CHƯƠNG 19
Sáng thứ Sáu, ông Esau Ruffin gặp tôi ở hành lang ngoài phòng xử và cho tôi một bất ngờ thú vị. Đi cùng với ông là ba người con trai, Al, Max và Bobby (Alberto, Massimo và Roberto), ai cũng mong được chào hỏi tôi. Tôi đã nói chuyện với cả ba người họ cách đây một tháng khi viết bài về bà Callie và những người con xuất chúng. Chúng tôi bắt tay và hỏi thăm nhau vài câu, rồi họ lịch sự cảm ơn tôi vì tình cảm tôi dành cho mẹ của họ, vì những lời tốt đẹp tôi viết về gia đình họ. Họ đều nói chuyện ôn tồn, thoải mái và chỉn chu như bà Callie.
Họ vừa đến đây vào tối muộn hôm qua để ủng hộ tinh thần cho mẹ mình. Cả tuần, ông Esau chỉ mới nói chuyện với bà được một lần vì tòa chỉ cho mỗi bồi thẩm được gọi duy nhất một cuộc điện thoại trong suốt thời gian xử án. Ông biết bà vẫn ổn, chỉ lo về chứng huyết áp của bà mà thôi.
Chúng tôi chuyện trò một hồi rồi cùng nhau vào phòng xử, và bốn người nhà họ ngồi ngay cạnh chỗ tôi. Một lát sau, khi bà Callie bước ra, bà nhìn xuống chỗ tôi thì thấy ba người con trai và nụ cười của bà bỗng rạng rỡ sáng ngời, nỗi mệt mỏi trong đôi mắt tan biến ngay lập tức.
Trong phiên tòa, tôi đã thấy vẻ mặt bà có phần nào hãnh diện. Bà đang ngồi ở chỗ mà chưa người da đen nào từng ngồi, sánh vai ngang hàng với những đồng bào da trắng, phán xét một người da trắng, những chuyện trước nay chưa hề có ở Hạt Ford. Tôi cũng thấy được sự lo âu của bà khi phiêu lưu vào một địa hạt quá lạ lẫm này.
Nhưng giờ đã có các con trai đến xem, gương mặt bà chỉ còn niềm hãnh diện, nỗi sợ hãi lo âu đã tan biến cả. Bà ngồi thẳng lưng thêm một chút, và dù lâu nay chẳng bỏ sót gì, nhưng giờ mắt bà đang sáng lên, bồn chồn nhìn quanh chờ đợi điều sắp đến và hoàn tất nhiệm vụ này của mình.
Thẩm phán Loopus giải thích với các bồi thẩm rằng trong giai đoạn tuyên án, bên công tố sẽ cung cấp chứng cứ về các tình tiết khiến tội ác đã phạm nghiêm trọng thêm, để hỗ trợ cho yêu cầu án tử hình. Bên bị sẽ không được đưa ra các chứng cứ giảm nhẹ. Bản thân thẩm phán cũng không nghĩ tiến trình này sẽ kéo dài. Hôm nay là thứ Sáu, phiên tòa đã kéo dài quá lâu rồi, các bồi thẩm cũng như tất cả mọi người khác ở Clanton đều muốn Padgitt ra đi để nhịp sống của thành phố này trở lại bình thường.
Ernie Gaddis đứng lên, cảm ơn các bồi thẩm vì đã đưa ra phán quyết có tội thật hợp lý và thừa nhận là mình cảm thấy không cần phải đưa ra thêm lời chứng nào nữa. Tội ác này quá dã man đến nỗi chẳng còn gì khiến nó có thể nặng thêm nữa. Ông xin các bồi thẩm hãy nhớ lại những tấm hình chụp Rhoda trên xích đu trước hiên nhà ông Deece, nhớ lại lời chứng của chuyên viên pháp y về những vết thương kinh khủng và cơn hấp hối của cô, và xin đừng quên những đứa con bơ vơ của cô. Làm như thể có ai quên được chuyện đó vậy.
Ernie hùng hồn đòi có án tử hình. Ông nói vắn tắt về lý do tại sao những người dân Mỹ thiện lương tin tưởng vào bản án tối hậu này, vì sao nó xứng đáng được dùng để vừa làm hình phạt vừa làm sự răn đe. Ông còn trích dẫn cả Kinh Thánh.
Trong gần 30 năm làm công tố viên hình sự ở sáu hạt, ông chưa hề thấy một vụ nào đáng bị tuyên án tử hình đến thế. Nhìn khuôn mặt các bồi thẩm, tôi tin chắc ông sẽ có được cái ông muốn.
Ernie kết bài bằng lời nhắc nhở rằng các bồi thẩm đã được chọn sau khi tuyên hứa là mình có thể tuân thủ luật pháp. Rồi ông đọc cho họ trích đoạn luật về án tử hình. Gấp quyển sách lại, ông dõng dạc vung nhát búa cuối cùng để đóng đinh chặt bản án này, “Bang Mississippi đã chứng minh được vụ này. Các vị đã xác định được Danny Padgitt có tội cưỡng hiếp và giết người. Giờ luật pháp yêu cầu phải có bản án tử hình. Và trách nhiệm của các vị là phải đưa ra được bản án đó.”
Bài diễn thuyết hùng hồn của Ernie tổng cộng đến 51 phút, và khi ông nói xong, tôi biết bồi thẩm đoàn chắc chắn sẽ đưa Padgitt lên đoạn đầu đài, không chỉ một mà phải hai lần.
Theo Baggy, trong một vụ trọng án, thì sau khi bên bị cố chứng minh sự vô tội của mình suốt phiên nhưng vẫn bị bồi thẩm đoàn phán có tội thì thường bị cáo sẽ đứng lên nói lời ăn năn hối hận vì tội ác mà mình đã cố chối cãi suốt cả tuần qua. “Họ sẽ van xin, khóc lóc. Xem hay ho lắm,” ông bảo vậy.
Nhưng vì những lời kinh khủng vào hôm trước, Padgitt bị cấm không được hiện diện gần bồi thẩm đoàn. Lucien đành mời mẹ của hắn, Lettie Padgitt. Bà ta tầm 50, dáng điệu thanh tao, mái tóc muối tiêu ngắn, và mặc bộ váy đen như thể đã để tang cho con mình rồi. Với những câu hỏi dẫn dắt của Lucien, bà ta làm chứng một cách gọn gàng chỉn chu hệt như đang đọc bài soạn sẵn chi tiết đến từng quãng ngắt. Bà ta kể về cậu bé Danny thích đi câu cá sau giờ học, từng bị gãy chân vì ngã lúc trèo cây, từng thắng giải đánh vần hồi lớp bốn. Danny thuở bé chưa hề gây phiền toái gì, và cả lúc lớn cũng vẫn là đứa con ngoan, là niềm vui cho gia đình. Hai đứa anh của hắn không ngoan hiền cho lắm, nhưng Danny lại khác.
Bài làm chứng này ngớ ngẩn và thể hiện quá rõ ràng mục đích tô son trát phấn cho một con quỷ. Nhưng trong bồi thẩm đoàn có ba bà mẹ, là bà Callie, bà Barbara Baldwin và bà Maxine Root, họ là những người mà Lucien nhắm đến. Lão chỉ cần một người ngả về mình là đủ.
Thế nên, cũng chẳng ngạc nhiên gì khi bà Padgitt bắt đầu rơi lệ. Bà ta chẳng hề tin rằng con mình lại phạm một tội ác khủng khiếp đến thế, nhưng nếu bồi thẩm đoàn đã tin như vậy, thì bà ta sẽ cố chấp nhận sự thật này. Nhưng tại sao lại xóa sổ nó khỏi cõi đời? Tại sao lại giết cậu bé ngoan của bà? Đưa con của bà lên đoạn đầu đài thì ích lợi gì cho thế giới chứ?
Tôi có thể thấy nỗi đau của bà là thật tâm. Cảm xúc của bà đang quá nguyên sơ, trần trụi. Bất kỳ con người nào trên đời cũng sẽ cảm thông với một người phụ nữ sắp mất con. Cuối cùng bà sụp đổ, và Lucien để yên cho bà nức nở trên bục nhân chứng. Cái ban đầu là một màn diễn dày công biên soạn đã trở thành một lời thỉnh cầu dốc hết ruột gan khiến các bồi thẩm phải xót xa.
Lucien nói lão không còn nhân chứng nào nữa. Rồi lão và Ernie nói vài lời tóm lại ngắn gọn và đến 11:00 trưa, bồi thẩm đoàn lại bắt đầu trọng trách phán quyết của mình.
Ginger đã hòa vào đám đông đi mất. Tôi về văn phòng mình chờ cô một hồi nhưng vẫn chẳng thấy, nên tôi rảo bộ qua bên kia quảng trường, tới văn phòng của Harry Rex. Ông bảo thư ký đi mua sandwich và chúng tôi dùng bữa trưa trong phòng họp bừa bộn của ông. Như hầu hết luật sư ở Clanton, suốt tuần qua ông cắm chốt ở phòng xử để xem một vụ án chẳng có ý nghĩa tài chính gì với mình.
“Bạn cậu sẽ kiên quyết chứ?” ông hỏi qua cái miệng nhồm nhoàm thịt và pho mát.
“Bà Callie hả?” tôi hỏi.
“Ừ. Bà ấy thoải mái về chuyện phòng hơi ngạt chứ?”
“Tôi chẳng biết. Chúng tôi đâu có dịp chuyện trò.”
“Chúng tôi thấy lo về bà ấy, cả gã què chết tiệt nữa.”
Harry Rex lặng lẽ mà tích cực tham gia vào vụ này đến mức có thể nghĩ là ông làm việc cho công tố bang và Ernie Gaddis luôn ấy. Nhưng ngoài ông ra, còn nhiều luật sư khác ở đây kín đáo góp sức cho bên công tố.
“Họ mất chưa đầy 60 phút để định tội hắn,” tôi nói, “vậy là dấu hiệu tốt nhỉ?”
“Có lẽ, nhưng đến lúc ký án tử hình, các bồi thẩm hay làm chuyện trái khoáy lắm.”
“Thì có sao chứ? Hắn sẽ bị chung thân. Theo những gì tôi biết về Parchman, án chung thân còn tệ hơn cả phòng hơi ngạt.”
“Chung thân đâu hẳn là chung thân,” ông vừa nói vừa lấy khăn giấy lau miệng.
Nghe đến đó, tôi bỏ miếng bánh trên tay xuống, “Vậy chung thân là thế nào?” tôi hỏi.
“Mười năm, có khi còn ít hơn.”
Tôi vẫn đang cố hiểu chuyện này. “Ý ông là án chung thân ở Mississippi chỉ là mười năm?”
“Cậu hiểu đúng rồi đấy. Sau mười năm, có khi còn chưa đến, kẻ phạm tội giết người sẽ đủ điều kiện để xin ân xá. Điên rồ quá, phải không hả?”
“Nhưng tại sao?”
“Đừng cố hiểu làm gì, Willie, là luật thôi mà. Luật đã có từ 50 năm rồi. Và tệ hơn nữa là bồi thẩm đoàn chẳng biết chuyện này. Ta cũng chẳng mách họ được. Cậu ăn thêm xà lách trộn không?”
Tôi lắc đầu.
“Tòa án Tối cao lỗi lạc của chúng ta cho rằng nếu bồi thẩm đoàn không biết án chung thân thật ra lại nhẹ đến thế thì họ sẽ có khuynh hướng ngả về án tử hình hơn. Nếu thế thì lại bất công cho bị cáo.”
“Chung thân mà là mười năm,” tôi lẩm bẩm một mình. Luật kiểu gì thế, như ở Mississippi này, còn có luật các tiệm bán rượu phải đóng cửa vào ngày bầu cử, như thể sợ cử tri sẽ say xỉn mà bầu nhầm người ấy. Nhưng mà thế còn hợp lý hơn.
“Cậu hiểu chuyện rồi đấy,” Harry Rex nói xong là nhét miếng sandwich bự còn lại vào miệng. Ông lôi từ trên giá sách ra một bì thư, mở nó ra rồi thả một tấm ảnh đen trắng trước mặt tôi. “Lộ tẩy rồi nhé,” ông cười hả hê.
Đấy là ảnh chụp tôi đang vội vã đi ra từ phòng của Ginger ở nhà nghỉ vào sáng thứ Năm. Tôi trong ảnh trông mệt mỏi, còn chút váng vất, có vẻ sợ bị bắt gặp, nhưng cũng đầy mãn nguyện.
“Ai chụp tấm này vậy?” tôi hỏi.
“Lính của tôi. Cậu ấy đang làm một vụ ly hôn, tình cờ thấy chiếc xe đỏ chót của cậu tấp vào nên quyết định kiếm chút trò vui.”
“Đâu chỉ anh ấy được vui.”
“Cô nàng hấp dẫn thật mà. Cậu ấy đã cố kiếm cái ảnh phòng the nhưng chẳng tìm ra góc chụp.”
“Tôi ký tên tặng ông luôn nhé?”
“Thôi, cậu cứ giữ đi.”
Sau ba tiếng suy nghĩ và bàn bạc khá bế tắc và chậm chạp, bồi thẩm đoàn mới có được quyết định để trình lên thẩm phán Loopus. Ông ra lệnh tiếp tục phiên tòa và chúng tôi liền phóng như bay qua đường đến phòng xử.
Nếu bồi thẩm đoàn không thể đưa ra phán quyết nhất trí về án tử hình thì theo luật, thẩm phán buộc phải tuyên án chung thân.
Cả phòng xử, ai nấy đều bồn chồn pha lẫn sợ hãi khi chờ các bồi thẩm bước ra. Ở phòng bồi thẩm đoàn, hẳn đã có chuyện gì đó rồi. Nhà Padgitt đã ra tay rồi sao?
Nhưng rồi họ lần lượt bước ra, và tôi thấy khuôn mặt bà Callie đờ đẫn, một vẻ mặt tôi chưa hề thấy nơi bà. Còn bà Barbara Baldwin rõ ràng đã khóc. Sắc mặt một vài bồi thẩm nam thì như vừa đánh nhau xong và đang nôn nóng muốn xông vào tái chiến.
Chủ tịch bồi thẩm đoàn đứng lên, căng thẳng giải thích với thẩm phán rằng bồi thẩm đoàn không thể thống nhất và không có tiến bộ nào trong một tiếng đồng hồ qua. Ông không mấy lạc quan về một bản án được tất cả nhất trí, và họ đều muốn về nhà cho rồi.
Thẩm phán Loopus bèn hỏi từng bồi thẩm một về khả năng đưa ra được một bản án tất cả nhất trí. Họ đều nói là không.
Tôi có thể cảm nhận lửa giận bắt đầu nhen nhóm dần nơi mọi người dự khán. Người ta quay sang bên này bên kia, thì thầm to nhỏ, và như thế càng khiến các bồi thẩm thêm lo.
Vậy là thẩm phán Loopus đưa cái mà về sau này Baggy giải thích cho tôi là “thuốc nổ phá đường”, một bài ứng khẩu về việc giữ gìn luật pháp và giữ vững lời đã hứa khi được chọn làm bồi thẩm. Bài khiển trách khá dài và nghiêm khắc, nhưng cũng có thể thấy rõ nhiều phần tuyệt vọng trong đó.
Và nó chẳng hiệu quả. Hai tiếng sau, thẩm phán hỏi bồi thẩm đoàn về phán quyết, kết quả vẫn như cũ. Ông miễn cưỡng cảm ơn và cho họ về nhà.
Khi họ đi rồi, ông cho gọi Danny Padgitt lên, mắng cho hắn một bài thấm tận xương tủy đến mức khiến tôi nổi cả da gà. Ông gọi hắn là tên hiếp dâm, tên giết người, hèn nhát, đối trá, là thứ trộm cướp khốn nạn nhất vì đã cướp đi người mẹ của hai đứa trẻ còn quá nhỏ. Đúng là một màn mắng chửi tối tăm mặt mũi. Tôi đã cố viết ra hết không chừa lời nào, nhưng vì thẩm phán Loopus chửi quá hay quá đúng, nên tôi dừng luôn cả bút và chỉ lắng nghe. Một mục sư cũng không thể nào mắng chửi về tội lỗi của kẻ này được như ông.
Nếu có quyền, ông đã cho hắn bản án tử hình, và là bản án thực thi thật sớm, thật đau đớn.
Nhưng luật là luật, và ông phải tuân thủ luật. Ông tuyên án hắn tù chung thân và ra lệnh cảnh sát trưởng Coley chuyển hắn đến nhà tù bang ở Parchman ngay lập tức. Coley cho còng tay hắn đưa đi.
Thẩm phán Loopus đập búa bãi tòa. Ở cuối phòng xử, có cãi vã nổ ra khi một lão chú của Danny va phải Doc Crull, một thợ hớt tóc và là người có tiếng nóng nảy. Đám đông nhanh chóng tụm lại, vài người chửi nhà Padgitt, bảo họ cuốn xéo về cồn ngay đi. “Về cái vũng lầy của bọn mày đi,” tôi nghe vài người hét lên thế. Cảnh sát tách họ ra, và nhà Padgitt rời khỏi tòa án.
Đám đông nán lại một chút, như thể phiên tòa vẫn chưa xong, như thể công lý chưa được thực thi trọn vẹn. Rõ ràng nhiều người thấy nóng mặt, những tiếng chửi thề vang lên, nhìn cảnh này tôi có thể hình dung được cách những vụ dân chúng kích động tự xử tự hành quyết hình thành như thế nào.
Ginger vẫn không đến. Cô nói sẽ ghé qua văn phòng để chào tạm biệt, nhưng rõ ràng cô đã đổi ý. Tôi có thể hình dung cô đã bỏ đi trong màn đêm, vừa khóc vừa chửi rủa, đếm xem còn bao nhiêu cây số nữa là thoát khỏi Mississippi này. Ai mà trách cô được?
Chuyện tình ba ngày của chúng tôi kết thúc đột ngột theo cách cả hai đều đã lường trước nhưng không ai nói ra. Tôi chẳng nghĩ sẽ có dịp gặp lại nhau, và nếu có thì cũng chỉ là một vài đêm để quên đi chuyện đời rồi ai đi đường nấy. Cô ấy sẽ còn gặp nhiều người đàn ông nữa mới tìm được người bên cô lâu dài. Tôi ra ngồi ở ban công văn phòng mình, nhìn xuống chờ đợi xe Ginger tấp vào, dù trong lòng biết rõ có lẽ lúc này cô ấy đã đến Arkansas rồi. Cảm giác này thật quá lạ lẫm, khi mới sáng hôm nay chúng tôi còn thức dậy cùng nhau, háo hức trở lại tòa án để xem kẻ giết em gái cô ấy lãnh án tử hình.
Với những tình tiết và nhất là cảm xúc còn đang rất mới, rất mãnh liệt, tôi ngồi vào bàn viết một bài xã luận về bản án này. Đây sẽ là một màn công kích gay gắt nhắm vào luật hình sự của bang. Đây sẽ là những lời chân thành và thật tâm nhất, đi vào lòng độc giả nhất.
Tôi đang say sưa viết thì ông Esau gọi đến. Ông đang ở bệnh viện với bà Callie và mong tôi sớm ghé đến đó.
Bà đã bị ngất khi lên xe rời tòa án. Esau và ba người con tức tốc đưa bà đến bệnh viện, một quyết định quá hợp lý. Bác sĩ bảo huyết áp của bà quá cao, có nguy cơ đột quỵ. Sau vài tiếng, bà đã ổn định lại, trông sắc mặt khá hơn hẳn. Tôi cầm tay bà, bảo tôi rất tự hào về bà, đủ thứ. Nhưng mục đích thật sự của tôi là câu chuyện xảy ra ở trong phòng bồi thẩm đoàn cơ, một câu chuyện sẽ không một ai chịu kể cho tôi.
Thăm bà xong, tôi ra uống cà phê với Al, Max, Bobby và ông Esau đến tận nửa đêm. Bà Callie chẳng hé ra điều gì về thời gian cân nhắc của bồi thẩm đoàn.
Nhưng các con bà thì kể về cuộc đời họ, về các anh chị em, con cái và sự nghiệp cũng như thời gian sinh trưởng ở Clanton này. Tôi háo hức lắng nghe, có lúc còn muốn lôi cả giấy bút ra.