← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 18

Tòa xử lại vào lúc 3:00. Các bồi thẩm đều đủ mặt, nhà Padgitt chưa hạ ai trong giờ nghỉ. Bà Callie cười với tôi, nhưng chẳng có nét gì vui.

Thẩm phán Loopus giải thích cho bồi thẩm đoàn rằng giờ là phiên tranh luận bế mạc, sau đó ông sẽ đọc chỉ thị chính thức cho bồi thẩm đoàn và họ có một vài tiếng để ra phán quyết định tội. Các bồi thẩm lắng nghe cẩn thận, nhưng tôi e là họ vẫn còn choáng váng vì màn đe dọa trắng trợn vừa rồi. Cả thành phố đều choáng váng. Các bồi thẩm là đại diện cho chúng tôi, cho cả cộng đồng này, và đe dọa họ nghĩa là đe dọa tất cả mọi người.

Công tố viên Ernie là người phát biểu trước, và chẳng mấy chốc, chiếc áo đẫm máu lại được lôi ra. Nhưng ông biết cẩn trọng, không lạm dụng nó quá. Các bồi thẩm vốn đã hiểu thấu sự tình và biết quá rõ về chứng cứ này.

Phần phát biểu của công tố viên thấu đáo nhưng ngắn gọn đến bất ngờ. Khi ông đưa ra lời thỉnh cầu cuối cùng đòi một phán quyết có tội, cả phòng xử đều hướng mắt về phía bồi thẩm đoàn. Nhìn khuôn mặt họ, đôi mắt họ, chẳng có chút đồng cảm nào cho bị cáo. Fargarson, “thằng què” thậm chí còn gật đầu theo lời Ernie. Ông John Deere cũng không còn khoanh tay nữa, chăm chú lắng nghe từng chữ một.

Phần phát biểu của Lucien còn ngắn gọn hơn, nhưng lão có gì đâu mà nói. Lão mở đầu bằng phần biện hộ cho những lời cuối cùng mà thân chủ lão đã ném thẳng vào mặt bồi thẩm đoàn. Lão xin lỗi về hành vi của thân chủ mình, nói rằng đó chỉ là do áp lực tình huống, khi một chàng trai 24 tuổi phải đối mặt với án tù hoặc tệ hơn nữa là phòng hơi ngạt. “Danny” của lão - vì lão cứ luôn miệng gọi tên hắn như thể nhắc đến một cậu bé ngây thơ vô tội - phải gánh chịu áp lực quá khủng khiếp đến nỗi lão thấy phải lo ngại cho sự ổn định tâm thần của hắn.

Vì không thể chạy theo thuyết âm mưu ngớ ngẩn của thân chủ mình, cũng như biết rõ đừng nhắc đến chứng cứ làm gì, nên lão làm cả tòa mất nửa tiếng hoặc hơn để nghe bài ca ngợi các anh hùng đã viết nên Hiến pháp và Tuyên ngôn Nhân quyền. Nghe cách Lucien giải thích về giả định vô tội và yêu cầu bên công tố phải chứng minh lập luận có tội một cách chắc chắn tuyệt đối không còn bất kỳ điều gì để hoài nghi, tôi bỗng tự hỏi nếu thế thì có được mấy tội phạm sẽ bị kết án đây.

Bên công tố có quyền phát biểu phản bác bế mạc, nhưng bên bị thì không, nên Ernie là người được nói những lời cuối cùng. Ông bỏ qua chứng cứ, cũng không nhắc đến bị cáo, và thay vào lại nói về Rhoda, về tuổi trẻ và sắc đẹp, cuộc sống đơn sơ của cô ở Beech Hill, cái chết của chồng, và thách thức phải một mình nuôi dạy hai đứa con thơ.

Cách này rất hiệu quả, và các bồi thẩm nuốt lấy từng lời.

“Đừng quên cô ấy” là điệp khúc của ông. Là một tay hùng biện cừ khôi, ông để dành chiêu độc nhất cho phút cuối.

“Và đừng quên con cái của cô ấy,” ông vừa nói vừa nhìn vào mắt từng bồi thẩm. “Chúng đã ở đó khi mẹ chết. Cái chúng đã chứng kiến thật quá kinh khủng và chúng sẽ kinh sợ cả đời. Chúng có tiếng nói trong phòng xử này, và tiếng nói của chúng chính là các bạn.”

Sau đó, thẩm phán Loopus đọc chỉ dẫn cho bồi thẩm đoàn rồi bảo chấp hành tòa đưa họ lui về phòng để cân nhắc phán quyết. Lúc đó đã hơn 5:00 chiều, giờ này các cửa hàng quanh quảng trường đã đóng cửa, người bán kẻ mua đã ra về từ lâu, giao thông chẳng còn mấy, đỗ xe cũng dễ dàng.

Nhưng vào ngày diễn ra phiên tòa thì không!

Đám đông chật cứng trên bãi cỏ tòa án, họ hút thuốc, tán gẫu, dự đoán bao lâu thì có phán quyết. Số khác thì chen chúc trong các hàng quán, uống tách cà phê hoặc ăn bữa nhẹ. Ginger theo về văn phòng tôi, ngồi trên ban công quan sát hoạt động bên dưới. Tinh thần cô đã kiệt quệ, nước mắt đã khóc cạn, và cô chỉ muốn đi khỏi Hạt Ford càng sớm càng tốt.

“Cậu quen Hank Hooten không?” cô ấy hỏi.

“Chưa từng gặp nhau. Sao lại hỏi vậy?”

“Giờ ăn trưa, tôi vô tình gặp anh ta và anh ta bảo quen thân Rhoda, biết là nó không lang chạ bừa bãi, với Danny Padgitt lại càng không. Tôi bảo là tôi chẳng hề tin em mình lại quen loại mạt hạng như hắn.”

“Anh ta có nói là từng hẹn hò với cô ấy không?” tôi hỏi.

“Anh ta không nói, nhưng tôi cũng đoán thế. Khi kiểm tra đồ đạc Rhoda, một hai tuần gì đó sau đám tang, tôi tìm thấy tên và số điện thoại của anh ta trong sổ danh bạ của con bé.”

“Cô đã gặp Baggy rồi?” tôi hỏi.

“Rồi.”

“Baggy rảo khắp nơi, nghĩ cái gì mình cũng biết. Hôm thứ Hai, khi khai mạc phiên tòa, ông ấy đã bảo tôi là Rhoda và Hank đang hẹn hò nhau. Còn nói Hank đã qua hai đời vợ, nổi tiếng là kẻ trăng hoa.”

“Vậy là anh ta đang độc thân?”

“Chắc là không. Để tôi hỏi Baggy.”

“Có lẽ biết em tôi ngủ với một luật sư sẽ làm tôi vui hơn chút.”

“Sao lại vui hơn?”

“Tôi chẳng biết.”

Cô cởi giày ra, kéo chiếc váy ngắn lên cao hơn nữa. Tôi mân mê cặp đùi, và đầu óc tạm rời xa phiên tòa, nhưng chỉ được trong chốc lát. Trước cửa tòa án bỗng xôn xao, và tôi nghe ai đó hét lên gì đó về “phán quyết.”

Sau khi suy nghĩ trong chưa đầy một tiếng, bồi thẩm đoàn đã sẵn sàng. Khi các luật sư và người dự khán đã yên vị, thẩm phán Loopus mới quay sang bảo chấp hành tòa, “Đưa họ vào.”

Khi cánh cửa hông mở ra, Fargarson là người đầu tiên bước vào, Baggy quay sang thì thầm với tôi, “Có tội là cái chắc. Nhanh ra phán quyết thì luôn là có tội.”

Thật ra, lúc trước Baggy đã khẳng định chắc nịch phán quyết sẽ bị treo, bị trì hoãn dài ngày, nhưng giờ tôi cũng chẳng buồn nhắc lại ông.

Chủ tịch bồi thẩm đoàn đưa một tờ giấy gấp lại cho chấp hành tòa chuyển đến thẩm phán. Loopus mở ra, đọc chầm chậm, xem xét kỹ hồi lâu, rồi cúi người lại gần micro, “Mời bị cáo đứng lên.” Cả Padgitt và Lucien đều đứng dậy, chậm chạp và khó khăn, như thể đang đứng trước đội hành quyết vậy.

Thẩm phán Loopus tuyên đọc, “Về tội danh thứ nhất, tội danh cưỡng hiếp, bồi thẩm đoàn chúng tôi thấy bị cáo Danny Padgitt có tội. Về tội danh thứ hai, tội danh giết người, bồi thẩm đoàn chúng tôi thấy bị cáo Danny Padgitt có tội.”

Lucien mặt tỉnh bơ, còn Padgitt lại cố gắng làm ngược lại. Hắn nhìn các bồi thẩm với sự hung hãn thù hằn hết sức có thể, nhưng đâu có là gì so với hơn chục ánh mắt khinh bỉ đáp trả lại.

“Mời bên bị ngồi,” thẩm phán bảo rồi quay sang bồi thẩm đoàn. “Xin cảm ơn các bạn vì đã dốc sức phục vụ cho công ích. Đến đây là hoàn tất phần xác định có tội hay vô tội của phiên tòa. Giờ chúng ta chuyển sang phần hình phạt, và các bạn sẽ phải quyết định liệu bị cáo này sẽ nhận án tử hình hay án tù. Giờ các bạn sẽ trở về khách sạn, phiên tòa sẽ tạm nghỉ cho đến 9:00 sáng mai. Cảm ơn và chúc một tối an lành.”

Mọi chuyện kết thúc quá nhanh đến nỗi đám đông dự khán chẳng kịp phản ứng gì. Họ đưa Danny Padgitt ra, lần này là với hai tay bị còng, đám người nhà Padgitt thì sững sờ hoang mang cực độ. Lucien chẳng buồn nán lại để trò chuyện với họ.

Tôi và Baggy tức tốc về văn phòng, gõ máy đánh chữ như điên. Phải vài ngày nữa mới in báo, nhưng chúng tôi muốn lưu giữ khoảnh khắc này. Sau tầm nửa tiếng, ngọn lửa cảm hứng trong Baggy đã lụi dần vì cơn thèm rượu bắt đầu lên tiếng. Lúc Ginger ghé văn phòng, trời đã tối, cô mặc quần jeans bó áo ôm, tóc xõa, bộ dạng nói rõ bốn chữ “Đưa em đi chơi.”

Chúng tôi lại ghé tạp hóa Quincy, mua một lốc bia, rồi hạ mui xe, hưởng làn gió ấm mùi bùn đất suốt một tiếng rưỡi trên đường đến Memphis.

Ginger không nói gì nhiều và tôi cũng không muốn hỏi. Gia đình ép cô phải đại diện đến tham dự phiên tòa, chứ cô đâu muốn phải trải qua cơn ác mộng này. May mắn thay, cô tìm được tôi làm nguồn khuây khỏa chút ít.

Tôi sẽ không bao giờ quên đêm đó. Lái xe băng băng trên xa lộ tối đen, uống lon bia lạnh, cầm tay một cô gái xinh đẹp chủ động đến tìm tôi, người đã qua đêm với tôi và chắc chắn sẽ làm thế lần nữa.

Nhưng chuyện tình ngọt ngào ngắn ngủi của chúng tôi đã sắp tàn, chỉ còn vài tiếng nữa thôi. Baggy nghĩ giai đoạn tuyên án sẽ mất chưa đến một ngày nên phiên tòa sẽ kết thúc vào ngày mai, thứ Sáu. Ginger chỉ muốn rời Clanton càng sớm càng tốt và không bao giờ ngoảnh đầu lại, còn tôi dĩ nhiên đâu thể bỏ đi cùng cô ấy. Tôi đã xem bản đồ rồi, Springfield, Missouri xa nơi này lắm, ít nhất phải sáu tiếng lái xe. Đi lại hàng ngày là gần như bất khả thi, dù cho nếu cô ấy muốn, chắc tôi cũng tìm cách làm cho bằng được.

Nhưng linh tính mách bảo tôi rằng Ginger sẽ biến mất khỏi đời tôi cũng nhanh như cách cô ấy bước vào. Tôi chắc chắn ở quê nhà cô ấy hẳn phải có bạn trai, có khi còn hơn thế, nên tôi sẽ không được hoan nghênh ở đó. Và nếu có gặp tôi ở Springfield thì cũng chỉ khiến cô ấy nhớ về Hạt Ford và những ký ức kinh khủng.

Tôi siết chặt tay Ginger, thề sẽ biến những giờ cuối cùng này thành khoảng thời gian tuyệt diệu nhất.

Đến Memphis, chúng tôi tới những tòa nhà cao cạnh bờ sông. Ở đây có nhà hàng sườn nướng nổi tiếng Rendezvous của một gia đình người Hy Lạp. Hầu hết các quán ăn ngon Memphis đều là của người Ý hoặc Hy Lạp.

Vào những năm 1970, khu trung tâm Memphis không phải chốn an toàn cho lắm. Tôi đỗ xe tại một gara rồi đi dọc một con hẻm đến Rendezvous. Mùi khói từ lò nướng của nhà hàng tuôn ra qua ống thông gió tạo thành một làn khói sương dày đặc quanh các tòa nhà. Đấy là cái mùi thơm ngon nhất tôi từng ngửi thấy, và như hầu hết các khách quen khác, bụng tôi đã sôi cồn cào khi đặt chân đến ngưỡng cửa.

Những ngày thứ Năm, khách không đông lắm. Chúng tôi chờ năm phút, rồi được một bồi bàn dẫn đi len lỏi qua cả dãy bàn, qua dãy buồng nhỏ, đến tận một phòng lớn sâu bên trong. Anh nháy mắt với tôi, sắp chỗ cho chúng tôi ở một bàn tối góc phòng. Chúng tôi gọi sườn nướng và bia, rồi cho những bàn tay tranh thủ tìm đến nhau trong lúc chờ món lên.

Phán quyết có tội khiến ai cũng nhẹ nhõm. Bất kỳ phán quyết nào khác cũng đều là một thảm họa và Ginger hẳn đã giận dữ rời Clanton ngay lập tức. Mai cô ấy cũng sẽ đi, nhưng ít ra, hiện giờ tôi vẫn còn cô ấy trong vòng tay. Chúng tôi nâng ly mừng phán quyết. Với Ginger, phán quyết đó nghĩa là công lý đã chiến thắng. Với tôi cũng vậy, nhưng tôi còn cảm kích hơn vì nó cho tôi thêm một tối nữa cạnh mỹ nhân.

Ginger ăn ít thôi, thế là tôi chén xong miếng sườn của mình rồi xử lý luôn phần trên đĩa của cô ấy. Tôi kể cho Ginger về bà Callie và những bữa trưa trước hiên nhà, về những đứa con xuất chúng và xuất thân đặc biệt của bà. Ginger bảo cô cũng mến bà Callie như cô mến cả 11 bồi thẩm còn lại.

Nhưng tình cảm đó lại sớm tan biến.

Đúng như tôi dự kiến, bố tôi đang đóng chốt trên tầng áp mái, nơi mà ông gọi là văn phòng. Thật ra nó là tầng thượng của một tòa tháp phong cách Victoria ở góc mặt tiền tòa nhà bệ rạc của chúng tôi tại khu trung tâm Memphis. Ginger muốn xem nó và vào giờ này nhìn nó đẹp hơn lúc ban ngày. Nhà tôi nằm ở một khu ảm đạm đầy những ngôi nhà xuống cấp của những gia đình phú quý giật lùi đang cố sống sót theo kiểu nghèo tao nhã.

“Bố cậu làm gì trên đó vậy?” Ginger hỏi khi chúng tôi đang ngồi trên xe, tắt máy tối om và văng vẳng bên tai tiếng con chó schnauzer của bà Duckworth sủa ăng ẳng cách bốn số nhà.

“Tôi kể rồi mà. Ông giao dịch chứng khoán và trái khoán.”

“Vào ban đêm á?”

“Ông đang nghiên cứu thị trường. Chẳng bao giờ đúng.”

“Và ông bị mất tiền?”

“Chắc chắn là chẳng kiếm được đồng nào.”

“Cậu lên đó chào bố không?”

“Thôi. Tôi chỉ chọc ông thêm cáu.”

“Bao lâu rồi hai bố con chưa gặp nhau?”

“Tầm ba, bốn tháng gì đó.” Hiện giờ tôi còn tâm trí nào mà gặp bố chứ. Lửa tình háo hức đã chiếm trọn tôi rồi. Chúng tôi lái xe ra khỏi Memphis, vào ngoại ô, và tôi tìm được nhà trọ Holiday ở xa lộ liên bang để tấp vào.