← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 22

Vào cuối tháng 9, hai nhân vật tầm cỡ của thành phố lần lượt qua đời trong vòng một tuần. Đầu tiên là ông Bớt Wilson Caudle. Ông chết ở nhà, cô đơn trong phòng ngủ mà ông giam mình suốt từ khi rời tờ Thời báo . Thật lạ là suốt sáu tháng lên nắm quyền tờ báo tôi chẳng hề hỏi han ông gì cả, nhưng cũng có thể thông cảm được, vì thời gian qua mọi chuyện rối ren quá và chắc chắn, tôi chẳng cần lời khuyên của ông làm gì. Một chuyện làm tôi thấy buồn hơn nữa là suốt sáu tháng qua cũng chẳng có ai tìm tới nói chuyện với ông.

Ông mất vào hôm thứ Năm, tang lễ vào thứ Bảy. Hôm thứ Sáu, tôi vội vã đến chỗ ông Mitlo để kiếm một bộ đồ đưa tang phù hợp với người vai vế như tôi. Ông nhất quyết tôi phải mặc vest đen, còn chọn cho tôi một cái nơ cực chuẩn, mảnh, sọc đen và nâu sẫm, rất tôn nghiêm, rất trang trọng, và khi thắt nó đi quanh, tôi cũng cảm thấy rõ nó tôn hình ảnh tôi lên vô cùng. Ông lấy thêm một mũ phớt đen trong bộ sưu tập riêng của mình, tự hào cho tôi mượn nó đi dự tang lễ. Với ông, cái mũ quan trọng lắm, như câu ông hay nói, “Thật đáng tiếc khi dân Mỹ chẳng chịu đội mũ nữa.”

Phụ kiện cuối cùng là một cây batoong gỗ đen sáng bóng.

Khi ông đưa nó ra, tôi chỉ đứng trơ mắt nhìn. “Tôi không cần gậy đâu. Thật mà, cầm batoong trông như thằng khùng.”

“Đây là gậy đi đường nhé,” ông vừa nói vừa dúi vào tay tôi.

“Thế thì có gì khác nhau chứ?”

Vậy là ông giảng một bài rối tung rối mù về vai trò trọng đại của gậy đi đường trong cuộc cách mạng thời trang nam ở châu Âu hiện đại. Ông nói bằng tất cả say mê, và càng say mê thì chất giọng gốc Đông Âu của ông càng lấn át khiến tôi nghe mà chẳng hiểu mô tê gì. Tôi bèn cầm luôn cây gậy cho đỡ đứng trơ ra đó mất thời giờ.

Hôm sau, khi tôi đến nhà thờ Giám lý để dự tang lễ ông Bớt, các bà các cô đều ngoái lại nhìn tôi. Thậm chí vài ông cũng thế, dù cho hầu hết trong số họ thắc mắc tôi làm quái gì mà lại đội thêm mũ đen và cầm gậy. Ông Stan Atcavage, chủ ngân hàng mà tôi cộng tác, thầm thì với ai đó nhưng vừa đủ để tôi nghe được, “Chắc cậu ấy sẽ hát hò nhảy nhót cho ta xem mất.” “Lại quanh quẩn với ông Mitlo đây mà,” người khác thầm thì đáp lại.

Tôi vào ghế, vô tình gác cây gậy hơi mạnh tay, và tiếng “cộp” đó khiến mọi người giật bắn. Thật tình, tôi chẳng biết người ta để gậy thế nào khi ngồi vào hàng ghế trong nhà thờ. Thế là tôi bèn cầm nó, nhét vào giữa hai chân, còn cái mũ thì gác trên đùi. Tạo hình tượng đúng là vất vả thật. Tôi nhìn quanh và thấy ông Mitlo. Ông đang đi đưa đám mà cứ nhìn về phía tôi, hớn hở vô cùng.

Ca đoàn bắt đầu hát bài “Ân sủng diệu kỳ” và cả cộng đoàn chìm vào tâm trạng tiếc thương. Mục sư Clinkscale điểm qua những nét chính trong cuộc đời ông Bớt, sinh năm 1896, con một của bà Emma Caudle, góa vợ và không con, cựu binh Thế chiến I, chủ biên của tờ tuần báo hạt suốt hơn 50 năm ròng và là người đưa cáo phó lên tầm nghệ thuật.

Mục sư nói một hồi rồi đến một bài đơn ca tiễn đưa xua bớt đi không khí buồn tẻ. Đây là tang lễ thứ tư tôi dự ở Clanton. Trước đó, trừ ngày tiễn đưa mẹ mình, tôi chưa hề dự tang lễ nào. Trong một thành phố nhỏ, tang lễ là những sự kiện xã giao, và tôi thường nghe người ta nói những câu như, “Buổi lễ hay quá” hoặc “Bảo trọng nhé, hẹn gặp ở tang lễ,” nhưng không gì bằng được câu “Hẳn bà ấy thích tang lễ này lắm.”

Và “bà ấy” ở đây là người nằm trong quan tài ấy.

Đến ngày tang lễ ai cũng tạm nghỉ việc và mặc bộ đồ đi lễ nhà thờ đẹp nhất. Chỉ có dân bất chấp xã hội mới không đến dự tang lễ mà thôi. Và vì tôi đã có quá nhiều cái khác lạ với dân hạt này rồi, nên rõ ràng tôi phải thực hiện nghiêm túc việc kính viếng người đã khuất cho đàng hoàng.

Người chết thứ hai ra đi vào đúng tối hôm đó, và hôm thứ Hai, vừa nghe tin dữ, tôi liền chạy về nhà lục tìm khẩu súng của mình.

Malcolm Vince đã bị bắn hai phát vào đầu khi anh rời một quán bar nhạc sống ở một khu hẻo lánh tại Hạt Tishomingo. Hạt này vốn không có thói ăn chơi, và quán bar nhạc sống bị xếp vào hạng phi pháp, chính vì thế phải mở lậu ở những vùng hẻo lánh trong rừng.

Cũng chính vì thế mà vụ án mạng này chẳng có nhân chứng nào. Malcolm đang uống bia và đánh bida, cư xử bình thường, không hề gây sự gì. Hai người quen của anh thuật lại với cảnh sát rằng sau ba tiếng ở quán, Malcolm ra về một mình vào tầm 11:00 đêm. Anh vui vẻ, không say. Anh chào tạm biệt họ, bước ra ngoài, và ngay lập tức, họ nghe thấy tiếng súng. Cả hai người khẳng định anh không đem theo súng.

Chỗ đó nằm ở cuối một con đường đất, cách đường nhựa tầm gần nửa cây số, đoạn rẽ vào có một người cầm shotgun đứng gác và việc của anh ta là báo động cho chủ quán nếu có cảnh sát hay kẻ nào khả nghi lại gần. Tishomingo nằm trên xa lộ nội bang, và dân ở đó có thâm thù huyết hận với đám giang hồ ở Alabama. Quán bar nhạc sống là những nơi thường được họ chọn để thanh toán trả đũa nhau. Người gác có nghe tiếng súng đoạt mạng Malcolm và cam đoan rằng sau đó không thấy có xe nào chạy ra khỏi đó. Làm gì có xe nào qua mặt được anh ta.

Kẻ giết Malcolm, dù là ai, cũng đã đi từ phía rừng đến và phải là đi bộ. Tôi đã hỏi chuyện cảnh sát trưởng của Hạt Tishomingo. Ông ủng hộ giả thuyết đây là trả đũa chứ không phải một vụ đụng độ nhất thời thường thấy ở mấy quán bar như thế này.

“Ông nghĩ ra ai có thể là người muốn trừ khử anh Vince không?” Tôi hỏi mà trong lòng thầm mong sao câu trả lời sẽ là một kẻ nào đó có thâm thù với anh trong vùng đó.

“Tôi chẳng biết,” cảnh sát trưởng trả lời. “Cậu ấy sống ở đây chưa lâu mà.”

Suốt hai ngày liền, lúc nào tôi cũng để sẵn khẩu súng trong túi, nhưng rồi cũng dần thấy mệt với nó. Nếu nhà Padgitt muốn xử tôi hay một bồi thẩm, hay thẩm phán Loopus và Ernie Gaddis, hay bất kỳ ai chúng xem là đã góp phần tống Danny vào tù, thì thật tình, dù cố thế nào chúng tôi cũng khó lòng thoát nổi tay chúng.

Số báo tuần đó dành trọn cho ông Bớt Wilson Caudle. Tôi lục trong phòng tư liệu ra mấy tấm ảnh cũ và tung hết chúng lên trang nhất. Chúng tôi đăng những câu chuyện, giai thoại và sự tiếc thương đồng cảm của nhiều bạn bè dành cho ông. Rồi tôi góp nhặt tất cả đưa vào một bài cáo phó dài nhất lịch sử tờ báo này.

Ông Bớt xứng đáng được thế.

Nhưng về phần Malcolm Vince, tôi lại không chắc phải làm thế nào. Anh không phải là cư dân Hạt Ford, nên không hẳn đủ tư cách để được đăng cáo phó. Nhưng mấy chuyện đó chúng tôi linh hoạt lắm. Một cư dân ưu tú của Hạt Ford dù đã chuyển đi xa vẫn đủ tư cách để có được một bài cáo phó, nhưng rõ ràng người đó phải có gì đó để đáng lên mặt báo. Còn một người chỉ ở tạm hạt này vài năm, chẳng có gia đình, cũng không đóng góp mấy cho cộng đồng thì làm sao mà đủ tư cách. Và Malcolm Vince lại là thế.

Nếu tôi làm quá chuyện này lên, nhà Padgitt sẽ được hả hê vì đã thành công trong màn giết gà dọa khỉ cho cả hạt này thấy. Rõ ràng, hễ ai nghe nói đến vụ án mạng này đều chắc mẩm thủ phạm không ai khác ngoài nhà Padgitt. Và sự đe dọa của chúng sẽ lại bao trùm lên cả Clanton.

Nếu tôi làm ngơ chuyện này thì tôi sẽ là thằng hèn nhát, trốn tránh trách nhiệm của một nhà báo. Baggy nghĩ chuyện này đáng lên trang nhất, nhưng với màn tiễn đưa ông bạn già Bớt, rõ ràng là hết chỗ, nên tôi cho bài này lên trang ba kèm tiêu đề: NHÂN CHỨNG TRONG VỤ PADGITT BỊ GIẾT Ở HẠT TISHOMINGO. Ban đầu, tôi định viết là MALCOLM VINCE BỊ GIẾT Ở HẠT TISHOMINGO, nhưng Baggy cảm thấy chúng tôi nên để từ “PADGITT” cạnh chữ “GIẾT” thì mới ấn tượng. Dù vậy, bài báo đó, tôi chỉ viết vỏn vẹn 300 từ.

Vì chuyện này, tôi đã lái xe đến Corinth để đánh hơi. Harry Rex cho tôi thông tin về luật sư lo ly hôn cho Malcolm, Pud Perryman. Văn phòng của ông nằm ở Phố chính, giữa một tiệm hớt tóc và một tiệm may Trung Hoa. Vừa mở cửa bước vào, tôi đã cảm nhận được rằng đây chính là luật sư thất bát nhất tôi từng gặp. Nhiều vụ đi vào bế tắc, khiến thân chủ phật ý và phí luật sư cứ bị khất mãi, chuyện có lẽ là vậy. Tấm thảm trải sàn đã ố màu và xơ xác. Đồ nội thất là những thứ để lại từ thời thập niên 1950. Trong phòng phủ một màn khói xì gà, cả cũ và mới, thật tình chẳng tốt gì cho đầu óc của một người như tôi.

Nhìn ông Perryman cũng chẳng thấy dấu hiệu gì là sung túc. Ông tầm 45 tuổi, bụng bự, tóc tai bù xù, râu ria không cạo, đôi mắt đỏ au vì cữ rượu tối qua vẫn chưa giã hết. Perryman bảo tôi biết chuyên ngành của ông là ly hôn và tranh chấp tài sản, như thể đó là một chuyện ấn tượng lắm. Hoặc ông đã thu phí luật sư không đủ cao, hoặc ông toàn nhận mấy thân chủ không có gì để thật sự phải tranh chấp đến cùng.

Ông bảo cách đây một tháng, ông đã gặp Malcolm, và lục tìm tập hồ sơ về anh trong núi giấy tờ trên bàn làm việc. Đơn ly hôn chưa hề được trình lên tòa. Nỗ lực hòa giải giữa đôi bên chẳng đi đến đâu.

“Cô ta cao chạy xa bay rồi,” ông nói.

“Gì cơ?” tôi hỏi lại.

“Cô ta đi mất rồi. Sau phiên tòa đó là cô ta dọn đồ ra đi ngay. Đem theo đứa con và lặn mất tăm.”

Tôi thật sự không quan tâm chuyện của Lydia cho lắm. Tôi quan tâm kẻ nào đã bắn Malcolm kìa. Perryman đưa ra vài giả thuyết mơ hồ, chỉ cần tôi hỏi thêm vài câu căn bản là vô dụng ngay. Tôi thấy ông khá giống Baggy, một chuyên gia đàm tiếu, người chầu chực quanh tòa án, và nếu qua một tiếng mà chưa nghe được tin đồn gì hay ho thì liền tự mình bịa ra vậy.

Lydia không có bạn trai hay anh em hay bất kỳ ai có khả năng muốn bắn chết Malcolm vì chuyện lùm xùm ly dị này. Mà thật ra cũng đâu đã chính thức ly dị, nên chưa có gì đáng kể để khiến ai phải tức giận.

Tôi có cảm giác ông Perryman này thích nói lung tung và bịa chuyện cả ngày thay vì lo xử lý các vụ kiện của mình. Tôi ngồi trong văn phòng gần một tiếng vô ích rồi cuối cùng cũng cáo từ được để ra ngoài hít lấy hít để không khí trong lành.

Sau đó, tôi lái thêm 30 phút đến Iuka, nơi đặt tòa án của Hạt Tishomingo và gặp cảnh sát trưởng Spinner vừa kịp lúc để mời ông đi ăn trưa. Bên con gà nướng trong một quán ăn khá đông đúc, ông giúp tôi cập nhật thông tin về vụ án mạng này. Kẻ gây án quá gọn gàng chứng tỏ hắn nắm rõ vùng này. Cảnh sát chẳng tìm được chứng cứ gì, dấu giày, vỏ đạn đều không có. Dựa trên viên đạn gây sát thương, họ xác định hung khí là một khẩu Magnum 44 ly, và hai phát đạn bắn ra đã thổi bay đầu Malcolm. Để thể hiện uy lực, cảnh sát trưởng lôi khẩu súng lục của mình đưa cho tôi. “Súng này 44 ly đấy.” Tôi cầm trên tay, thấy nó nặng phải gấp đôi khẩu súng xoàng của tôi. Nghĩ đến mấy phát súng đó, tôi chẳng còn hứng thú ăn uống gì nữa.

Tìm được ai quen biết Malcolm, cảnh sát đã hỏi chuyện cả rồi. Malcolm sống ở hạt này chưa đầy năm tháng. Anh không có tiền án tiền sự gì, không hề tham gia vụ ẩu đả nào, cũng không đánh bạc, phá làng phá xóm hay say xỉn. Mỗi tuần một lần, anh ghé quán bar nhạc sống đó để đánh bida và uống bia, lặng lẽ và biết điều. Trong phạm vi sáu mươi ngày, không hề có khoản vay hay hóa đơn nào quá hạn. Cũng chẳng có dấu hiệu gì là có chuyện làm ăn phi pháp hay ngoại tình ghen tuông. “Tôi chẳng thấy có động cơ nào cả,” cảnh sát trưởng chốt lại. “Thật vô lý.”

Tôi cho ông biết là Malcolm đã ra làm chứng trong phiên tòa của Danny Padgitt, kể lại chuyện Danny đã đe dọa bồi thẩm đoàn thế nào. Ông lắng nghe chăm chú, và sau đó bỗng kiệm lời hẳn. Tôi có cảm giác ông muốn được yên thân ở Hạt Tishomingo và không dính dáng gì đến nhà Padgitt.

“Đấy có thể là động cơ gây án,” tôi chốt lại giả thuyết của mình.

“Báo thù sao?”

“Chắc chắn luôn. Chúng là đám man rợ mà.”

“Ừ, tôi có nghe về nhà đó rồi. Có lẽ chúng ta thật may mắn vì không nằm trong bồi thẩm đoàn đó nhỉ?”

Trên đường về Clanton, tôi chẳng thể nào quên được vẻ mặt của cảnh sát trưởng Spinner khi nói ra câu đó. Vẻ tự đắc của của một người bảo vệ pháp luật được vũ trang đã biến mất hoàn toàn, nhường chỗ cho vẻ mặt biết ơn của một người may mắn được làm việc cách xa nhà Padgitt hai hạt.

Cuộc điều tra của ông đến đó coi như đã xong.