← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 20

Trong sáu tháng đầu tiên ở Clanton, tôi thường đi chơi xa vào những dịp cuối tuần. Ở đó có ít trò để chơi quá mà. Trừ tiệc dê nướng lâu lâu có một lần của Harry Rex, một tiệc cocktail khủng khiếp mà tôi chuồn đi chỉ sau 20 phút tham dự, thì chẳng có gì để gặp nhau giao lưu cả. Thật sự mọi người trạc tuổi tôi đều đã kết hôn cả, và bữa tiệc gia đình lý tưởng với họ là tiệc kem vào tối thứ Bảy ở một trong vô số nhà thờ nho nhỏ tại đây. Hầu hết những ai có cơ hội đi xa học đại học đều chẳng quay trở về.

Vì chán, thỉnh thoảng tôi đi Memphis vào những dịp cuối tuần, nhưng thường ở lại nhà bạn chứ chẳng hề về nhà mình. Tôi còn đi vài chuyến đến New Orleans, nơi một cô bạn gái cũ hồi trung học đang sống và tiệc tùng tới bến. Nhưng tôi là chủ tờ Thời báo , một công dân của Clanton. Tôi phải chấp nhận cuộc sống ở một thành phố nhỏ, bao gồm cả những dịp cuối tuần tẻ nhạt. Thế là văn phòng trở thành nơi trú ẩn cho tôi.

Trưa thứ Bảy sau hôm có bản án, tôi lại đến đó. Trong đầu tôi đã có sẵn vài mẩu chuyện về phiên tòa này để viết, lại còn thêm bài xã luận mà tôi chỉ vừa chấp bút được mấy hàng. Lúc bước vào, tôi thấy trên sàn có bảy lá thư được chuồi qua khe cửa. Đây là truyền thống ở tờ Thời báo cũng khá lâu rồi. Vào những dịp hiếm hoi ông Bớt viết được gì đó khiến độc giả thấy phải phản hồi, thì sẽ có một lá thư, không phải qua đường bưu điện mà được kín đáo chuồi qua khe cửa.

Bốn lá có ký tên, ba lá ẩn danh. Hai lá được đánh máy, số còn lại là viết tay, trong đó có một lá chữ xấu quá tôi chẳng đọc nổi. Cả bảy lá đều thể hiện sự phẫn nộ khi Danny Padgitt chỉ bị án chung thân. Tôi chẳng ngạc nhiên khi thị trấn này muốn đòi nợ máu hắn. Tôi cũng thấy khó chịu khi sáu trong bảy lá thư này có nhắc đến bà Callie. Lá đầu tiên được đánh máy và không ký tên. Trên thư chỉ có vài dòng:

Thân gửi Tổng biên tập. Cộng đồng chúng ta đã bị hạ giá thêm một mức nữa khi một kẻ ngoài vòng pháp luật như Danny Padgitt có thể cưỡng hiếp, giết người và thoát tội. Sự hiện diện của một người da đen trong bồi thẩm đoàn là hồi chuông cảnh tỉnh rằng suy nghĩ của dân đó không như suy nghĩ của những người da trắng tuân thủ luật pháp.

Bà Edith Caravelle ở Beech Hill, thì nói những lời đơn giản với dòng chữ viết tay đẹp đẽ:

Thân gửi Tổng biên tập. Tôi sống cách nơi xảy ra án mạng chỉ hơn cây số và lại có hai đứa con tuổi thiếu niên. Tôi biết giải thích thế nào với chúng về bản án đó đây? Kinh Thánh có viết: “Mắt đền mắt, răng đền răng.” Có lẽ quy tắc đó không áp dụng ở Hạt Ford.

Rồi lại đến một lá thư không tên nữa, viết bằng mực thơm, giấy viết có viền hoa lá.

Thân gửi Tổng biên tập. Thấy khi cho người da đen đảm nhận trách nhiệm gì là sao rồi đấy. Mọi bồi thẩm da trắng hẳn sẽ treo cổ tên Padgitt đó ngay trong phòng xử. Giờ Tòa án Tối cao còn bảo phải để người da đen dạy học cho con cái ta, làm cảnh sát bảo vệ đường phố ta và tranh cử làm người điều hành ta. Cầu Chúa giúp chúng ta.

Là tổng biên tập kiêm chủ sở hữu, tôi có toàn quyền kiểm soát nội dung in trên các số Thời báo . Tôi có thể biên tập các lá thư, lờ chúng đi, hoặc chọn lá nào đăng lá nào bỏ. Về những vấn đề gây tranh cãi, các lá thư gửi cho tổng biên tập thường là thứ thêm dầu vào lửa. Nhưng chúng giúp báo bán chạy, vì mấy lá thư đó còn lên được diễn đàn nào ngoài các trang báo địa phương này, vừa miễn phí vừa có tiếng vang trong cộng đồng.

Đọc xong loạt thư đầu, tôi đã ra quyết định sẽ không in bất kỳ thứ gì có hại cho bà Callie. Và tôi ngày càng giận dữ khi người ta cho rằng bà là người gây trì hoãn và ngăn cản bản án tử hình.

Tại sao thành phố lại nóng lòng đổ hết trách nhiệm trong bản án ô nhục này cho người da đen duy nhất trong bồi thẩm đoàn? Và họ còn chẳng có chứng cứ gì nữa. Tôi thề với lòng mình sẽ tìm hiểu cho ra chuyện thực sự đã diễn ra trong phòng bồi thẩm đoàn, và nghĩ ngay đến Harry Rex. Chắc chắn đến thứ Hai, Baggy sẽ váng vất hơi men bước vào văn phòng và làm như biết rõ từng chi tiết cuộc họp của bồi thẩm đoàn hôm đó. Nhưng khả năng cao là ông ấy chỉ nói bừa. Ở thành phố này, nếu có người tìm ra được sự thật, hẳn là Harry Rex.

Wiley Meek ghé văn phòng kể cho tôi chuyện xôn xao trong thành phố. Ở các quán cà phê, bà con đang bàn tán dữ lắm. Padgitt là cái tên bị xỉ vả. Lucien Wilbanks cũng bị chửi, nhưng đó là chuyện thường rồi. Cảnh sát trưởng Coley có lẽ cũng sắp về vườn, đợt bầu cử tới, ông ta kiếm được cùng lắm là 50 phiếu. Hai đối thủ của Coley đang vươn lên và chỉ còn sáu tháng nữa là đến ngày bầu cử.

Có người bảo là trong bồi thẩm đoàn, 11 người bỏ phiếu tử hình chỉ có một người chống. “Có lẽ là mụ da đen,” cái câu đó cứ được lặp đi lại trong Trà Quán lúc bảy giờ sáng thứ Bảy. Người ta rỉ tai nhau là một cảnh sát đứng gác phòng bồi thẩm đoàn kể rằng tỷ lệ thuận chống là sáu-sáu, nhưng đến 9:00, câu chuyện này cũng bị dìm xuống. Đến cuối giờ sáng hôm đó, ở các quán quanh quảng trường, chỉ còn lại hai giả thuyết được đa số ủng hộ nhất. Một là bà Callie đã phá đám vì bà là người da đen. Hai là nhà Padgitt đã dùng tiền mua chuộc hai hoặc ba bồi thẩm hệt như cách họ đã làm với “con đàn bà dối trá” Lydia Vince.

Wiley nghĩ giải thuyết thứ hai có vẻ được nhiều người ủng hộ hơn, dù tôi biết rõ là nhiều người sẵn sàng tin bất kỳ chuyện gì người ta đồn đại. Nên kết luận của tôi sáng đó là mặc kệ mấy chuyện đồn ở quán cà phê, chúng chẳng là gì cả.

Chiều thứ Bảy, tôi băng qua đường tàu, chầm chậm lái vào Hạ trấn. Đường phố ở đây có vẻ nhộn nhịp với nhiều trẻ con đạp xe, thanh niên chơi bóng rổ, nhiều người ra trước hiên ngồi, nhạc xập xình vang lên qua những cánh cửa mở và tiếng cười đùa trước những cửa tiệm. Ai cũng ra đường, như để xả hơi trước khi bước vào không khí tĩnh nguyện tối thứ Bảy. Ai cũng ngoái lại nhìn, vẫy tay về phía tôi, nhưng có lẽ họ thích thú chiếc xe nhỏ gọn của tôi hơn là màu da sáng

Trước hiên nhà bà Callie có mấy người đang ngồi. Al, Max và Bobby ngồi với mục sư Thurston Small và vài chấp sự hội thánh ăn vận đẹp. Ông Esau thì đang ở trong nhà chăm sóc cho vợ. Sáng nay bà vừa được xuất viện kèm lời dặn dò kỹ lưỡng là phải nằm yên trên giường, tuyệt đối không được làm bất kỳ việc gì. Max dẫn tôi vào phòng thăm bà.

Bà Callie đang ngồi trên giường, kê gối sau lưng, đọc Kinh Thánh. Nụ cười nhẹ nhoẻn trên môi bà khi thấy tôi, “Anh Traynor, gặp anh tôi mừng quá. Anh ngồi đi. Esau, lấy cho anh Traynor tách trà với.” Như thường lệ, ông Esau liền nhanh nhẹn làm theo lệnh bà.

Tôi ngồi vào cái ghế gỗ cứng đặt kế giường bà. Bà ngồi một chỗ, nhưng trông hoàn toàn khỏe mạnh, nên tôi cũng nhẹ cả người. “Tôi thấy hơi lo về bữa trưa thứ Năm thường lệ đấy,” tôi mở lời đùa vui, và cả hai cùng cười.

“Tôi sẽ nấu mà,” bà nói.

“Không được đâu. Tôi có ý này hay hơn. Để tôi đem đồ ăn đến nhé.”

“Tôi nấu được mà, có gì khó khăn đâu.”

“Tôi sẽ mua đồ ăn chỗ nào đó. Món gì nhẹ nhàng thôi, như sandwich chẳng hạn.”

“Sandwich cũng được đấy,” bà nói, đưa tay vỗ nhẹ lên đầu gối tôi. “Cà chua nhà tôi cũng sắp chín rồi.”

Chợt tay bà không vỗ gối tôi nữa, nụ cười vụt tắt, đôi mắt bỗng nhìn ra xa xăm. “Chúng tôi đã không làm được việc phải làm, phải không, anh Traynor?” Giọng bà vừa buồn vừa bực.

“Mọi người không thích bản án đó lắm,” tôi nói.

“Tôi cũng không thích,” bà đáp.

Và đó cũng là sự đối xử bà sắp phải chịu trong nhiều năm tới. Về sau, ông Esau có kể cho tôi là 11 bồi thẩm kia đã thề trên Kinh Thánh rằng sẽ không nói về quyết định của những người trong bồi thẩm đoàn. Bà Callie thì không thề trên Kinh Thánh, nhưng đã hứa với họ là sẽ giữ bí mật.

Tôi để bà nghỉ ngơi rồi đi ra hiên, lắng nghe các con bà và mấy vị khách ở nhà thờ nói về chuyện cuộc đời. Tôi ngồi một góc, uống trà, cố không can dự sâu vào cuộc chuyện trò của họ. Nhiều lúc, tôi thả mình lắng nghe âm thanh của Hạ trấn buổi chiều muộn.

Sau vài tiếng, mục sư và các chấp sự ra về, chỉ còn các anh con trai nhà Ruffin. Cuộc chuyện trò bắt đầu chuyển sang phiên tòa, phán quyết và phản ứng của dân bên này đường ray.

“Hắn đã đe dọa bồi thẩm đoàn thật sao?” Max hỏi tôi. Tôi thuật lại câu chuyện, ông Esau phụ họa thêm các chi tiết. Cả ba người con của họ đều sốc hệt như chúng tôi lúc đó trong phòng xử.

“Ơn trời là hắn phải ngồi sau song sắt cả đời,” Bobby nói, và tôi thật sự không nỡ lòng nào nói ra sự thật cho họ. Họ cực kỳ tự hào về mẹ mình, như lâu nay vẫn vậy.

Tôi thì quá mệt mỏi và chán nản, chẳng muốn dính líu gì đến phiên tòa đó nữa. Tầm 9:00 tối tôi ra về, lái xe chầm chậm qua Hạ trấn, lòng thầm nhớ Ginger.

Clanton xôn xao vì bản án đó suốt mấy ngày. Tòa soạn đã nhận được 18 lá thư gửi tổng biên tập, sáu trong số đó được tôi chọn đăng. Ba lá hoàn toàn nói về phiên tòa, và dĩ nhiên chúng càng khuấy động công luận hơn nữa.

Tôi cứ nghĩ thành phố này sẽ nói mãi về Danny Padgitt và Rhoda Kassellaw, thế mà đột nhiên, chuyện lắng hẳn đi. Trong chớp mắt, đúng ra là trong chưa đầy 24 giờ, phiên tòa đó đã chìm vào quên lãng.

Thành phố Clanton, dù là Thượng trấn hay Hạ trấn, đều có những việc quan trọng hơn để làm.