẩm đoàn để được thực thi. Chắn chắn Gaddis nghĩ rằng bồi thẩm đoàn sẽ thấy Danny Padgitt có tội hiếp dâm và giết người. Mỗi lời ông nói ra đều để lại dấu ấn, không phí phạm một lời nào. Một bài nói ngắn gọn đến không ngờ. Cung giọng tự tin và những nhận định súc tích đã truyền đạt được thông điệp rõ ràng rằng ông nắm trong tay sự thực, và sẽ đòi được phán quyết định tội trong vụ này. Ông không cần những lập luận dài dòng, đánh vào cảm xúc, để thuyết phục bồi thẩm đoàn.
Baggy thích thú quay sang tôi, “Luật sư yếu thế thì thường nói nhiều.”
Lạ thay, Lucien Wilbanks trì hoãn bài diễn văn mở đầu đến tận lúc bên bị bắt đầu mời nhân chứng, một chuyện hiếm khi xảy ra. “Lão đang âm mưu gì đó,” Baggy lẩm bẩm như thể đang đi guốc trong bụng Lucien vậy. “Chẳng lạ gì.”
Nhân chứng đầu tiên của bên công tố là cảnh sát trưởng Coley. Dĩ nhiên một phần công việc của cảnh sát trưởng là làm chứng trong những vụ án hình sự, nhưng chắc Coley chẳng ngờ có ngày ông ta phải đứng ra làm chứng chống lại một người nhà Padgitt. Vài tháng nữa là đến kỳ bầu cử rồi. Với lão bây giờ, thể hiện trước cử tri là chuyện rất quan trọng.
Với sự thúc ép và chiến lược kỹ lưỡng từ phía Gaddis, Coley thuật lại cho cả phòng xử về tiến trình vụ án. Họ đưa ra sơ đồ lớn với nhà Kassellaw, nhà Deece, những con đường quanh Beech Hill và nơi mà Danny Padgitt bị bắt, kèm ảnh của những địa điểm đó. Còn có ảnh thi thể của Rhoda, một loạt ảnh 20x25 được đưa cho các bồi thẩm chuyền tay nhau. Phản ứng của họ thật kinh khủng. Nhìn mặt ai cũng thấy rõ là bị sốc. Một số còn co rúm lại. Vài người há hốc miệng sững sờ. Bà Callie thì nhắm mắt lại, có vẻ đang cầu nguyện. Một bà nữa trong bồi thẩm đoàn, Barbara Baldwin, vừa nhìn qua tấm đầu tiên đã hụt hơi và không dám nhìn tiếp. Rồi bà nhìn về phía Danny Padgitt như thể sẵn sàng thực thi công lý ngay lập tức. “Chúa ơi,” một bồi thẩm nam thốt lên. Một người khác thì bịt miệng như thể quá buồn nôn.
Các bồi thẩm ngồi trên ghế xoay có bịt nút ở chân, và mấy cái ghế cứ rung nhẹ. Khi những tấm ảnh được chuyền quanh, tôi thấy không cái ghế nào đứng yên nổi. Những tấm ảnh là thứ kích động, có khả năng tạo định kiến cao, nhưng hầu như luôn được chấp nhận để làm chứng cứ, và thấy chúng đang gây náo động trong hàng ghế bồi thẩm đoàn, tôi chắc chắn Danny Padgitt toi đời rồi. Thẩm phán Loopus chỉ cho phép đưa ra sáu tấm ảnh, một tấm phải rút lại.
Lúc bấy giờ đã là 1:00 chiều, và ai cũng cần nghỉ trưa, nhưng tôi thấy mấy bồi thẩm của chúng tôi chắc không nuốt nổi miếng nào trong bữa trưa rồi.
Nhân chứng thứ hai của bên công tố là một người chị của Rhoda sống ở Missouri, là cô Ginger McClure, người mà tôi đã trao đổi vài lần. Khi biết tôi từng học ở Syracuse và không phải dân gốc Hạt Ford, cô đã cởi mở hơn nhiều và gửi cho tôi một tấm ảnh để đăng cáo phó. Sau đó, cô còn gọi điện hỏi xem tôi có thể gửi cho cô những số báo có bài liên quan đến vụ của Rhoda được không vì văn phòng công tố không chịu tiết lộ đầy đủ thông tin cho cô.
Ginger có dáng người mảnh khảnh, quyến rũ và ăn mặc đẹp, nên khi cô bước lên bục nhân chứng, mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía cô.
Theo Baggy, luôn có một người trong gia đình nạn nhân ra làm chứng. Khi một người thân yêu nhìn thẳng vào bồi thẩm đoàn mà kể về mất mát của mình, thì cái chết của nạn nhân trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết.
Ernie muốn Ginger ra trước bồi thẩm đoàn và khơi gợi sự cảm thông của họ. Ông còn muốn nhắc cho bồi thẩm đoàn rằng, hai đứa trẻ đã mãi mãi mất đi mẹ mình vì hành động giết người có chủ ý. Ernie chỉ hỏi Ginger vài câu ngắn gọn, và Lucien Wilbanks, biết thân biết phận, cũng không đòi đối chất gì. Khi xuống khỏi bục, Ginger đi về cái ghế để sẵn cho cô ngay gần bên Ernie Gaddis, chỗ của thân nhân người bị hại. Toàn bộ khán phòng dõi theo cô cho đến khi nhân chứng tiếp theo được mời lên.
Chuyện máu me lại được lôi ra. Một chuyên viên pháp y của bang được mời đến để nói về kết quả mổ tử thi. Dù có trong tay nhiều ảnh, nhưng ông không dùng tấm nào. Đâu cần. Nguyên do cái chết của cô quá rõ ràng, mất quá nhiều máu. Có một vết cắt dài mười phân từ tai trái của cô thẳng xuống dưới, sâu gần năm phân, và theo ý kiến pháp y, một người đã thấy quá nhiều vết thương do dao, thì đây là một cú đâm nhanh và mạnh từ một cây dao dài khoảng 15 phân, rộng gần ba phân. Người dùng dao này có khả năng là thuận tay phải. Vết rách đã cắt đứt hoàn toàn tĩnh mạch cổ trái, và ngay thời điểm đó, nạn nhân chỉ còn vài phút để sống. Một vết cắt khác dài hơn 16 phân, sâu hơn hai phân, chạy từ đáy cằm đến tai phải, gần như cắt đứt tai phải ra làm hai. Nếu chỉ có vết thương này, thì có lẽ không dẫn đến khả năng tử vong.
Chuyên viên pháp y mô tả những vết thương khủng khiếp đó như thể nói về mấy vết rận cắn, như chuyện nhỏ, chuyện thường mà thôi. Trong ngành của mình, ông đã thấy chuyện chém giết này hàng ngày, và giờ đang thuật lại cho bồi thẩm đoàn nghe. Nhưng với mọi người khác trong phòng, những chi tiết đó thật rợn người. Tôi có thể cảm nhận lúc chuyên viên pháp y đang nói, mọi bồi thẩm đều nhìn vào Danny Padgitt và thầm phán quyết “có tội” rồi.
Lucien Wilbanks bắt đầu phần đối chất một cách điềm đạm. Hai người đã chạm mặt nhau ở nhiều phiên tòa trước đó. Lucien khiến chuyên viên pháp y thừa nhận rằng có thể một vài ý kiến của ông sai, chẳng hạn như kích cỡ hung khí và việc hung thủ thuận tay phải. “Tôi đã nói rằng khả năng cao là thế,” ông kiên nhẫn đáp lại. Tôi cảm thấy có vẻ ông đã bị đối chất quá nhiều lần, nên chẳng có gì làm ông nao núng được nữa. Wilbanks cố công kích vài điểm, nhưng cẩn trọng không để gợi lại những chứng cứ rợn người đó. Bồi thẩm đã nghe đủ về những vết đâm vết chém rồi, có điên mới gợi lại cảm giác đó cho họ.
Tiếp theo là một chuyên viên pháp y khác. Ông này cũng đồng thời khám nghiệm tử thi và tìm thấy vài manh mối về thân phận của hung thủ. Ở vùng âm hộ, ông tìm thấy tinh trùng khớp hoàn toàn với máu của Danny Padgitt. Dưới móng ngón tay trỏ phải của Rhoda, có một mảnh da người nhỏ xíu. Nó cũng khớp với máu của bị cáo.
Khi đối chất, Lucien Wilbanks hỏi liệu có phải ông đã đích thân xét nghiệm Danny Padgitt hay không. Câu trả lời là không. Trên cơ thể của Danny Padgitt có vết trầy xước, cào cấu gì như thế hay không?
“Tôi không khám người anh ta,” chuyên viên pháp y đáp.
“Ông có kiểm tra ảnh chụp anh ấy không?”
“Không.”
“Vậy nếu anh ấy bị mất một chút da, ông không thể bảo đảm là mất khi nào, phải chứ?”
“Tôi e là thế.”
Sau vài giờ trình bày chứng cứ và lời chứng, mọi người trong phòng xử đều mệt lử. Thẩm phán Loopus cho bồi thẩm đoàn rút lui sau khi nghiêm nghị cảnh báo về chuyện không liên lạc với bên ngoài. Có vẻ động thái này hơi thừa khi mà họ được giấu kỹ ở một thành phố khác, lại có cảnh sát canh gác.
Tôi và Baggy tức tốc quay về tòa soạn, hì hục đánh máy điên cuồng đến gần 10:00 tối. Giờ là thứ Ba, và Hardy thích có bài để in trước 11:00 đêm. Trong những tuần hiếm hoi không gặp trục trặc máy móc, ông có thể in 5000 bản trong chưa đầy ba tiếng đồng hồ.
Nhận bài rồi, Hardy xếp chữ nhanh hết sức có thể. Chẳng có thời gian để biên tập hay dò lại, nhưng tôi không lo lắm về số báo này vì bà Callie nằm trong bồi thẩm đoàn và đâu thể tìm lỗi sai của chúng tôi được. Vừa xong việc là Baggy nốc liền một hơi rượu và tức tốc ra về. Tôi cũng đang định về nhà thì cô Ginger McClure vừa đến trước cửa tòa soạn, mở lời chào tự nhiên như thể chúng tôi là bạn cũ lâu năm. Cô mặc quần jean bó và áo đỏ.
Ginger hỏi tôi muốn uống gì không. Ở văn phòng thì không được rồi, thế là chúng tôi rời quảng trường trên chiếc Spitfire và lái đến tiệm tạp hóa Quincy mua một lốc bia Schlitz. Cô ấy muốn xem nhà của Rhoda lần cuối, dù chỉ đứng ngoài đường mà nhìn thôi. Trên đường đến đó, tôi thận trọng hỏi dò về hai đứa trẻ. Câu chuyện thật không dễ chịu gì. Cả hai đang sống cùng người chị kia của Rhoda, Ginger cũng cho tôi biết là cô ấy vừa mới ly dị. Hai đứa bé đang được trị liệu tâm lý đều đặn. Cậu bé có vẻ gần như bình thường rồi, dù thỉnh thoảng cũng rơi vào trạng thái trầm lặng lâu giờ. Cô bé thì tệ hơn nhiều, không ngừng gặp ác mộng về mẹ mình và không kiểm soát nhịn tiểu được. Thỉnh thoảng lại thấy cô bé nằm co quắp kiểu bào thai, mút ngón tay và kêu rên đau khổ. Các bác sĩ đã phải cho cô bé dùng nhiều loại thuốc.
Cả hai đứa trẻ đều không chịu kể cho các dì hay bác sĩ về những gì chúng thấy vào đêm đó. “Chúng đã thấy mẹ chúng bị cưỡng hiếp và bị đâm,” Ginger nói, uống xong chai đầu tiên. Chai của tôi vẫn còn phân nửa.
Nhà của vợ chồng Deece trông như thể hai ông bà đã ngủ một mạch mấy ngày rồi. Chúng tôi rẽ vào căn nhà từng là một mái ấm hạnh phúc nhỏ của ba mẹ con. Ngôi nhà trống không, tối tăm, và hoang lạnh. Trên sân có cắm bảng “RAO BÁN.” Ngôi nhà này là tài sản giá trị duy nhất của Rhoda. Toàn bộ sẽ được chuyển cho các con cô.
Theo lời Ginger, tôi tắt đèn và tắt máy xe, dù thầm nghĩ đây không phải là ý hay bởi rõ ràng hàng xóm có thể cảm thấy có gì đó không ổn khi có ai làm thế này. Hơn nữa, chiếc Triumph Spitfire của tôi là chiếc độc nhất vô nhị ở Hạt Ford, như thế càng tăng thêm vẻ khả nghi cho nó.
Cô chậm rãi đặt tay lên tay tôi mà hỏi, “Làm sao hắn vào được nhà nhỉ?”
“Họ đã tìm được dấu giày ở cửa sân sau. Có vẻ cửa đó không khóa. Và chúng tôi im lặng, nhưng cùng hình dung cảnh hành hung, cưỡng hiếp, con dao, bọn trẻ chạy ra khỏi nhà hét gọi ông Deece cứu mẹ chúng.
“Cô có thân với cô ấy không?” tôi hỏi, tai vừa nghe thấy tiếng xe đâu đó xa xa.
“Hồi nhỏ thì thân, gần đây thì không. Nó rời nhà đi mười năm rồi mà”
“Cô hay đến đây thăm em không?”
“Hai lần. Tôi cũng chuyển đi xa, đến California. Chúng tôi có thể nói là mất liên lạc. Sau khi chồng nó mất, chúng tôi nài nỉ nó về lại Springfield, nhưng nó bảo thích ở đây. Sự thật là nó và mẹ tôi không hợp tính nhau.”
Một chiếc bán tải chầm chậm chạy qua. Tôi cố tỏ ra tỉnh như sáo, nhưng cũng ý thức rõ ở khu vực tối tăm của hạt có thể xảy ra những chuyện gì. Ginger thì cứ đăm đăm nhìn ngôi nhà, chìm đắm trong hình dung khủng khiếp nào đó, có vẻ không nghe thấy gì. May là chiếc bán tải không dừng lại. “Đi thôi,” cô vừa nói vừa siết chặt tay tôi. “Tôi sợ.”
Khi lái xe đi, tôi nhìn thấy ông Deece đang nấp bên hông gara, tay cầm khẩu shotgun. Ông đã được sắp xếp là nhân chứng cuối cùng của bên công tố.
Ginger có phòng ở một nhà nghỉ trong vùng, nhưng cô không muốn về đó. Lúc đó đã quá nửa đêm, chẳng còn mấy chỗ để đi, nên chúng tôi lái về nhà Hocutt, tôi đưa cô ấy lên lầu, lách qua đám mèo, vào căn hộ của tôi.
“Đừng có ý gì nhé,” cô ấy nói khi vung chân rũ giày và ngồi lên sofa. “Tôi không có hứng.”
“Tôi cũng thế,” tôi giả tỉnh.
Giọng cô ấy đã bắt đầu suồng sã rồi, và cái hứng của cô ấy cũng có thể thay đổi rất nhanh. Tôi quá sẵn lòng chờ lúc đó.
Tôi tìm được bia lạnh trong bếp, và chúng tôi ôm chai ngồi xuống như thể định tám chuyện đến sáng “Kể về gia đình cậu đi,” cô ấy bảo.
Tôi chẳng mê chủ đề này lắm, nhưng vì cô gái này, thì cũng được. “Tôi là con một. Mẹ mất năm tôi 13. Bố tôi sống ở Memphis, trong nhà của gia tộc, ông cứ ở lì đó vì không có mấy lựa chọn khác. Ông có một văn phòng trên tầng áp mái và ở đó suốt ngày đêm để giao dịch chứng khoán. Tôi chẳng biết ông giỏi vụ đó không, nhưng nghe nói ông thua nhiều hơn thắng. Chúng tôi gọi điện cho nhau mỗi tháng một lần.”
“Cậu có giàu không?”
“Không, bà tôi mới giàu. Bà ngoại của tôi, BeeBee, đã cho tôi vay tiền để mua tòa soạn này.”
Ginger nhấp mấy ngụm bia, trầm ngâm nghĩ ngợi, rồi cũng tự sự. “Nhà tôi có ba chị em, giờ còn hai. Hồi nhỏ chúng tôi nghịch ngợm lắm. Một tối nọ, bố tôi đi mua đồ ăn rồi chẳng bao giờ trở về. Sau đó, mẹ tôi đã thử trò chơi hôn nhân hai lần nữa, nhưng chẳng đi đến đâu. Tôi đã ly dị. Chị tôi cũng ly dị. Rhoda thì chết rồi.” Cô cầm chai bia chồm tới cụng với tôi. “Mừng hai người có gia đình thảm hại.”
Đã ly dị, không con cái, phóng khoáng và xinh đẹp. Tôi quá sẵn sàng dành thời gian với nàng Ginger này.
Cô ấy muốn biết thêm về Hạt Ford và những nhân vật ở đây, như Lucien Wilbanks, nhà Padgitt, cảnh sát trưởng Coley và nhiều nữa. Tôi cứ kể mải miết với hy vọng cô ấy sẽ có hứng.
Nhưng hóa ra chẳng được gì. Khoảng 2:00 sáng, cô ấy nằm ra sofa, còn tôi về giường một mình.