PHẦN HAI CHƯƠNG 21
Theo một phán quyết dứt khoát và không chấp nhận trì hoãn, Tòa án ra lệnh bãi bỏ ngay hệ thống trường học tách biệt chủng tộc. Không còn trì hoãn, kiện tụng, hứa hẹn gì nữa, phải hợp nhất chủng tộc trong trường học ngay lập tức. Và Clanton choáng váng trước quyết định này, hệt như mọi thành phố khác ở miền Nam.
Harry Rex đem văn bản phán quyết đó cho tôi xem, giải thích những điểm phức tạp của nó. Nhưng mà có gì phức tạp đâu. Mọi học khu đều phải ngay lập tức thi hành kế hoạch xóa bỏ phân tách chủng tộc.
Ngậm điếu xì gà chưa châm lửa trên miệng, Harry Rex buông giọng dự báo, “Chuyện này sẽ giúp báo bán chạy đây.”
Đúng là thế, khắp thành phố mở ra đủ loại cuộc họp lớn nhỏ, và tôi tường thuật lại hết. Vào một tối oi ả giữa tháng 7, một buổi họp lớn được tổ chức ở sân thể thao của trường. Các khán đài chật kín những bậc phụ huynh đầy quan ngại. Ông Walter Sullivan, luật sư của tờ Thời báo kiêm luật sư của trường này, là diễn giả chính, một mình ông nói gần hết buổi vì đằng nào ông đâu có tham gia tranh cử. Các chính khách thích nấp sau lưng ông hơn. Ông nói thẳng toạc, không úp mở gì, thông báo rõ ràng rằng trong sáu tuần nữa, hệ thống trường học mới của Hạt Ford sẽ được triển khai và hoàn toàn xóa bỏ phân tách chủng tộc.
Tại trường của người da đen ở phố Burley cũng có một cuộc họp nho nhỏ. Tôi và Baggy đã đến đó, đưa theo cả Wiley Meek để chụp ảnh. Và ở đây, cũng vẫn là ông Sullivan giải thích sự tình cho mọi người. Bài nói chuyện của ông đã hai lần phải tạm dừng vì người ta vỗ tay tưng bừng quá.
Sự khác biệt giữa hai cuộc họp quá rõ ràng. Các phụ huynh da trắng giận dữ và lo sợ, tôi còn thấy một vài cô khóc rấm rứt. Ngày định mệnh mà họ lo sợ cuối cùng đã đến. Còn với người da đen, đây là chiến thắng. Các phụ huynh da đen cũng bận tâm, nhưng họ còn có tâm trạng phấn khởi vì cuối cùng con cái họ sẽ được đăng ký học ở những trường tốt hơn. Dù còn nhiều việc nữa phải làm để thay đổi chuyện việc làm, nhà ở và phúc lợi y tế, nhưng hội nhập chủng tộc trong trường công đã là một bước tiến lớn trong cuộc đấu tranh vì quyền công dân.
Bà Callie và ông Esau cũng đến dự buổi đó. Họ vốn là những người rất được trọng vọng ở Hạ trấn này. Sáu năm trước, họ đã dắt Sam đến trường da trắng và đẩy cậu ấy vào hang hùm. Tình cảnh suốt ba năm trời làm người da đen duy nhất trong lớp đã khiến cậu và gia đình phải trả một cái giá quá đắt. Nhưng giờ chuyện đó có vẻ là cái giá hoàn toàn xứng đáng, ít ra là với ông bà Ruffin. Chỉ tiếc là giờ tôi không biết Sam ở đâu để mời phỏng vấn.
Còn có thêm một cuộc họp ở Nhà thờ First Baptist, người tham dự chỉ toàn là da trắng thuộc giới trung lưu khá giả. Lâu nay họ đã họp để gây quỹ xây dựng một trường tư và hiện giờ chuyện đó càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Hội đó có một số bác sĩ, luật sư, hầu hết là kiểu dân câu lạc bộ đồng quê. Có vẻ con cái họ ở một tầm quá cao, không thể nào học chung với những đứa trẻ da đen được.
Họ nhanh chóng lập kế hoạch mở lớp học ở một nhà máy bỏ hoang phía nam thành phố. Họ sẽ thuê tòa nhà đó trong một hoặc hai năm, chờ đến khi chiến dịch gây đủ quỹ lập trường mới. Thế là họ nháo nhào đi tìm thuê giáo viên, đặt sách, nhưng còn có một nhiệm vụ cấp thiết hơn nữa, hơn cả việc tránh xa dân da đen là làm sao để lập một đội bóng bầu dục. Nhiều lúc bầu không khí có vẻ kích động đến điên rồ, như thể một trường với 75% học sinh da trắng sẽ là mối đe dọa khủng khiếp đến an nguy của con cái giới trung lưu da trắng này vậy.
Tôi đã viết nhiều bài dài với những tiêu đề đầy táo bạo và thấy rõ Harry Rex đã đúng. Báo bán chạy cực kỳ. Đến cuối tháng 7 năm 1970, con số phát hành của chúng tôi đã lên đến năm ngàn, một sự thay đổi toàn diện. Sau vụ Rhoda Kassellaw và chuyện xóa bỏ phân tách chủng tộc, tôi đã nghiệm ra hoàn toàn câu nói của Nick Diener, bạn tôi ở Syracuse. “Một tờ tuần báo ở thành phố nhỏ chẳng in báo, in tiền thì đúng hơn.”
Tôi cần tin và Clanton này luôn có. Tuần nào thiếu tin thì tôi sẽ đăng một bài thổi phồng về đơn kháng cáo của nhà Padgitt. Nó thường nằm ở cuối trang nhất và viết theo kiểu như thể hắn sắp được ra khỏi nhà tù Parchman rồi. Tôi không chắc độc giả của tôi giờ còn quan tâm chuyện này lắm không. Đầu tháng 8, lại có chuyện để đăng khi Davey Bigmouth Bass giải thích cho tôi về những nghi thức của bóng bầu dục trung học.
Wilson Caudle chẳng hứng thú gì với thể thao, một chuyện cũng chẳng sao cả, trừ việc toàn bộ dân ở Clanton này ai cũng sống chết với đội Cougars vào mỗi tối thứ Sáu. Thế là ông luôn nhét bài của Bigmouth vào trang cuối, còn chẳng thèm kèm ảnh. Nhưng tôi lại ngửi thấy mùi tiền, và giờ đội Cougars được chuyển thành tin trang nhất.
Sự nghiệp bóng bầu dục của tôi đã kết thúc từ năm lớp 9, dưới tay lão huấn luyện viên bẩn tính vốn là một cựu binh Thủy quân lục chiến. Memphis vào tháng 8 thì chẳng khác gì miền nhiệt đới, thật chẳng thích hợp để tập bóng bầu dục chút nào. Vậy mà tôi đã phải chạy nhiều vòng quanh sân, chạy hết tốc lực với đầy đủ trang bị trên người, dưới cái nóng 34 độ, và lão huấn luyện viên đó còn không cho chúng tôi uống nước. Sân tennis nằm sát sân bóng bầu dục của chúng tôi, vừa nôn ọe xong, tôi ngước mắt lên thì thấy hai trai hai gái đang đánh tennis. Có con gái là đã thích rồi, nhưng cái đập vào mắt tôi lúc đó là những chai nước lạnh lớn để sẵn cho họ uống lúc nào cũng được.
Vậy là tôi bỏ bóng bầu dục, chuyển sang với tennis và các bạn gái xinh đẹp, một quyết định tôi chưa bao giờ phải hối tiếc. Các trận của đội bóng trường tôi diễn ra vào các chiều thứ Bảy, nên tôi lại càng xa lạ với bầu khí phát cuồng của những trận bóng chuyên nghiệp tối thứ Sáu.
Nhưng giờ tôi sẵn sàng để hòa mình trở lại vào không khí thể thao này rồi.
Khi đội Cougars tập trung cho buổi luyện tập đầu tiên, Bigmouth và Wiley đã đến chụp hình, lấy tin. Chúng tôi đăng trên trang nhất một tấm ảnh thật lớn, chụp bốn cầu thủ, hai đen hai trắng, và một tấm nữa chụp ban huấn luyện, trong đó có một người da đen. Bigmouth viết vài bài về đội Cougars, các cầu thủ và triển vọng của đội trong mùa này, dù họ chỉ mới bước vào tuần luyện tập đầu tiên.
Chúng tôi tường thuật lễ khai giảng, phỏng vấn các học sinh, giáo viên và ban giám hiệu, bài nào cũng mang hơi hướng tích cực. Thật sự là vào mùa tựu trường tháng 8, Clanton có chút bất ổn về chủng tộc vốn không phải chuyện lạ gì ở vùng Thâm Nam.
Tờ Thời báo đã viết nhiều bài dài về các cổ vũ viên, ban nhạc, các đội thể thao học đường, mọi thứ chúng tôi nghĩ ra được. Và bài nào cũng kèm ảnh. Tôi chẳng biết có bao nhiêu cô cậu ở đây chưa được lên mặt báo của chúng tôi, nhưng chắc là không nhiều.
Trận bóng bầu dục đầu tiên trong mùa giải năm nay là trận tương tàn nội bộ với Karaway, thành phố kế cận, nhỏ hơn nhiều nhưng lại có huấn luyện viên giỏi hơn hẳn. Tôi ngồi xem cùng Harry Rex, và hai chúng tôi hò hét đến khản cả giọng. Mọi khán đài đều kín chỗ và hầu hết là dân da trắng.
Và vào tối thứ Sáu đó, những người da trắng vốn lâu nay phản đối quá gay gắt chuyện tiếp nhận học sinh da đen, đột nhiên thay đổi tâm thức hẳn. Trong hiệp một của trận đầu tiên, ngôi sao mới của làng bóng bầu dục đã xuất hiện. Ricky Patterson, một cậu bé da đen nhỏ con đã cầm bóng chạy một mạch hơn 70 mét ngay lần chạm bóng đầu tiên. Lần thứ hai, cậu ấy chạy một mạch 40 mét, và từ đó trở đi, mỗi khi bóng đến tay cậu ấy là cả khán đài đều đứng phắt dậy reo hò. Sáu tuần sau khi lệnh xóa bỏ phân tách chủng tộc được ban ra, những người mà tôi vốn thấy là bất dung, hẹp hòi giờ đang đứng dậy hò hét như điên mỗi khi Ricky có bóng.
Clanton thắng sát nút 34-30, và tờ báo chúng tôi chẳng ngại ngần chộp lấy ngay cơ hội này. Toàn bộ trang nhất chẳng viết gì ngoài bóng bầu dục. Chúng tôi còn lập tức mở giải Cầu thủ của tuần với học bổng 100 đô chuyển đến một quỹ mơ hồ nào đó mà vài tháng sau chúng tôi mới biết nó là gì. Ricky là người đầu tiên nhận giải này, thế là có thêm một bài phỏng vấn kèm tấm ảnh bự chảng.
Khi Clanton toàn thắng bốn trận đầu giải, tờ Thời báo càng có cơ hội khuấy động thêm bầu khí phát cuồng này. Kết quả là con số phát hành của chúng tôi lên đến 5500.
Vào một ngày nóng đầu tháng 9, tôi rảo bộ qua quảng trường đến ngân hàng, trong bộ đồ thường lệ, quần jean bạc, áo sơ mi cotton nhăn nhó, tay áo xắn lên, đi giày lười không tất. Lúc đó, tôi chỉ là cậu trai 24 tuổi, nhưng nhờ đang nắm trong tay một cơ sở kinh doanh nên tâm trí tôi dần xa rời trường đại học và bắt đầu hướng đến sự nghiệp, dù là rất chậm. Tôi vẫn để tóc dài, ăn vận như sinh viên và thường chẳng mấy để tâm đến trang phục hay hình tượng.
Nhưng không phải ai cũng thấy thoải mái với chuyện đó. Ông Mitlo vừa thấy mặt liền lôi tôi vào cửa hàng phụ kiện may mặc của ông. “Tôi chờ cậu mãi,” ông nói bằng chất giọng nước ngoài đặc sệt vốn hiếm thấy ở Clanton này. Mitlo là người gốc Hungary, đã trốn khỏi châu Âu, để lại một hai đứa con gì đó. Tôi vốn đã liệt ông vào danh sách những người có chuyện đời thú vị để nhắm viết bài khi mùa giải bóng bầu dục kết thúc.
“Nhìn cậu đi!” ông buông câu giễu cợt khi ngay khi tôi vừa vào cửa hàng. Nhưng mặt ông lại đang cười, và với những người nhập cư, ta dễ dàng bỏ qua sự thô lỗ của họ vì vấn đề ngôn ngữ.
Nghe ông nói vậy, tôi cũng nhìn lại mình. Có vấn đề gì nhỉ? Rõ ràng là quá nhiều. “Cậu là một người chuyên nghiệp” ông bắt đầu giảng bài cho tôi. “Một yếu nhân của thành phố này mà lại ăn mặc như... ừm... ông bắt đầu gãi gãi cằm trong lúc tìm từ.
Tôi cố giúp ông một lời. “Sinh viên.”
“Không,” ông nói, vẫy tay như thể sinh viên cũng đâu trông thảm như tôi. Cuối cùng, ông cũng từ bỏ nỗ lực ngôn ngữ học phức tạp này và tiếp tục giảng bài.
“Cậu là người độc nhất vô nhị. Có bao nhiêu người làm chủ một tờ báo chứ? Cậu có học, càng hiếm ở đây, lại là dân gốc Bắc! Cậu trẻ, phải, nhưng đừng để mình có vẻ thiếu chín chắn. Ta phải khắc phục diện mạo cho cậu thôi.”
Vậy là chúng tôi bắt tay vào việc này, dù thật ra là tôi bị ép làm thế. Ông Mitlo đăng rất nhiều quảng cáo trên tờ Thời báo , nên tôi chắc chắn chẳng thể làm ngơ ông được. Hơn nữa, ông nói cũng có lý. Thời sinh viên đã qua, tuổi nổi loạn đã là dĩ vãng. Tôi đã qua được chiến tranh Việt Nam, những năm 1960 đầy biến động và đại học. Dù hiện giờ tôi chẳng hề tính chuyện vợ con nhưng cũng bắt đầu cảm nhận được tuổi tác của mình rồi.
“Cậu phải mặc vest,” ông quyết định thay tôi. Người ta kể là ông Mitlo từng tới trước mặt giám đốc ngân hàng, và ngay trước mặt bao người, chê bai cái áo sơ mi xấu, bộ vest không đồng bộ và cái cà vạt xám xịt của ông ấy. Harry Rex chẳng ưng gì ông Mitlo và ngược lại.
Tôi không định bắt đầu khoác lên mình mấy bộ vest xám và giày da wingtip đâu. Ông Mitlo lôi ra một bộ vest sọc xanh, một áo sơ mi trắng, rồi đi đến giá để cà vạt chọn ra một chiếc nơ sọc đỏ vàng cực chuẩn. “Thử bộ này đi,” ông đưa tôi bộ đồ ông tuyển rồi chỉ tay về phòng thử đồ. Ơn trời, cửa hàng hôm nay vắng người. Tôi đâu còn chọn lựa nào nữa, đành thử bộ đồ lên người, nhưng đến cái nơ thì chịu, chẳng đeo vào được. Vậy là ông Mitlo bước tới sửa nhanh giúp tôi. “Đẹp hơn nhiều rồi,” ông vừa nói vừa ngắm nghía thành quả của mình. Tôi đứng đó ngắm mình trong gương một hồi khá lâu. Tôi không chắc đây là cảm giác gì, nhưng thấy khá thú vị về sự thay đổi này. Bộ đồ trên người cho tôi cá tính và đẳng cấp khác hẳn. Dù muốn hay không tôi cũng phải mua bộ này và mặc nó ít nhất một lần.
Để thêm nét chấm phá, ông Mitlo tìm thêm một cái mũ phớt trắng vừa vặn với cái đầu bờm xờm của tôi. Khi chỉnh mũ, ông giật giật mớ tóc trên tai tôi, “Nhiều tóc quá. Cậu là một người chuyên nghiệp nhé. Cắt đi.”
Tôi để lại cho ông sửa lưng quần và ủi áo sơ mi, rồi hôm sau ghé lại lấy bộ cánh mới của mình. Dự định của tôi là đem về nhà, rồi chờ, chờ lâu lắm đến hôm nào thành phố bớt tấp nập mới đem ra mặc và đi thẳng đến tiệm của ông Mitlo để ông tận mắt thấy tôi trân trọng hảo ý của ông thế nào.
Nhưng dĩ nhiên, ông lại có dự định khác. Ông nhất quyết bảo tôi phải mặc thử, và khi tôi đã mặc thử rồi, ông lại nhất quyết bắt tôi phải đi một vòng quảng trường để cho người ta trầm trồ.
“Thật sự giờ tôi bận lắm,” tôi cố hết sức từ chối vì ngay lúc này tòa vi cảnh đang xử và khu trung tâm thành phố nhộn nhịp người qua lại.
“Tôi nhất quyết đấy,” ông vẫy vẫy ngón tay như thể tuyệt đối không thương lượng.
Ông chỉnh mũ cho tôi rồi bồi thêm phụ kiện cuối cùng là điếu xì gà mà ông tự tay cắt, nhét vào miệng tôi và châm lửa giúp. “Một diện mạo thật uy lực,” ông nói, không giấu vẻ tự hào. “Nhà xuất bản duy nhất của thành phố mà. Giờ lên đường nào.”
Tôi đi qua dãy nhà đầu tiên, chẳng ai nhận ra đó là tôi. Hai nông dân đứng trước tiệm hạt giống ngoái lại nhìn tôi, tôi cũng nhìn họ và thấy không ưa áo quần của họ chút nào. Với điếu xì gà trên môi, tôi thấy mình như Harry Rex vậy. Hơn nữa, điếu của tôi đã châm lửa và rất bự. Tôi nghĩ nên tạt qua văn phòng ông chơi.
Bà Gladys Wilkins là người điều hành đại lý bảo hiểm với chồng. Bà tầm bốn mươi, khá đẹp và lúc nào cũng ăn diện Khi thấy tôi, bà đứng sững như trời trồng, “Trời, Willie Traynor. Cậu bảnh quá.”
“Cảm ơn bà.”
“Cậu làm tôi nhớ đến Mark Twain đấy.”
Tôi chào bà, tiếp tục sải bước, lòng càng hưng phấn hơn. Hai viên thư ký cũng ngoái nhìn. “Cái nơ đẹp lắm,” một trong hai người khen tôi rõ to. Bà Clare Ruth Seagraves thì chặn tôi lại, nói mãi về một bài tôi đã viết mấy tháng trước mà giờ chẳng còn nhớ nữa. Bà vừa nói vừa ngắm từ trên xuống dưới bộ vest của tôi, cả cái nơ, cái mũ, nhưng chẳng để ý điếu xì gà. “Trông cậu điển trai quá, cậu Traynor,” cuối cùng bà cũng nói ra điều muốn nói và có vẻ bẽn lẽn vì lỡ miệng nói thẳng Tôi chầm chậm rảo bước quanh quảng trường và cảm thấy có lẽ ông Mitlo nói đúng. Tôi là dân chuyên nghiệp, nhà xuất bản, yếu nhân của Clanton, nên phải có hình tượng mới chứ.
Nhưng mà tôi phải kiếm loại xì gà nào nhẹ hơn điếu này chút. Dạo xong một vòng quảng trường, tôi cũng đã hơi phê thuốc và phải kiếm chỗ ngồi nghỉ.
Ông Mitlo đặt thêm cho tôi một bộ vest sọc xanh và hai bộ xám nhạt. Tự ông quyết định là đồ của tôi sẽ không tối màu như dân luật sư và ngân hàng, mà phải sáng sủa, thật ngầu và có chút độc đáo. Ông không từ nan gì để tìm cho tôi mấy cái nơ độc nhất vô nhị, lại còn bỏ công tìm thêm loại vải thích hợp để may sẵn đồ cho mùa thu đông.
Trong vòng một tháng, Clanton đã dần quen mắt với nhân vật bảnh bao mới mẻ này. Tôi ngày càng được nhiều người chú ý, nhất là các bà các cô. Mới đầu, Harry Rex cười cợt tôi, dù bộ cánh của ông ấy cũng lố lắm.
Nhưng chẳng sao, miễn các cô gái ở đây thích là được.